Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6. Tắc 13 - Tắc 16

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12290)
6. Tắc 13 - Tắc 16

BÍCH NHAM LỤC
Tác giả: Thiền sư Viên Ngộ - Việt dịch: HT. Thích Thanh Từ
Tu viện Chân Không 1980

TẮC 13

BA LĂNG TRONG CHÉN BẠC ĐỰNG TUYẾT

LỜI DẪN: Mây dừng đồng rộng, khắp nơi chẳng giấu. Tuyết phủ hoa lau, khó phân dấu vết. Chỗ lạnh lạnh như băng tuyết, chỗ tế tế như mảnh gạo, chỗ sâu sâu mắt Phật cũng khó thấy, chỗ kín kín ma ngoại khó lường. Nêu một rõ ba nên gác lại, ngồi cắt đầu lưỡi người trong thiên hạ làm sao nói? Hãy nói là việc phần thượng của người nào, thử cử xem?

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Thiền sư Ba Lăng: Thế nào là tông Đề-bà? Ba Lăng đáp: Trong chén bạc đựng tuyết.

GIẢI THÍCH: Công án này nhiều người hiểu lầm nói, đây là tông ngoại đạogiao thiệp gì? Tổ thứ mười lăm là Tôn giả Đề-bà cũng là một trong số ngoại đạo, nhân gặp Tổ thứ mười bốn Tôn giả Long Thọ, lấy cây kim thả trong chậu, Tổ Long Thọ thầm nhận, truyền Tâm tông của Phật, kế thừa làm Tổ thứ mười lăm. Kinh Lăng-già chép: Phật nói tâm làm tông, cửa Không làm cửa Pháp. Mã Tổ nói: “Phàm có câu lời là tông Đề-bà, chỉ do cái này làm chủ, các ngươi là Thiền khách đã từng thể cứu tông Đề-bà chăng? Nếu thể cứu được thì chín mươi sáu thứ ngoại đạoẤn Độ bị ông một lúc hàng phục. Nếu thể cứu chẳng được, chưa khỏi mặc ngược chiếc áo cà-sa.” Hãy nói phải làm sao? Nếu nói ngôn cú là phải cũng không giao thiệp. Nếu nói ngôn cú chẳng phải cũng không giao thiệp. Hãy nói ý Mã Đại sư ở chỗ nào. Sau này Vân Môn nói: Mã Đại sư khéo nói năng, chỉ là không người hỏi. Có vị Tăng hỏi: Thế nào là tông Đề-bà? Vân Môn đáp: Chín mươi sáu thứ, ông là hạng chót.

Xưa có vị Tăng từ giã Đại Tùy, Đại Tùy hỏi: Đi đến đâu? Tăng thưa: Lễ bái Phổ Hiền. Đại Tùy dựng đứng cây phất tử nói: Văn-thù, Phổ Hiền trọn trong đây. Vị Tăng vẽ một vòng tròn, lấy tay đưa trình lên Sư, lại ném ra sau lưng. Đại Tùy gọi: Thị giả đem một chung trà cho vị Tăng này. Vân Môn riêng nói: Tây thiên chặt đầu cắt tay, trong đây tự lãnh mà ra. Lại nói: Cờ đỏ ở trong tay ta. Ở Ấn Độ, người luận nghị thắng tay cầm cờ đỏ, người thua mặc ngược áo cà-sa từ cửa hông ra vào. Tại Ấn Độ, muốn tổ chức luận nghị phải được lệnh vua, ở trong chùa lớn đánh chuông gióng trống sau mới luận nghị. Khi ấy ngoại đạo ở trong chùa tăng phong cấm chuông trống, cho đó là sa thải. Tôn giả Ca-na-đề-bà biết Phật pháp có nạn, bèn vận thần thông lên lầu đánh chuông muốn tẩn ngoại đạo. Ngoại đạo hỏi: Đánh chuông trên lầu đó là ai? Đề-bà đáp: Trời. Ngoại đạo hỏi: Trời là gì? Đề-bà đáp: Ta. Ngoại đạo hỏi: Ta là gì? Đề-bà đáp: Ta là ngươi. Ngoại đạo hỏi: Ngươi là gì? Đề-bà đáp: Ngươi là chó. Ngoại đạo hỏi: Chó là gì? Đề-bà đáp: Chó là ngươi. Bảy phen như thế, ngoại đạo tự biết đã thua, bèn tự mở cửa. Khi ấy Đề-bà từ trên lầu cầm cờ đỏ đi xuống. Ngoại đạo hỏi: Ngươi sao chẳng sau? Đề-bà đáp: Ngươi sao chẳng trước? Ngoại đạo nói: Ngươi là tiện nhân. Đề-bà đáp: Ngươi là lương nhân. Lần lượt vấn đáp như thế, Đề-bà dùng vô ngại biện chiết phục ngoại đạo. Khi ấy Tôn giả Đề-bà tay cầm cờ đỏ, người thua đứng dưới lá cờ. Ngoại đạo toan chặt đầu tạ lỗi, Đề-bà ngăn họ và giáo hóa cho cạo tóc vào đạo. Bấy giờ tông Đề-bà hưng thạnh. Tuyết Đậu sau dùng việc này làm tụng.

Ba Lăng ở trong chúng được hiệu là Giám nhiều lời, thường vác tọa cụ đi hành cước, nhận được đại sự dưới gót chân Vân Môn, nên rất kỳ đặc. Sau Sư xuất thế kế thừa Vân Môn, trước trụ Nhạc Châu Ba Lăng, mà chẳng gửi thư pháp từ, chỉ dùng ba chuyển ngữ dâng lên Vân Môn: 1) - Thế nào là đạo? - Người mắt sáng rơi giếng. 2) - Thế nào là xuy mao kiếm? - Cành cành san-hô chống đến trăng. 3) - Thế nào là tông Đề-bà? - Trong chén bạc đựng tuyết. Vân Môn bảo: Sau này ngày kỵ của Lão tăng, chỉ cử ba chuyển ngữ này đền ơn là đủ. Về sau quả nhiên không tổ chức trai kỵ, y theo lời dặn của Vân Môn, chỉ cử ba chuyển ngữ này. Các nơi đáp thoại này phần nhiều nhằm trên sự, chỉ có Ba Lăng nói thế ấy thật là cao vót, chẳng ngại khó hiểu, chẳng bày đôi phần mũi giáo, tám hướng thọ địch, rõ ràngcon đường xuất thân, có cơ hãm hổ, thoát khỏi tình kiến của người. Nếu luận việc bên nhất sắc, đến trong ấy phải là nhà mình thấu thoát xong, lại cần gặp người mới được. Vì thế nói: “Đạo Ngô múa hốt đồng người hiểu, Thạch Củng giương cung tác giả am.” Lý ấy nếu không thầy ấn thọ, toan đem pháp gì huyền đàm. Tuyết Đậu theo sau nêu lên vì người tụng ra:

TỤNG:

Lão Tân Khai
Đoan đích biệt
Giải đạo ngân uyển lý thạnh tuyết
Cửu thập lụcưng tự tri
Bất tri khước vấn thiên biên nguyệt.
Đề-bà tông, Đề-bà tông
Xích phan chi hạ khởi thanh phong.

DỊCH:

Lão Tân Khai
Quả thật khác
Khéo nói chén bạc đựng đầy tuyết
Chín mươi sáu thứ nên tự tri
Chẳng biết lại hỏi bên trời nguyệt.
Tông Đề-bà, tông Đề-bà
Dưới lá cờ đỏ gió mát lành.

GIẢI TỤNG: “Lão Tân Khai”, Tân Khai là tên Thiền viện. “Quả thật khác” là lời tán thán của Tuyết Đậu. Hãy nói chỗ nào là khác? Tất cả ngôn ngữ đều là Phật pháp, Sơn tăng nói thoại như thế thành đạo lý gì? Tuyết Đậu bày chút ít ý mình bằng câu “quả thật khác”. Về sau mở toang ra nói “khéo nói chén bạc đựng đầy tuyết”. Lại vì ông để lời chú cước “chín mươi sáu thứ nên tự tri”, thua rồi mới được. Nếu ông chẳng biết hỏi lấy bên trời nguyệt. Người xưa từng đáp thoại này rằng: Hỏi lấy bên trời nguyệt. Tuyết Đậu tụng rồi, rốt sau cần có con đường sống, có câu sư tử nhảy ngược, lại đề khởi cho ông nói “tông Đề-bà, tông Đề-bà, dưới lá cờ đỏ gió mát lành”. Ba Lăng nói “trong chén bạc đựng tuyết”, vì sao Tuyết Đậu lại nói. “Dưới lá cờ đỏ gió mát lành”, lại biết Tuyết Đậu giết người chẳng dùng đao chăng?

TẮC 14

VÂN MÔN GIÁO LÝ MỘT ĐỜI

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Vân Môn: Thế nào là giáo lý một đời? Vân Môn đáp: Đối một nói.

GIẢI THÍCH: Trong dòng Thiền gia muốn biết nghĩa Phật tánh phải quán thời tiết nhân duyên, gọi đó là “truyền riêng ngoài giáo lý, riêng truyền tâm ấn, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”. Ông già Thích-ca bốn mươi chín năm ở đời, ba trăm sáu mươi hội bàn đốn tiệm quyền thật, gọi đó là giáo lý một đời. Vị Tăng này đưa ra hỏi Vân Môn thế nào là giáo lý một đời. Vân Môn sao không vì y giải thuyết rành rẽ, lại nhằm nói “đối một nói”? Vân Môn bình thường trong một câu phải đủ ba câu, nghĩa là câu phú cái càn khôn, câu tùy ba trục lãng, câu tiệt đoạn chúng lưu. Buông đi giữ lại tự nhiên kỳ đặc, như chặt đinh cắt sắt, khiến người nghĩa giải suy nghĩ không thể được. Một Đại tạng giáo chỉ tiêu có ba chữ. Bốn phương tám mặt không có chỗ cho ông đào xới. Nhiều người hiểu lầm nói: Việc đối cơ nghi một thời nên nói thế. Lại nói: Sum la vạn tượng đều là sở ấn của một pháp, nên nói “đối một nói”. Lại nói: Chỉ là nói một pháp kia. Quả thật không có gì dính dáng. Chẳng những không hiểu lại vào địa ngục nhanh như tên bắn. Đâu chẳng biết cổ nhân ý không như thế. Vì thế nói “tan xương nát thịt chưa đủ đền, một câu rõ thấu vượt trăm ức”, thật là kỳ đặc. Thế nào là giáo lý một đời? Chỉ tiêu được câu “đối một nói”. Nếu ngay đó tiến được liền về nhà ngồi an ổn, nếu tiến chẳng được hãy lắng nghe xử phân.

TỤNG:

Đối nhất thuyết
Thái cô tuyệt
Vô khổng thiết chùy trùng hạ khiết
Diêm-phù thọ hạ tiếu ha ha
Tạc dạ Ly Long áo giác chiết
Biệt biệt
Thiều Dương lão nhân đắc nhất quyết.

DỊCH:

Đối một nói
Rất cô tuyệt
Chùy sắt không lỗ thêm hạ chốt
Dưới cội Diêm-phù cười ha ha
Đêm qua Ly Long sừng bẻ gãy
Khác khác
Lão nhân Thiều Dương được một mảnh.

GIẢI TỤNG: “Đối một nói, rất cô tuyệt”, Tuyết Đậu khen như thế cũng chưa tới. Câu nói này độc thoát cô nguy quang tiền tuyệt hậu, như bờ cao muôn trượng, như quân trận trăm muôn, không có chỗ cho ông vào, chỉ là quá ngặt cô nguy. Người xưa nói “muốn được thân thiết chớ đem hỏi đến hỏi, hỏi tại chỗ đáp, đáp ở nơi hỏi”, hẳn là cô tuấn. Hãy nói chỗ nào là cô tuấn? Người khắp thiên hạ làm gì cũng chẳng được. Vị Tăng này là hàng tác gia nên mới hỏi như thế. Vân Môn lại đáp thế ấy, giống như “chùy sắt không lỗ thêm hạ chốt”. Tuyết Đậu dùng văn ngôn tuyệt khéo. Câu “dưới cội Diêm-phù cười ha ha”, trong kinh Khởi Thế nói: Phía Nam núi Tu-di có cây phệ-lưu-ly ánh sáng chiếu châu Diêm-phù đều sắc xanh. Châu này lấy tên đại thọ làm tên châu, nên gọi Diêm-phù-đề. Cây này bề cao bề rộng bảy ngàn do-tuần, phía dưới có đống vàng Diêm-phù-đàn cao hai mươi do-tuần, bởi vàng từ dưới cây này sanh ra, nên gọi là cây Diêm-phù. Vì thế Tuyết Đậu tự nói kia ở dưới cội Diêm-phù cười ha ha. Thử nói kia cười cái gì? Cười “đêm qua Ly Long sừng bẻ gãy”. Chỉ có chiêm ngưỡng đó, có phần tán thán Vân Môn. Vân Môn nói “đối một nói”, giống cái gì? Giống như bẻ gãy một sừng con Ly Long. Đến trong đó, nếu không có việc thế ấy, đâu thể nói lời thế ấy. Tuyết Đậu một lúc tụng xong, rốt sau lại nói “khác khác, lão nhân Thiều Dương được một mảnh”. Sao chẳng nói được trọn vẹn, mà chỉ nói được một mảnh? Thử nói một mảnh kia ở chỗ nào? Liền được xâu qua người thứ hai.

TẮC 15

VÂN MÔN ĐẢO MỘT NÓI

LỜI DẪN: Đao giết người, kiếm sống người là phong qui của thượng cổ, cũng là chỗ xu yếu của thời nay. Hiện đây cái gì là đao giết người, kiếm sống người, thử cử xem?

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Vân Môn: Khi chẳng phải cơ trước mắt, cũng chẳng phải sự trước mắt thì thế nào? Vân Môn đáp: Đảo một nói.

GIẢI THÍCH: Vị Tăng này quả là hàng tác gia khéo hỏi thế ấy. Về mặt tham vấn gọi là thỉnh ích. Đây là câu hỏi trình giải, cũng là câu hỏi tàng phong. Nếu không phải Vân Môn thì chẳng kham đáp được. Vân Mônthủ đoạn này, kia đã đem hỏi đến thì bất đắc dĩ đáp đó. Vì cớ sao? Bởi hàng tác gia Tông sư như gương sáng trên đài, Hồ đến hiện Hồ, Hán đến hiện Hán. Cổ nhân nói: Muốn được thân thiết chớ đem hỏi đến hỏi. Tại sao? Vì hỏi ở chỗ đáp, đáp tại chỗ hỏi. Từ trước chư Thánh đâu từng có một pháp cho người. Ở đâu có thiền để nói cho ông? Nếu ông chẳng tạo nghiệp địa ngục tự nhiên chẳng chiêu quả địa ngục. Nếu ông chẳng tạo nhân thiên đường tự nhiên chẳng thọ quả thiên đường. Tất cả nghiệp duyên đều tự làm tự chịu. Người xưa đã vì ông phân biệt giải nói rõ ràng. Nếu luận việc này chẳng ở trong ngôn cú. Nếu ở trên ngôn cú thì ba thừa mười hai phần giáo há không là ngôn cú sao? Lại đâu cần Tổ sư từ Ấn sang. Tắc trước nói “đối một nói”, tắc này lại nói “đảo một nói”. Chỉ đổi một chữ, tại sao lại có ngàn muôn sai biệt? Thử nói cái quái lạ ấy ở chỗ nào? Vì thế nói: “Pháp theo pháp hành, pháp tràng tùy chỗ dựng lập, chẳng phải cơ trước mắt, cũng chẳng phải việc trước mắt.” Vậy thế nào? Chỉ tiêu một điểm ngay đầu. Nếu là người đủ mắt, một điểm cũng dối chẳng được. Chỗ hỏi đã quái lạ, chỗ đáp cũng phải thế ấy. Kỳ thật Vân Môn cỡi ngựa giặc đuổi giặc. Có người hiểu lầm nói: Vốn là lời của chủ nhà, trái lại người khách nói, nên Vân Môn bảo “đảo một nói”. Có ăn nhằm vào đâu, chết gấp! Vị Tăng hỏi “khi chẳng phải cơ trước mắt, cũng chẳng phải việc trước mắt thì thế nào” là khá hay, sao Vân Môn chẳng đáp những lời khác, lại chỉ đáp y “đảo một nói”? Vân Môn một lúc đập nát y. Đến trong ấy nói “đảo một nói” cũng là trên da thịt lành khoét làm thương tích. Vì sao? Vì cái hứng trên dấu vết ngôn từlý do mây trắng bay muôn dặm mà khác đường. Giả sử một lúc không ngôn không cú, cây cột, lồng đèn đâu từng có ngôn cú, lại hiểu chăng? Nếu không hiểu, đến trong đây cần có chuyển động mới biết chỗ rơi.

TỤNG:

Đảo nhất thuyết
Phân nhất tiết
Đồng tử đồng sanh vị quân quyết
Bát vạn tứ thiên phi phụng mao
Tam thập tam nhân nhập hổ huyệt.
Biệt biệt
Nhiễu nhiễu thông thông thủy lý nguyệt.

DỊCH:

Đảo một nói
Chia một mảnh
Đồng chết đồng sống vì anh giải
Tám vạn bốn ngàn chẳng phụng mao
Ba mươi ba người vào hang cọp.
Riêng riêng
Lăng xăng lộn xộn trăng trong nước.

GIẢI TỤNG: Tuyết Đậu quả là tác gia, dưới một câu liền nói “chia một mảnh”, rõ ràng phóng qua một cái, cùng kia nắm tay đồng hành. Từ trước đến đây Sư có thủ đoạn phóng đi, dám cùng ông vào bùn vào nước, đồng chết đồng sống. Do đó, Tuyết Đậu tụng thế ấy, kỳ thật không có chỉ thú khác, cốt vì ông gỡ niêm mở trói, nhổ đinh tháo chốt. Hiện nay lại nhân ngôn cú chuyển sanh tình giải. Như Nham Đầu nói: “Tuyết Phong tuy cùng ta đồng điều sanh, chẳng cùng ta đồng điều tử.” Nếu chẳng phải người toàn cơ thấu thoát, được đại tự tại, đâu thể cùng ông đồng sanh đồng tử. Tại sao? Vì kia không có những thứ được mất phải quấy chỗ rỉ chảy. Thế nên Động Sơn nói: Nếu cần nhận rõ người hướng thượng chân hay ngụy, có ba thứ rỉ chảy (sấm lậu): tình rỉ chảy, kiến rỉ chảy, ngữ rỉ chảy. Tình rỉ chảy là trí thường thuận nghịch, chỗ thấy thiên khô. Kiến rỉ chảy là cơ chẳng lìa vị, rơi trong biển độc. Ngữ rỉ chảy là thể diệu mất tông, cơ lầm chung thủy. Ba thứ rỉ chảy này nên tự biết đó. Lại có ba huyền: thể trung huyền, cú trung huyền, huyền trung huyền. Cổ nhân đến cảnh giới này, toàn cơ đại dụng, gặp sanh cùng ông đồng sanh, gặp tử cùng ông đồng tử, nhằm trong miệng cọp nằm ngang, buông sải tay chân, ngàn dặm muôn dặm tùy ông mang đi. Tại sao? Trả lại cho kia một cái phóng này mới được. Câu “tám muôn bốn ngàn chẳng phụng mao”, ở hội Linh Sơn có tám muôn bốn ngàn Thánh chúng chẳng phải phụng mao vậy. Nam sử chép: Thời Tống có Tạ Siêu Tông, người đất Trần quận Dương Hạ, con của Tạ Phụng, bác học văn tài kiệt tuấn, trong triều không ai bì kịp, thời nhân cho là người bậc nhất, giỏi về văn, làm Vương phủ Thường thị. Vương mẫu là Ân Thúc Nghi chết, Siêu Tông làm văn tấu, vua Võ Đế xem văn rất mực khen thưởng nói: Siêu Tông đặc biệt có phụng mao (lông phụng). Cổ thi rằng:

TỤNG:

Triều bãi hương yên huề mãn tụ
Thi thành châu ngọc tại huy hào
Dục tri thế chưởng ty luân mỹ
Trì thượng như kim hữu phụng mao.

DỊCH:

Triều bãi khói hương mang đầy áo
Thơ thành châu ngọc ở bút lông
Muốn biết chỉ tơ trong tay đẹp
Hiện tại trên hồ có phụng mao.

Ngày xưa trên hội Linh Sơn bốn chúng nhóm họp, Thế Tôn đưa cành hoa lên, chỉ riêng Tổ Ca-diếp miệng cười chúm chím, ngoài ra không ai biết là tông chỉ gì? Do đó Tuyết Đậu nói: “tám muôn bốn ngàn chẳng phụng mao”. “Ba mươi ba người vào hang cọp”, Tổ A-nan hỏi Tổ Ca-diếp: Ngoài chiếc y Kim Lan, Thế Tôn còn truyền riêng pháp gì? Tổ Ca-diếp gọi: A-nan! A-nan ứng thanh: Dạ! Ca-diếp bảo: Cây phướn trước chùa ngã. A-nan liền tỉnh ngộ. Về sau Tổ Tổ truyền nhau, từ Ấn Độ đến Trung Hoa cả thảy ba mươi ba vị, đều có thủ đoạn vào hang cọp. Cổ nhân nói: Chẳng vào hang cọp làm sao bắt được cọp con. Vân Môn thuộc hạng người này, khéo hay đồng chết đồng sống. Tông sư vì người phải được như thế. Ngồi trên giường gỗ xả được, bảo ông đập phá, cho ông nhổ râu cọp, cũng phải đến loại điền địa này mới được. Phải được bảy việc tùy thân mới được đồng sanh đồng tử: cao thì đè xuống, thấp thì nâng lên, chẳng đủ thì cho, ở trên ngọn cao chót vót thì đưa vào cỏ rậm, rơi trong cỏ rậm thì đưa lên ngọn chót vót, nếu ông vào vạc dầu sôi lò lửa đỏ ta cũng vào vạc dầu lò lửa, kỳ thật không có gì lạ, chỉ cần mở niêm cởi trói, nhổ đinh tháo chốt, cởi dây dàm, tháo gỡ yên cương. Hòa thượng Bình Điền có bài tụng rất hay:

TỤNG:

Linh quang bất muội
Vạn cổ huy du
Nhập thử môn lai
Mạc tồn tri giải.

DỊCH:

Linh quang chẳng tối
Sáng rỡ muôn đời
Vào được cửa này
Chẳng còn tri giải.

Câu “riêng riêng, lăng xăng lộn xộn trăng trong nước” chẳng ngại có con đường xuất thân, cũng có máy sống người. Tuyết Đậu niêm rồi, bảo người tự minh ngộ sanh cơ, chớ theo ngữ cú của người. Nếu ông theo người chính là lăng xăng lộn xộn trăng trong nước, hiện nay làm sao được bình ổn? Phóng qua một cái.

TẮC 16

CẢNH THANH THỐT TRÁC CƠ

LỜI DẪN: Đạo không ngang tắt, người đứng cô nguy, pháp chẳng kiến văn, nói nghĩ xa bặt. Nếu hay ra khỏi rừng gai góc, khéo mở cái trói buộc của Phật Tổ, được chỗ ruộng đất ổn mật. Chư thiên không biết đường cúng hoa, ngoại đạo không thấy cửa để lén ngó. Trọn ngày đi mà chưa từng đi, trọn ngày nói mà chưa từng nói. Bèn khả dĩ tự do tự tại. Xoay cái cơ thốt trác, dụng cây kiếm sống chết. Dù được như thế, cần phải biết lập phương tiện giáo hóa, một tay nâng lên một tay đè xuống vẫn được đôi phần. Nếu là việc trên bổn phận còn chẳng dính dáng. Thế nào là việc bổn phận, thử cử xem?

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Cảnh Thanh: Học nhân thốt (kêu) thỉnh Thầy trác (mổ)? Cảnh Thanh bảo: Lại được sống chăng? Tăng thưa: Nếu chẳng sống bị người cười chê. Cảnh Thanh bảo: Cũng là kẻ ở trong cỏ.

GIẢI THÍCH: Cảnh Thanh kế thừa Tuyết Phong. Sư cùng Bổn Nhơn, Huyền Sa, Sơ Sơn, Thái Nguyên Phù đồng thời yết kiến Tuyết Phong, được yếu chỉ. Sau Sư thường dùng cơ thốt trác (kêu mổ) để khai thị kẻ hậu học, khéo hay ứng cơ thuyết pháp. Sư dạy chúng: Phàm người đi hành cước phải đủ con mắt đồng thời thốt trác, có cái dụng đồng thời thốt trác, mới gọi là Thiền tăng. Như mẹ muốn trác (mổ) thì con không thể chẳng thốt (kêu), con muốn thốt (kêu) thì mẹ không thể chẳng trác (mổ). Có vị Tăng ra hỏi: Mẹ trác con thốt, ở trên phần của Hòa thượng thành được việc gì? Cảnh Thanh đáp: Tin tức hay. Tăng hỏi: Mẹ trác con thốt, ở trên phần của học nhân thành được việc gì? Cảnh Thanh đáp: Bày cái bộ mặt. Vì thế đồ đệ Cảnh Thanh có cơ thốt trác.

Vị Tăng này cũng là khách trong môn hạ, nên hiểu được việc trong nhà, mới hỏi: Học nhân thốt thỉnh Thầy trác? Câu hỏi này trong tông Tào Động gọi là tá sự minh cơ (mượn việc rõ cơ). Vì sao như thế? Con kêu mẹ mổ tự nhiên đúng lúc. Cảnh Thanh cũng khéo, đáng gọi là tay chân tương ưng, tâm mắt chiếu nhau, liền đáp: “Lại được sống chăng?” Vị Tăng kia cũng khéo, cũng biết cơ biến, dưới một câu có khách có chủ, có chiếu có dụng, có chết có sống, liền thưa: “Nếu chẳng sống bị người chê cười.” Cảnh Thanh bảo: “Cũng là kẻ ở trong cỏ.” Bậc nhất là vào bùn vào nước, Cảnh Thanh quả là thủ đoạn ác. Vị Tăng này đã biết hỏi thế ấy, vì sao lại nói là “kẻ ở trong cỏ”? Bởi vậy, bậc tác gia phải nhãn mục thế ấy, như chọi đá nháng lửa, như làn điện chớp, kết được hay kết chẳng được chưa khỏi tan thân mất mạng. Nếu được thế ấy, liền thấy Cảnh Thanh nói “kẻ ở trong cỏ”.

Nam Viện dạy chúng: Các nơi chỉ đủ con mắt thốt trác đồng thời, mà không đủ cái dụng thốt trác đồng thời. Có vị Tăng ra hỏi: Thế nào là cái dụng thốt trác đồng thời? Nam Viện bảo: Tác gia chẳng thốt trác, thốt trác đồng thời mất. Tăng thưa: Vẫn là chỗ nghi của con. Nam Viện bảo: Tại sao là chỗ nghi của ông? Tăng thưa: Mất. Nam Viện liền đánh. Vị Tăng không chấp nhận. Nam Viện đuổi ra. Vị Tăng này sau đến trong hội Vân Môn nhắc lại thoại này, có vị Tăng nói “cây gậy của Nam Viện gãy”. Vị Tăng bỗng nhiên có tỉnh. Hãy nói ý tại chỗ nào? Vị Tăng này trở lại yết kiến Nam Viện, Nam Viện vừa tịch, đến yết kiến Phong Huyệt. Ông vừa lễ bái, Phong Huyệt hỏi: Có phải vị Tăng khi tiên sư còn sống hỏi thốt trác đồng thời ấy chăng? Tăng thưa: Phải. Phong Huyệt hỏi: Khi ấy ông hiểu thế nào? Tăng thưa: Con buổi đầu giống như người đi trong ánh đèn. Phong Huyệt bảo: Ngươi đã hiểu. Hãy nói là đạo lý gì? Vị Tăng này chỉ nói “con buổi đầu giống như người đi trong ánh đèn”, tại sao Phong Huyệt lại bảo y “ông đã hiểu”? Sau này Thúy Nham niêm rằng: Nam Viện tuy nhiên toan tính trong màn, đâu ngờ đất rộng người thưa, kẻ tri âm quá ít. Phong Huyệt niêm rằng: Nam Viện khi ấy đợi y mở miệng đánh ngay xương sống, xem y làm gì?

Nếu thấy được công án này là thấy chỗ vị Tăng kia cùng Cảnh Thanh thấy nhau. Các ông làm sao khỏi được Cảnh Thanh nói “kẻ ở trong cỏ”? Vì thế, Tuyết Đậu thích Cảnh Thanh nói “kẻ ở trong cỏ”, liền tụng ra:

TỤNG:

Cổ Phật hữu gia phong
Đối dương tao biếm bác
Tử mẫu bất tương tri
Thị thùy đồng thốt trác
Trác giác du tại xác
Trùng tao phác
Thiên hạ nạp Tăng đồ danh mạo.

DỊCH:

Cổ Phậtgia phong
Đối nêu bị lột đuổi
Mẹ con chẳng biết nhau
Thì ai đồng kêu mổ
Mổ biết, vẫn trong vỏ
Lại bị vỗ
Cả thảy Thiền tăng theo danh mạo.

GIẢI TỤNG: “Cổ Phật có gia phong”, Tuyết Đậu tụng một câu xong rồi. Phàm là người xuất đầu tức là gần bên chẳng được. Nếu gần bên được thì muôn dặm Nhai Châu, vừa xuất đầu bèn rơi trong cỏ. Dù cho bảy dọc tám ngang chẳng tiêu một cái ấn tay. Tuyết Đậu nói “cổ Phật có gia phong”, chẳng phải hiện nay thế ấy. Đức Thích-ca khi mới sanh, tay chỉ trời tay chỉ đất nói “trên trời dưới trời, chỉ ta hơn hết”. Vân Môn nói: “Khi ấy tôi thấy đập một gậy chết tốt, cho chó ăn, mới mong thiên hạ thái bình.” Như thế mới đền được cái ơn lớn. Vì thế, cái cơ thốt trác đều là “cổ Phật có gia phong”. Nếu người đạt được đạo này, liền hay một đấm, đấm ngã lầu Hoàng Hạc, một đạp, đạp nhào Châu Anh Võ. Như đống lửa lớn, gần nó thì cháy hết mặt mày. Như kiếm Thái A toan hươi thì tan thân mất mạng. Cái này chỉ là người thấu thoát được đại giải thoát, mới hay như thế. Nếu là kẻ lầm nguồn kẹt câu, nhất định bám vào loại thuyết thoại này chẳng được. “Đối nêu bị lột đuổi”, tức là một khách một chủ, một hỏi một đáp, ở chỗ hỏi đáp liền có lột toác đuổi đi, gọi đó là “đối nêu bị lột đuổi”. Tuyết Đậu biết thấu việc này, nên chỉ cần hai câu là tụng xong. Về sau chỉ là rơi trong cỏ, vì ông chú phá. “Mẹ con chẳng biết nhau, thì ai đồng kêu mổ”, mẹ tuy mổ mà không thể đến con kêu, con tuy kêu mà không thể đến mẹ mổ, mỗi bên đều không thể biết nhau. Chính khi kêu mổ (gà con kêu gà mẹ mổ khi trứng gà sắp nở) thì ai đồng kêu mổ? Nếu hiểu thế ấy thì vượt ra câu sau của Tuyết Đậu không nổi. Vì sao? Hương Nghiêm nói: “Con kêu mẹ mổ, con biết không vỏ, mẹ con đều quên, ứng duyên chẳng tối, đồng đạo xướng hòa, diệu huyền độc cước.” Tuyết Đậu chẳng ngại rơi trong cỏ làm sắn bìm. Tụng nói một chữ “mổ” là chỉ Cảnh Thanh đáp “lại được sống chăng”. Tụng nói chữ “biết” là chỉ vị Tăng này nói “nếu chẳng sống bị người chê cười”. Vì sao Tuyết Đậu lại nói “còn trong vỏ”? Tuyết Đậu nhằm trong đá nháng phân biệt trắng đen, trong cơ điện xẹt chia mối góc. Cảnh Thanh nói “cũng là kẻ trong cỏ”, Tuyết Đậu lại bảo “lại bị vỗ”. Chỗ khó này chính là Cảnh Thanh nói “cũng là kẻ trong cỏ”. Bảo là Cảnh Thanh móc tròng con mắt người được chăng? Câu này có phải còn “trong vỏ” chăng? Hẳn là chẳng giao thiệp. Vì sao như thế? Nếu người hiểu được đi hành cước quanh trong thiên hạ vẫn có phần đền ơn. Sơn tăng nói thoại thế ấy cũng là kẻ rơi trong cỏ. “Cả thảy Thiền tăng theo danh mạo”, ai là người chẳng danh mạo? Đến trong đây Tuyết Đậu tự chẳng khỏi danh mạo, lại làm lụy đến cả thảy Thiền tăng. Hãy nói Cảnh Thanh thế nào là chỗ vì vị Tăng kia? Cả thảy Thiền tăng nhảy chẳng khỏi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11396)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11559)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13559)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14127)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10313)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10785)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11340)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11285)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11441)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10178)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9970)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10718)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11321)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42229)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10491)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11865)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10023)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10464)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10638)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45791)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32130)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11335)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10708)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11335)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10637)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13462)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12382)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11044)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10626)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12332)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11175)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11852)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29289)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9221)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10555)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10247)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10599)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10912)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10812)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32159)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27411)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17813)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11883)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12293)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10448)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11702)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10438)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10795)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28095)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10164)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10291)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10659)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10774)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11235)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10404)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10697)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11481)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18272)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10529)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12859)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11757)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29208)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28614)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28311)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13331)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22790)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13447)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11583)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13831)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25735)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26091)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22324)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14492)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12077)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11813)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11693)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11497)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33207)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31858)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12045)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39640)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22508)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11966)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14244)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13352)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14310)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12076)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10415)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11238)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13331)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34544)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12635)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12238)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13535)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12630)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12988)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16312)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11760)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27404)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28441)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant