Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

7. Tắc 17 - Tắc 19

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11969)
7. Tắc 17 - Tắc 19

BÍCH NHAM LỤC
Tác giả: Thiền sư Viên Ngộ - Việt dịch: HT. Thích Thanh Từ
Tu viện Chân Không 1980

TẮC 17

HƯƠNG LÂM NGỒI LÂU SANH NHỌC

LỜI DẪN: Chặt đinh cắt sắt mới đáng làm bổn phận Tông sư, né tên tránh đao đâu thể làm tác giả thông phương. Chỗ dùi châm chẳng vào hãy gác lại, khi sóng dậy ngập trời thì thế nào, thử cử xem?

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Hương Lâm: Thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang? Hương Lâm đáp: Ngồi lâu sanh nhọc.

GIẢI THÍCH: Hương Lâm nói “ngồi lâu sanh nhọc”, lại hiểu chăng? Nếu hiểu được thì trên đầu trăm cỏ dứt hết can qua, nếu chẳng hiểu thì lắng nghe xử phân. Cổ nhân đi hành cước chọn lựa bạn đồng hành để vạch cỏ xem gió(1). Khi ấy, Vân Môn thịnh hóa ở Quảng Nam, Hương Lâm thường ra đất Thục đồng thời với Nga Hồ, Cảnh Thanh, trước đến tham vấn Báo Từ ở Hồ Nam, sau mới đến trong hội Vân Môn làm Thị giả mười tám năm. Ở chỗ Vân Môn thân được, thân nghe, Sư ngộ tuy trễ, song quả là bậc đại căn khí. Sư ở bên cạnh Vân Môn mười tám năm, Vân Môn thường kêu “Thị giả Viễn”, Sư vừa đáp “dạ”, Vân Môn hỏi: “Là cái gì?” Khi ấy Hương Lâm cũng hạ ngữ, trình kiến giải, đùa tinh hồn, song trọn chẳng khế hợp. Một hôm Sư bỗng nhiên la: Con đã hội! Vân Môn bảo: Sao chẳng nói một câu hướng thượng xem? Sư ở thêm ba năm. Trong thất, Vân Môn phóng những đại cơ biện, hơn phân nửa vì Thị giả Viễn, tùy chỗ nhập tác. Vân Môn phàm có một lời một câu, trọn nhằm vào chỗ Thị giả Viễn. Sau Hương Lâm trở về đất Thục, ban đầu ở cung Thủy Tinh tại Đạo Giang, sau trụ chùa Hương Lâm ở Thanh Thành. Hòa thượng Tộ ở Trí Môn gốc người Chiết, nghe Hương Lâm giáo hóa thạnh hành liền đến đất Thục để tham lễ. Hòa thượng Tộ là thầy của Tuyết Đậu. Vân Môn tuy tiếp người vô số, song hiện thời đạo hành chỉ một phái Hương Lâm là thạnh hành. Sư trở về Tứ Xuyên trụ viện bốn mươi năm, được tám mươi tuổi mới thiên hóa. Sư thường nói: Ta bốn mươi năm mới thành một mảnh. Phàm dạy chúng, Sư nói: Đi hành cước tham tầm tri thức, cần để mắt mà đi, phải phân đen trắng, thấy cạn sâu mới được. Trước cần phải lập chí, đức Thích-ca khi còn tu nhân, phát một lời một niệm đều là lập chí. Sau này có vị Tăng đến hỏi: Thế nào là một ngọn đèn ở trong thất? Hương Lâm đáp: Ba người làm chứng rùa thành trạnh. Tăng lại hỏi: Thế nào là việc của kẻ áo nạp? Hương Lâm đáp: Tháng chạp lửa cháy núi.

Xưa nay đáp ý Tổ sư rất nhiều, chỉ có một tắc này của Hương Lâm là ngồi cắt đầu lưỡi người trong thiên hạ, không có chỗ cho ông suy tính đạo lý. Tăng hỏi: Thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang? Hương Lâm đáp: Ngồi lâu sanh nhọc. Đáng gọi là lời không vị, câu không vị, nói không vị, lấp bít miệng người, không có chỗ để ông hà hơi. Cần thấy liền thấy, nếu chẳng thấy tối kỵ khởi giải hội. Hương Lâm đã từng gặp bậc tác gia, cho nên có thủ đoạn của Vân Môn, có ba câu thể diệu. Nhiều người hiểu lầm nói: Tổ sư Tây sang chín năm ngồi xây mặt vào vách, há chẳng phải ngồi lâu sanh nhọc? Quả thật có trúng vào đâu. Chẳng thấy cổ nhân được đại tự tại, chân đạp đến đất thật, không có nhiều thứ Phật pháp, tri kiến, đạo lý, gặp việc liền ứng dụng. Thế nên nói “pháp theo pháp hành, pháp tràng tùy chỗ dựng lập”. Tuyết Đậu nhân gió thổi lửa, ghé bên chỉ ra một cái nửa cái.

TỤNG:

Nhất cá lưỡng cá thiên vạn cá
Thoát khước lung đầugiác đà
Tả chuyển hữu chuyển tùy hậu lai
Tử Hồ yếu đả Lưu Thiết Ma.

DỊCH:

Một cái hai cái ngàn muôn cái
Lột bỏ dây dàm tháo yên cương
Xoay tả xoay hữu tùy kẻ sau
Tử Hồ cần đánh Lưu Thiết Ma.

GIẢI TỤNG: Tuyết Đậu liền đó như chọi đá nháng lửa, tợ làn điện chớp đẩy ra cho ông thấy. Ông nghe nói đến liền hội mới được. Sư quả là con cháu trong nhà, mới hay nói như thế. Nếu khéo thẳng đó liền hiểu thế ấy, quả là người kỳ đặc. Hai câu “một cái hai cái ngàn muôn cái, lột bỏ dây dàm tháo yên cương”, sạch trọi thong dong, chẳng bị sanh tử làm nhiễm, chẳng bị tình giải Thánh phàm trói buộc, trên không có chỗ vin theo, dưới bặt chấp ta mình, nhất như dường thể Hương Lâm, Tuyết Đậu, đâu những ngàn muôn cái, nhẫn đến mọi người trên quả đất thảy như thế, Phật trước Phật sau thảy như thế. Nếu như ở trong ngôn cú khởi giải hội, liền như Tử Hồ đánh Lưu Thiết Ma, vừa nêu lên theo tiếng liền đánh. Tử Hồ tham vấn Nam Tuyền cùng Triệu Châu, Trường Sa Cảnh Sầm là bạn đồng tham. Khi ấy, Lưu Thiết Ma cất am ở dưới núi Qui, các nơi đều nể bà. Một hôm, Tử Hồ đến tham vấn, hỏi: Có phải là Lưu Thiết Ma chăng? Thiết Ma đáp: Chả dám. Tử Hồ hỏi: Xoay bên trái (mài) hay xoay bên phải (mài)? Thiết Ma đáp: Hòa thượng chớ điên đảo. Tử Hồ theo tiếng liền đánh. Hương Lâm đáp câu hỏi của vị Tăng “thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang”, nói “ngồi lâu sanh nhọc”. Nếu thế ấy hội được thì xoay trái xoay phải tùy hậu lai. Hãy nói Tuyết Đậu tụng ra như thế là ý tại chỗ nào? Vô sự tốt, xin hãy cử xem?

TẮC 18

TRUNG QUỐC SƯ THÁP VÔ PHÙNG

CÔNG ÁN: Hoàng đế Túc Tông hỏi Quốc sư Huệ Trung: Sau khi trăm tuổi có cần vật gì? Quốc sư tâu: Vì Lão tăng xây cái tháp Vô Phùng. Vua hỏi: Xin Thầy cho kiểu tháp. Quốc sư im lặng giây lâu hỏi: Hiểu chăng? Vua nói: Chẳng hiểu. Quốc sư tâu: Tôi có đệ tử phó pháp là Đam Nguyên thông hiểu việc này, xin vời đến hỏi. Sau khi Quốc sư tịch, vua vời Đam Nguyên hỏi ý này thế nào, Đam Nguyên tâu: Phía Nam sông Tương, phía Bắc cái đầm (Tuyết Đậu trước ngữ: Một tay vỗ chẳng kêu), ở giữa vàng ròng đầy một nước (Tuyết Đậu trước ngữ: Núi hình cây gậy), dưới cây không bóng nên đồng thuyền (Tuyết Đậu trước ngữ: Sông trong biển lặng), trên điện Lưu-ly không tri thức (Tuyết Đậu trước ngữ: Nêu rồi vậy).

GIẢI THÍCH: Túc Tông, Đại Tông đều là con cháu của Huyền Tông, khi còn làm Thái tử thích tham thiền. Vì nước có nhiều trộm cướp, Huyền Tông dời sang đất Thục. Cố đô nhà Đường ở Trường An, bị An Lộc Sơn chiếm cứ, sau dời đô sang Lạc Dương. Khi Túc Tông lên nhiếp chánh thì Quốc sư Huệ Trung đang trụ am trên núi Bạch Nhai thuộc Đặng Châu, nay là đạo tràng Hương Nghiêm. Quốc sư hơn bốn mươi năm không xuống núi, đạo hạnh đồn đến tai vua. Niên hiệu Thượng Nguyên năm thứ hai (761), vua sai Trung sứ mời nhập nội, đãi theo lễ thầy trò rất là kính trọng. Quốc sư thường vì Vua diễn nói đạo vô thượng. Mỗi khi Quốc sư thối triều, Vua tự vin xe đưa đi, quần thần đều tỏ vẻ bực bội, muốn tâu Vua chỗ chẳng tiện đó. Quốc sư đủ Tha tâm thông, khi thấy Vua liền tâu: Tôi ở trước trời Đế Thích, thấy Thiên tử Túc Tán nhanh như làn điện chớp. Vua càng thêm kính trọng. Đến Đại Tông lên ngôi, lại mời Quốc sư ở chùa Quang Trạch mười sáu năm, tùy cơ nói pháp. Niên hiệu Đại Lịch thứ mười (775), Quốc sư thiên hóa. Hòa thượng Thanh Tỏa ở phủ Sơn Nam xưa là bạn đồng hành của Quốc sư, Quốc sư thường tâu Vua mời về triều, Vua mời ba phen mà không đến, lại mắng Quốc sư là đam danh ái lợi luyến trước nhân gian. Quốc sư làm Quốc sư đến ba triều đại, cha con nhà vua đều thích tham thiền. Cứ theo Truyền Đăng Lục khảo cứu thì câu hỏi này của Đại Tông hỏi. Câu hỏi Quốc sư: “thế nào là mười thân Điều Ngự”, mới là của Túc Tông.

Quốc sư duyên hết sắp vào Niết-bàn từ giã Đại Tông. Đại Tông hỏi Quốc sư: “Sau khi trăm tuổi có cần vật gì?” Chỉ là một câu hỏi bình thường, mà ông già không gió nổi sóng, nói: “Vì Lão tăng xây cái tháp Vô Phùng.” Hãy nói bạch nhật thanh thiên như thế, làm sao xây cái tháp được? Vì sao lại nói xây cái tháp Vô Phùng? Đại Tông quả là tay tác gia cho ông một cái tát, liền hỏi: “Thỉnh Thầy cho kiểu tháp.” Quốc sư im lặng giây lâu nói: “Hiểu chăng?” Kỳ quái, cái này thật khó tham cứu. Quốc sư bị Vua một cái tát, liền miệng như tấm biển. Song tuy nhiên như thế, nếu chẳng phải là ông già này, cơ hồ té nhào rồi. Lắm người nói chỗ Quốc sư không nói chính là kiểu tháp. Nếu hiểu thế ấy, một tông Đạt-ma mất sạch. Nếu bảo im lặng là phải thì kẻ câm cũng hội Thiền. Há chẳng thấy ngoại đạo hỏi Phật: Chẳng hỏi có lời, chẳng hỏi không lời. Thế Tôn im lặng giây lâu. Ngoại đạo lễ bái khen ngợi: Thế Tôn đại từ đại bi vẹt đám mây mờ cho con, khiến con được vào. Khi ngoại đạo đi rồi, A-nan hỏi Phật: Ngoại đạo có sở chứng gì mà nói được vào? Thế Tôn đáp: Như con ngựa hay ở thế gian vừa thấy bóng roi liền chạy. Đa số người nhắm vào chỗ im lặng mà hiểu, thật có gì là phải. Ngũ Tổ tiên sư niêm rằng: “Mặt trước là trân châu mã não, mặt sau là mã não trân châu, bên Đông là Quan Âm, Thế Chí, bên Tây là Văn-thù, Phổ Hiền, khoảng giữa có cái phan bị gió thổi kêu hồ lô, hồ lô.” Quốc sư hỏi: Hiểu chăng? Vua nói: Chẳng hiểu. Cũng được chút ít. Hãy nói cái chẳng hiểu này với cái chẳng biết của Võ Đế là đồng hay khác? Tuy nhiên giống thì giống, mà phải thì chưa phải. Quốc sư nói: “Tôi có đệ tử phó pháp là Đam Nguyên thông hiểu việc này, xin vời đến hỏi.” Tuyết Đậu niêm: “Một tay vỗ chẳng kêu.” Đại Tông chẳng hiểu thì gác lại, Đam Nguyên lại hiểu chăng? Chỉ tiêu được cái nói “thỉnh Thầy kiểu tháp”. Mọi người trên quả đất cũng không làm sao được. Ngũ Tổ tiên sư niêm: “Ông là thầy một nước, vì sao chẳng nói lại đẩy qua đệ tử.” Sau khi Quốc sư thiên hóa, Vua vời Đam Nguyên đến hỏi ý này thế nào, Đam Nguyên lại vì Quốc sư nói Hồ nói Hán, nói đạo lý, tự nhiên hiểu lời nói của Quốc sư. Chỉ tiêu một bài tụng: “Bên Nam sông Tương, bên Bắc cái đầm, khoảng giữa có vàng ròng đầy một nước, dưới cây không bóng nên đồng thuyền, trên điện Lưu-ly không tri thức.” Đam Nguyên tên Ứng Chơn làm Thị giả Quốc sư, sau trụ chùa Đam Nguyên ở Kiết Châu.

Khi ấy, Ngưỡng Sơn đến tham vấn, Đam Nguyên nói: Trọng tánh ác không thể phạm, trụ chẳng được. Trước khi Ngưỡng Sơn đến tham vấn Đam Nguyên, có tham vấn Thiền sư Tánh Không. Có vị Tăng hỏi Tánh Không: Thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang? Tánh Không đáp: Như người ở trong giếng sâu ngàn thước, chẳng nhờ một tấc dây mà kéo ra được, tức đáp ông ý Tây sang. Tăng thưa: Gần đây Hòa thượng Xướng ở Hồ Nam cũng vì người nói Đông nói Tây. Tánh Không bèn gọi: Sa-di! Lôi cái tử thi này ra. Sau Ngưỡng Sơn đem hỏi Đam Nguyên: Thế nào là kéo người trong giếng ra được? Đam Nguyên bảo: Dốt! Kẻ si, ai ở trong giếng? Ngưỡng Sơn chẳng khế hội. Sau đến Qui Sơn, Sư lại hỏi. Qui Sơn gọi: Huệ Tịch! Sư ứng thanh: Dạ! Qui Sơn bảo: Ra rồi. Ngưỡng Sơn liền đại ngộ, nói: Con ở chỗ Đam Nguyên được thể, chỗ Qui Sơn được dụng.

Chỉ một bài tụng này dẫn người khởi tà giải chẳng ít. Nhiều người hiểu lầm nói: Tương là tương kiến, đàm là đàm luận, khoảng giữa có cái tháp Vô Phùng, cho nên nói trong có vàng ròng đầy một nước. Vua cùng Quốc sư đối đáp là dưới cây không bóng nên đồng thuyền. Vua không hiểu nên nói: Trên điện Lưu-ly không tri thức. Lại có người nói: Tương là phía nam Tương Châu, Đàm là phía bắc Đàm Châu. Giữa có vàng ròng đầy một nước là tụng nhà quan, liếc mắt nhìn xem nói, cái này là tháp Vô Phùng. Hiểu thế ấy, thật chẳng ra ngoài tình kiến. Đến như Tuyết Đậu hạ bốn chuyển ngữ lại làm sao hiểu? Người nay toàn không hiểu ý cổ nhân. Thử nói phía Nam sông Tương, phía Bắc cái đầm, ông làm sao hiểu? Giữa có vàng ròng đầy một nước, ông làm sao hiểu? Dưới cây không bóng nên đồng thuyền, ông làm sao hiểu? Trên điện Lưu-ly không tri thức, ông làm sao hiểu? Nếu thế ấy thấy được thật là thỏa mãn bình sanh. Phía Nam sông Tương, phía Bắc cái đầm, Tuyết Đậu nói: Một tay vỗ chẳng kêu, bất đắc dĩ cùng ông nói. Giữa có vàng ròng đầy một nước, Tuyết Đậu nói: Núi hình giống cây gậy. Cổ nhân nói: Biết cây gậy, việc tham học một đời được xong. Dưới cây không bóng nên đồng thuyền, Tuyết Đậu nói: Sông trong biển lặng. Đồng thời mở hoác cửa nẻo, tám mặt linh lung. Trên điện Lưu-ly không tri thức, Tuyết Đậu nói: Niêm rồi vậy. Đồng thời vì ông nói xong vậy, quả là khó thấy, thấy được cũng tốt, chỉ là có chỗ nhận lầm, theo lời sanh hiểu. Đến rốt sau nói niêm rồi vậy, lại còn chút ít so sánh. Tuyết Đậu phân minh một lúc hạ ngữ xong. Đoạn sau riêng tụng cái tháp Vô Phùng.

TỤNG:

Vô phùng tháp
Kiến hoàn nan
Trừng đàm bất hứa thuơng long bàn.
Tằng lạc lạc
Ảnh đoàn đoàn
Thiên cổ vạn cổ dữ nhân khan.

DỊCH:

Tháp Vô Phùng 
Càng khó thấy
Đầm trong chẳng cho rồng to cuộn.
Từng lộng lẫy
Bóng tròn tròn
Ngàn xưa muôn xưa cho người xem.

GIẢI THÍCH: Tuyết Đậu ngay đầu nói: Tháp Vô Phùng, càng khó thấy. Tuy nhiên riêng bày chẳng giấu, song mà khi cần thấy lại khó thấy. Tuyết Đậu từ bi tột độ lại vì ông nói “đầm trong chẳng cho rồng to cuộn”. Ngũ Tổ tiên sư nói: Tuyết Đậu tụng cổ một tập, tôi chỉ thích câu “đầm trong chẳng cho rồng to cuộn”. Vẫn còn đôi chút so sánh. Nhiều người nhằm chỗ Quốc sư im lặng làm kế sống. Nếu hiểu thế ấy một lúc lầm rồi. Đâu chẳng nghe nói: Rồng nằm chẳng chọn nước đọng; chỗ không, có trăng sóng lặng; chỗ có, không gió dậy sóng. Lại nói: Rồng nằm hằng sợ đầm trong biếc. Nếu loại này, dù cho nước dậy mênh mông, sóng bủa ngập trời, cũng chẳng ở trong đó uốn khúc. Tuyết Đậu tụng đến đây đã xong. Phần sau thêm đôi phần nhãn mục tô đắp nên cái tháp Vô Phùng. Theo sau nói: Từng lộng lẫy, bóng tròn tròn, ngàn xưa muôn xưa cho người xem. Ông làm sao xem? Hiện nay ở chỗ nào? Dù cho ông thấy được rõ ràng, chớ lầm nhận trái cân bàn (một tiêu chuẩn cố định).

TẮC 19

CÂU CHI ĐƯA MỘT NGÓN TAY

LỜI DẪN: Giở một hạt bụi quả đất thâu, một hoa nở thế giới động. Nếu khi bụi chưa giở, hoa chưa nở làm sao để mắt?

Vì thế nói: Như chặt một cuộn tơ, một chặt thì tất cả đều chặt, như nhuộm một cuộn tơ, một nhuộm thì tất cả đều nhuộm. Chỉ như hiện nay cắt đứt sắn bìm, vận xuất của báu nhà mình, thấp cao khắp ứng, sau trước không sai, mỗi mỗi hiện thành. Nếu chưa được vậy, xem lấy văn sau.

CÔNG ÁN: Hòa thượng Câu Chi, phàm có người hỏi chỉ đưa một ngón tay.

GIẢI THÍCH: Nếu nhằm trên đầu ngón tay hiểu thì cô phụ Câu Chi. Nếu chẳng nhằm trên đầu ngón tay hiểu thì giống như đúc gang làm đồ dùng. Hiểu cũng thế ấy, chẳng hiểu cũng thế ấy, cao cũng thế ấy, thấp cũng thế ấy, phải cũng thế ấy, quấy cũng thế ấy. Do đó nói: Một hạt bụi vừa dấy lên thì cả quả đất toàn thâu, một đóa hoa chớm nở thì toàn thế giới rúng động, một sợi lông sư tử thì trăm ức sợi lông hiện. Viên Minh nói: “Lạnh thì khắp trời khắp đất đều lạnh, nóng thì khắp trời khắp đất đều nóng, núi sông quả đất thấu tột huỳnh tuyền, vạn tượng sum la thông tận hư không.” Hãy nói là vật gì được kỳ quái thế ấy. Nếu biết được thì chẳng tiêu một cái ấn tay. Nếu biết chẳng được thì chướng ngại dẫy đầy.

Hòa thượng Câu Chi là người Kim Hoa Vụ Châu. Buổi đầu ở am, có vị Ni tên Thật Tế đến am, đi thẳng vào chẳng lột nón, cầm tích trượng đi nhiễu giường thiền ba vòng, nói: Nói được thì lột nón. Hỏi như thế đến ba lần, Câu Chi không đáp được. Vị Ni liền đi. Câu Chi nói: Trời đã chiều, cô hãy ở lại nghỉ. Cô Ni nói: Nói được thì ở lại. Câu Chi cũng không đáp được. Vị Ni liền đi. Câu Chi than: Ta tuy mang hình trượng phu mà không có khí trượng phu. Liền phát phẫn quyết rõ được việc này. Toan bỏ am đi các nơi tham thỉnh, làm người hành cước tôi luyện. Đêm ấy, Sơn thần đến mách: Chẳng cần rời chỗ này, ngày mai có nhục thân Bồ-tát đến, vì Hòa thượng nói pháp. Quả thật ngày hôm sau có Hòa thượng Thiên Long đến am. Câu Chi đón tiếp thưa rõ việc qua. Thiên Long liền đưa một ngón tay lên chỉ đó. Câu Chi bỗng nhiên đại ngộ. Bởi Câu Chi hiện thời trịnh trọng chuyên chú, nên thùng thông dễ lủng đáy. Sau này có ai hỏi, Sư liền đưa một ngón tay lên. Trường Khánh nói: Thức ăn ngon chẳng cần với người bụng no. Huyền Sa nói: Ta khi ấy nếu thấy liền bẻ gãy ngón tay. Huyền Giác nói: Huyền Sa nói thế ấy là ý làm sao? Vân Cư Tích nói: Huyền Sa nói thế ấy là thừa nhận Sư, là chẳng thừa nhận Sư? Nếu thừa nhận Sư sao nói bẻ gãy ngón tay? Nếu chẳng thừa nhận Sư thì Câu Chi lỗi tại chỗ nào? Tiên Tào Sơn nói: Chỗ thừa nhận của Câu Chi quá sơ sài, chỉ nhận được một cơ, một cảnh, nhảy lên một bậc liền vỗ tay quơ múa, thấy Tây Viên rất là kỳ quái. Huyền Giác lại nói: Câu Chi lại ngộ hay chưa, vì sao chỗ thừa đương quá sơ sài? Nếu là chẳng ngộ sao ông nói “bình sanh chỉ dùng một ngón tay thiền mà chẳng hết”? Hãy nói ý Tào Sơn tại chỗ nào? Đương thời quả nhiên Câu Chi chẳng hội, đến sau khi ông ngộ, phàm có ai hỏi chỉ đưa một ngón tay, vì sao ngàn người muôn người bủa vây ông chẳng được, đập phá chẳng vỡ? Nếu ông lấy ngón tay để hiểu, quyết định chẳng thấy ý cổ nhân. Loại thiền này dễ tham mà khó hội. Như người nay, có ai hỏi đến liền đưa ngón tay, đưa nắm tay lên, chỉ là lộng tinh hồn. Cần phải thấu cốt thấu tủy, thấy thấu mới được. Trong am Câu Chi có một đứa bé, ra ngoài bị người hỏi: Bình thường Hòa thượng lấy pháp gì dạy người? Đứa bé đưa một ngón tay lên. Trở về nó thưa lại với Hòa thượng, Câu Chi lấy dao chặt ngón tay nó, đau quá nó chạy kêu khóc. Câu Chi gọi một tiếng, nó xoay đầu lại, Câu Chi đưa ngón tay lên, nó hoát nhiên nhận hiểu. Hãy nói thấy được đạo lý gì? Đến khi sắp tịch, Sư nói với chúng: Ta được một ngón tay thiền của Thiên Long, bình sanh dùng chẳng hết, cần hiểu chăng? Sư đưa một ngón tay lên liền hóa. Sau này Minh Chiêu - con rồng một mắt - hỏi Sư thúc Thâm ở chùa Quốc Thới: Người xưa nói “Câu Chi chỉ niệm ba hàng chú, liền được danh siêu tất cả người”, làm sao vì người niệm ba hàng chú? Thâm cũng đưa một ngón tay lên. Chiêu thưa: Chẳng nhân ngày nay đâu biết được khách Qua Châu ấy. Hãy nói ý thế nào? Bí Ma bình sanh chỉ dùng một cây nạng. Hòa thượng Đả Địa phàm có người hỏi, đập đất một cái. Sau bị người giấu mất cây gậy, lại hỏi: “thế nào là Phật”, Sư chỉ hả miệng. Thế cũng là một đời dùng chẳng hết. Vô Nghiệp nói: Tổ sư xem cõi này có căn khí Đại thừa, riêng truyền tâm ấn, vạch bày lối mê. Người được chẳng chọn ngu hay trí, phàm cùng Thánh, vả lại đa hư chẳng bằng thiểu thật. Bậc đại trượng phu hiện nay, cần phải thôi hết đi, chóng dứt muôn duyên đi, vượt khỏi dòng sanh tử, thoát ra cung cách thường tình, dù có quyến thuộc trang nghiêm, chẳng cầu tự được. Vô Nghiệp một đời, phàm ai hỏi điều gì chỉ nói “chớ vọng tưởng”. Vì thế nói: Một chỗ thấu, ngàn chỗ muôn chỗ đồng thời thấu, một cơ sáng, ngàn cơ muôn cơ đồng thời sáng. Người nay thảy chẳng thế ấy, chỉ thích thả rong ý theo tình giải, chẳng hiểu chỗ tỉnh yếu của cổ nhân. Kia vẫn có bộ máy nhanh, chỗ xoay chuyển khéo, tại sao chỉ dùng một ngón tay? Phải biết Câu Chi đến trong đây có chỗ thâm mật vì người. Cốt hiểu được bớt nhọc sức biết mấy. Lại Viên Minh nói: Lạnh thì khắp trời khắp đất đều lạnh, nóng thì khắp trời khắp đất liền nóng. Núi sông đều thông suốt cô nguy, vạn tượng sum la triệt để hiểm tuấn. Chỗ nào được ngón tay Thiền này?

TỤNG:

Đối dương thâm ái lão Câu Chi
Vũ trụ không lai cánh hữu thùy
Tằng hướng thương minh hạ phù mộc
Dạ đào tương cộng tiếp manh qui.

DỊCH:

Đối dương rất thích lão Câu Chi 
Vũ trụ (từ) không (đến) nay có những gì?
Từng đến bể sâu thả cây nổi
Sóng đêm cùng tiếp gã manh qui.

GIẢI TỤNG: Tuyết Đậu hiểu văn chương tứ lục bảy thông tám suốt, phàm là công án lạ lùng kỳ đặc, riêng thích liền tụng. Hai câu “đối dương rất thích lão Câu Chi, vũ trụ (từ) không (đến) nay có những gì”, học giả thời nay ức dương cổ nhân, hoặc khách hoặc chủ, một hỏi một đáp, đối diện đề trì có chỗ vì người như thế, cho nên nói “đối dương rất thích lão Câu Chi”. Tuyết Đậu thích Câu Chi cái gì? Từ mở mang trời đất đến nay lại có người nào? Chỉ là một lão Câu Chi. Nếu là người khác phải tham tạp nhạp, duy lão Câu Chi chỉ dùng một ngón tay cho đến suốt đời. Thời nhân nhiều tà giải nói: Núi sông đất liền cũng không, người không pháp cũng không, dù cho vũ trụ một lúc không rồi, chỉ còn một lão Câu Chi. Thế là không dính dáng. Câu “từng đến biển sâu thả cây nổi”, như nay nói biển sanh tử, chúng sanh ở trong biển nghiệp vừa ra lại vào, chẳng rõ chính mình, không có ngày ra khỏi. Câu Chi buông lòng từ tiếp vật, ở trong biển sanh tử dùng một ngón tay tiếp người, giống như thả một khúc gỗ nổi để tiếp rùa mù, khiến các chúng sanh được đến bờ giác. Câu “sóng đêm cùng tiếp gã manh qui”, kinh Pháp Hoa nói: “Như con rùa một mắt gặp được bộng cây nổi, không còn cái hoạn chìm đắm.” Bậc đại thiện tri thức tiếp được một người như rồng tợ cọp, dạy y đến thế giới có Phật làm chủ khách, đến thế giới không Phật ngồi đoạn yếu tân. Tiếp được một con rùa mù kham dùng làm gì?


(1) Bát thảo chiêm phong (buông vọng hướng huyền chân).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11539)
Thông Bạch Phật Đản 2016 - Phật Lịch 2560 của Chánh Văn Phòng HĐCM GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 10614)
Phật Đản là ngày sinh của Đức Phật. Theo như trong kinh Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”,
(Xem: 10878)
‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo.
(Xem: 9971)
Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như ...
(Xem: 9633)
“Thị hiện Đản sanh”, là cụm từ được chỉ chung cho tất cả các bậc Thánh nhân, chư Phật, Bồ Tát khởi lên ý niệm tự phát nguyện...
(Xem: 12995)
Dòng đời cứ cuồn cuộn hay lặng lẽ mãi miết trôi, và mọi cảm nhận tiếp thụ của con người vẫn cứ lan chảy bất tận theo thời gian.
(Xem: 13426)
Phương cách tốt nhất giúp ta tỉnh giác khi hành Thiền là ta biết giữ hơi thở trong tâm.
(Xem: 13579)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 19941)
Thân thị Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời cần phất thức, Vật sử nhá trần ai.
(Xem: 12621)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 13342)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 13642)
Không biết tự bao giờ, mùa xuân được lấy làm biểu tượng của tâm hồn an lạcthanh tịnh.
(Xem: 13135)
Ngày xuân năm nay, chúng tôi sẽ đem đạo lý khuyến khích nhắc nhở tất cả Phật tử tinh tấn tu hành.
(Xem: 12467)
Nhân Tết con khỉ - Bính Thân, nên xin nói tản mạn về con khỉ, có liên hệ đến những ý tưởngquan niệm trong đạo Phật.
(Xem: 18660)
Hai bài kệ dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học, được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực...
(Xem: 10767)
Thiền Tôngpháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy.
(Xem: 12493)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi...
(Xem: 11106)
Năm cũ đã hết với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11291)
Cảm ơn Xin cảm ơn Trời đất bốn mùa thay nhau chuyển đổi Xuân sinh, hạ trưởng Thu liễm, đông tàn
(Xem: 14786)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát,
(Xem: 22793)
Bài này được viết vào khoảng tháng 11 năm 1991, có trong tác phẩm “Sân Trước Cành Mai,” xuất bản năm 1994.
(Xem: 11670)
Tết đã gần kề. Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam có cái chung nhưng cũng có những nét khác nhau tùy theo phong tục tập quán của từng vùng, miền.
(Xem: 10249)
Trong mùa xuân, thiên nhiên tự làm mới lại, con người cũng tự làm mới lại thân tâm mình, mọi vật đều cố gắng chuyển hóa thành mới, trong sạch, thanh tịnh.
(Xem: 34696)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 17872)
Ngày hết Tết đến nhìn thấy còn những người đau khổ chung quanh thì lòng mình không thể dửng dưng...
(Xem: 32858)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22235)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 11302)
Ngoài kia, từng cánh én đang tung tăng chao lượn, dòng người thì tấp nập ngược xuôi trong tà áo mới, trên gương mặt ai nấy hân hoan rạng ngời
(Xem: 17729)
Tình yêu như bát bún riêu. Bao nhiêu sợi bún bấy nhiêu sợi tình.
(Xem: 17280)
Khách thập phương rảo bước quanh sân chùa, ngắm nhìn cảnh vật, cội mai già, nụ mai còn hàm tiếu.
(Xem: 10774)
Cụm từ trên không biết có tự bao giờ…? Thế nhưng từ lâu cho đến tận ngày hôm nay, thật sự đã đi sâu thẳm vào
(Xem: 10935)
Khi cây mai vàng chưa kịp đưa hương Và bờ cỏ đương đổi màu hoang tái Bóng chiều nghiêng cánh én còn ái ngại Vẫn nghe lòng vời vợi bước xuân phương
(Xem: 9674)
Vẫn mang chiếc áo lỳ năm tháng cũ Vẫn chiều nay, Bên khung cửa hôm nào Ta nhấp nháp chung trà hương viễn xứ
(Xem: 10690)
Cành mai năm trước, cành đào bây giờ vẫn một sắc hương, cội mai già nỉ non bung ra từng hé nụ, hoa đào đón gió tưng bừng khoe sắc hương.
(Xem: 10674)
Hãy nhìn lại thật gần, thật kỹ, những gì đang có trong lòng bàn tay. Mùa xuân không ở đâu xa. Mùa xuân ở nơi ấy.
(Xem: 10648)
Tâm giống như con khỉ (kapicitta) là một thuật ngữ, đôi khi Đức Phật dùng để diễn tả các hành-vi lo-lắng, khuấy-động,
(Xem: 12554)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 12499)
Tôi không có tham vọng viết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882)
(Xem: 10062)
Năm mới, chúng ta đón chào một mùa xuân mới được nhiều phước lộc, và học thay đổi cách sống mới để làm đời mình thêm tươi vui, hạnh phúc.
(Xem: 13323)
Hiện nay, ở một số chùa có trưng bày tượng ba con khỉ trong sân chùa. Nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc cũng như...
(Xem: 9806)
Thay đổi cuộc đời trong Năm mới chính là Làm mới chính mình, nuôi dưỡng suối nguồn hạnh phúc.
(Xem: 9196)
Thành đạo còn gọi là Đắc Đạo, chứng đạo, đạt đạo, thành tựu đạo quả.
(Xem: 11923)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 13570)
Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác. Bất cứ làm điều gì, các ông phải làm với chánh niệm.
(Xem: 12150)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ.
(Xem: 11377)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11679)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10434)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10340)
“Từ Thị Di Lặc” nghĩa là : người mang chủng tánh Từ Bi, rộng đức bao dung, hòa ái, êm dịu, luôn đem lại sự an lành hạnh phúc cho mọi người và cho cả cuộc đời.
(Xem: 10993)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 28351)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 10934)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 7511)
Lúc gần đây, khi tôi vào trang mạng của Dzogchen Ponlop Rinpoche đọc một bài viết có tựa đề là "Đạo Phật Là Một Tôn Giáo, Có Đúng Không?", tôi đã ngạc nhiên vì một số ý-kiến của người-đọc ở phần bên dưới bài viết
(Xem: 9416)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 11864)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11761)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 11193)
Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng.
(Xem: 10411)
Thiền quán là nhìn một cách tĩnh lặng. Nhìn sự vật “như nó là”, không suy luận, không biện giải, không phê phán…
(Xem: 10348)
Ba viên ngọc quý Phật, Pháp, Tăng mà ai cũng có đầy đủ đều không ngoài Bản Tâm Tự Tánh mình.
(Xem: 13906)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 15141)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10593)
Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay một quan niệm thuộc về tri thức.
(Xem: 12002)
Phải chăng trường đời là nơi tranh danh đoạt lợi, hay chính là do mầm tham ái ở tại lòng mình mới là động cơ sinh ra mọi sự?
(Xem: 10978)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10605)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10752)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9984)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10749)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 9410)
Hãy nghe ĐỨC PHẬT định nghĩa về thiền : « Ở đây nầy các Tỳ Kheo, vị tỳ kheo đi đến khu rừng dưới một gốc cây hay đi đến chỗ nhà trống và ngồi kiết già lưng thẳng...
(Xem: 10079)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10275)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10620)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10700)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10619)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10187)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9897)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13639)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16439)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13580)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 11633)
Tôi đã nhận được một món quà tặng quan trọng nhất từ bố tôi: đó là niềm tin về tôn giáo. Suốt đời tôi, tôi sẽ nhớ ơn bố tôi. Vì, bố là vị Bồ Tát của tôi.
(Xem: 11230)
Năm nay, Vu Lan khởi sắc một cách khác thường. Từ ngày 14 âm lịch đến rằm, lượng số người đi lễ như trẩy hội. Một số con đường chính đều bị tắt nghẽn giao thông.
(Xem: 11201)
Đạo Phật dạy về tầm quan trọng của sự kính trọng bố mẹ, và sự báo đáp công ơn bố mẹ.
(Xem: 12300)
Vu lan lại đến.Hiếu hạnh của con trẻ lại được nhắc đến. Nhưng đâu đó cũng thấy hiện lên các tiêu đề nói về việc con giết cha, hãm hiếp mẹ, những nghịch hạnh không ai có thể chấp nhận.
(Xem: 15496)
Tôi thấy tôi mất mẹ, mất cả môt bầu trời…
(Xem: 10724)
"Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền. Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên…Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối…"
(Xem: 11775)
Mẹ ơi tháng Bảy về rồi Là mùa hiếu hạnh tuyệt vời lên ngôi Nhớ ơn mẹ đã một đời Tảo tần mưa nắng tô bồi đời con
(Xem: 10698)
Mùa thu với tháng bảy mưa ngâu, với trăng thu diệu vợi, quê hương Việt nam chúng ta với biết bao vẻ đẹp êm đềm qua ánh trăng rằm tháng bảy Vu lan.
(Xem: 11165)
Sau khi đắc quả A-La-Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên vận thần thông đi khắp các cõi tìm người mẹ đã khuất.
(Xem: 10093)
Lễ hội Vu lan bồn hay còn được gọi một cách phổ biếnlễ hội Cô hồn là một sự kiện quan trọng ở Trung Quốc vì nó được nối kết với việc thờ cúng tổ tiên.
(Xem: 10507)
Từ hơn mười năm qua, cũng có thể là xa hơn chút nữa, ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu hằng năm, đặc biệt là lễ cài hoa hồng, đã có sức lan tỏa mạnh mẻ ra ngoài khỏi khuôn viên những mái chùa Phật giáo
(Xem: 11520)
Theo truyền thuyết nhà Phật, Bà mẹ Mục Kiền Liên Là người không mộ đạo Báng bổ cả người hiền.
(Xem: 11085)
Tháng bảy mùa Vu Lan trời buồn âm u mưa sùi sụt trắng xóa con đê quê mẹ. Tháng bảy mùa Vu Lan mây buồn giăng giăng kín lối con về quê mẹ…
(Xem: 13033)
Rằm tháng 7 - đại lễ Vu Lan, tưởng niệm gương đại hiếu của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên) đối với mẹ trong cảnh khổ ngạ quỷ;
(Xem: 24559)
Lòng thương của cha mẹ sẽ pha thêm màu xanh cho bầu trời, tô thêm màu biếc cho đại dương; và gia đình này, trái đất này, với bàn tay chăm sóc của cha mẹ, sẽ là hành tinh xanh, mỹ miều, tươi mát hơn bao giờ.
(Xem: 12688)
Ta còn một dòng sông, dòng sông xưa uốn khúc những nỗi niềm cay cực với bóng mẹ lênh đênh tất tả chuyến đò đời.
(Xem: 10377)
Kinh Vu Lan hiện được dịch ra tiếng Việt và được phổ thơ để các Phật tử dễ đọc tụng và dễ nhớ
(Xem: 28863)
Mùa Vu Lan lại về với người con Phật, mang nhiều ý nghĩa thâm diệu, vừa siêu nhiên của lãnh vực tâm linh, vừa hiện thực với văn hóa nhân gian...
(Xem: 19464)
Cách đây hơn 10 năm tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Hoa Kỳ, các thành viên của Liên Hiệp Quốc đã đồng thuận mỗi năm lấy ngày Vesak của Đức Phật làm ngày Phật Đản của thế giới.
(Xem: 11039)
Cách đây hơn 26 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tại xứ Ấn Độ cổ xưa, cội nguồn của nền văn minh sông Hằng. Sự kiện trọng đại Đức Thế Tôn thị hiện vào cõi đời này thật là hy hữu.
(Xem: 23533)
Gần hai trăm nghìn người không phân biệt Tôn giáo, Quốc tịch, Chính đảng, ngày 10/05/2015 tại Đài Bắc Quốc tế Phật Quang hội tổ chức thiên Tăng, vạn Chúng Khánh chúc Phật đản, nhất tâm Thập nguyện báo Mẫu ân,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant