Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

7. Tắc 17 - Tắc 19

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11948)
7. Tắc 17 - Tắc 19

BÍCH NHAM LỤC
Tác giả: Thiền sư Viên Ngộ - Việt dịch: HT. Thích Thanh Từ
Tu viện Chân Không 1980

TẮC 17

HƯƠNG LÂM NGỒI LÂU SANH NHỌC

LỜI DẪN: Chặt đinh cắt sắt mới đáng làm bổn phận Tông sư, né tên tránh đao đâu thể làm tác giả thông phương. Chỗ dùi châm chẳng vào hãy gác lại, khi sóng dậy ngập trời thì thế nào, thử cử xem?

CÔNG ÁN: Tăng hỏi Hương Lâm: Thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang? Hương Lâm đáp: Ngồi lâu sanh nhọc.

GIẢI THÍCH: Hương Lâm nói “ngồi lâu sanh nhọc”, lại hiểu chăng? Nếu hiểu được thì trên đầu trăm cỏ dứt hết can qua, nếu chẳng hiểu thì lắng nghe xử phân. Cổ nhân đi hành cước chọn lựa bạn đồng hành để vạch cỏ xem gió(1). Khi ấy, Vân Môn thịnh hóa ở Quảng Nam, Hương Lâm thường ra đất Thục đồng thời với Nga Hồ, Cảnh Thanh, trước đến tham vấn Báo Từ ở Hồ Nam, sau mới đến trong hội Vân Môn làm Thị giả mười tám năm. Ở chỗ Vân Môn thân được, thân nghe, Sư ngộ tuy trễ, song quả là bậc đại căn khí. Sư ở bên cạnh Vân Môn mười tám năm, Vân Môn thường kêu “Thị giả Viễn”, Sư vừa đáp “dạ”, Vân Môn hỏi: “Là cái gì?” Khi ấy Hương Lâm cũng hạ ngữ, trình kiến giải, đùa tinh hồn, song trọn chẳng khế hợp. Một hôm Sư bỗng nhiên la: Con đã hội! Vân Môn bảo: Sao chẳng nói một câu hướng thượng xem? Sư ở thêm ba năm. Trong thất, Vân Môn phóng những đại cơ biện, hơn phân nửa vì Thị giả Viễn, tùy chỗ nhập tác. Vân Môn phàm có một lời một câu, trọn nhằm vào chỗ Thị giả Viễn. Sau Hương Lâm trở về đất Thục, ban đầu ở cung Thủy Tinh tại Đạo Giang, sau trụ chùa Hương Lâm ở Thanh Thành. Hòa thượng Tộ ở Trí Môn gốc người Chiết, nghe Hương Lâm giáo hóa thạnh hành liền đến đất Thục để tham lễ. Hòa thượng Tộ là thầy của Tuyết Đậu. Vân Môn tuy tiếp người vô số, song hiện thời đạo hành chỉ một phái Hương Lâm là thạnh hành. Sư trở về Tứ Xuyên trụ viện bốn mươi năm, được tám mươi tuổi mới thiên hóa. Sư thường nói: Ta bốn mươi năm mới thành một mảnh. Phàm dạy chúng, Sư nói: Đi hành cước tham tầm tri thức, cần để mắt mà đi, phải phân đen trắng, thấy cạn sâu mới được. Trước cần phải lập chí, đức Thích-ca khi còn tu nhân, phát một lời một niệm đều là lập chí. Sau này có vị Tăng đến hỏi: Thế nào là một ngọn đèn ở trong thất? Hương Lâm đáp: Ba người làm chứng rùa thành trạnh. Tăng lại hỏi: Thế nào là việc của kẻ áo nạp? Hương Lâm đáp: Tháng chạp lửa cháy núi.

Xưa nay đáp ý Tổ sư rất nhiều, chỉ có một tắc này của Hương Lâm là ngồi cắt đầu lưỡi người trong thiên hạ, không có chỗ cho ông suy tính đạo lý. Tăng hỏi: Thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang? Hương Lâm đáp: Ngồi lâu sanh nhọc. Đáng gọi là lời không vị, câu không vị, nói không vị, lấp bít miệng người, không có chỗ để ông hà hơi. Cần thấy liền thấy, nếu chẳng thấy tối kỵ khởi giải hội. Hương Lâm đã từng gặp bậc tác gia, cho nên có thủ đoạn của Vân Môn, có ba câu thể diệu. Nhiều người hiểu lầm nói: Tổ sư Tây sang chín năm ngồi xây mặt vào vách, há chẳng phải ngồi lâu sanh nhọc? Quả thật có trúng vào đâu. Chẳng thấy cổ nhân được đại tự tại, chân đạp đến đất thật, không có nhiều thứ Phật pháp, tri kiến, đạo lý, gặp việc liền ứng dụng. Thế nên nói “pháp theo pháp hành, pháp tràng tùy chỗ dựng lập”. Tuyết Đậu nhân gió thổi lửa, ghé bên chỉ ra một cái nửa cái.

TỤNG:

Nhất cá lưỡng cá thiên vạn cá
Thoát khước lung đầugiác đà
Tả chuyển hữu chuyển tùy hậu lai
Tử Hồ yếu đả Lưu Thiết Ma.

DỊCH:

Một cái hai cái ngàn muôn cái
Lột bỏ dây dàm tháo yên cương
Xoay tả xoay hữu tùy kẻ sau
Tử Hồ cần đánh Lưu Thiết Ma.

GIẢI TỤNG: Tuyết Đậu liền đó như chọi đá nháng lửa, tợ làn điện chớp đẩy ra cho ông thấy. Ông nghe nói đến liền hội mới được. Sư quả là con cháu trong nhà, mới hay nói như thế. Nếu khéo thẳng đó liền hiểu thế ấy, quả là người kỳ đặc. Hai câu “một cái hai cái ngàn muôn cái, lột bỏ dây dàm tháo yên cương”, sạch trọi thong dong, chẳng bị sanh tử làm nhiễm, chẳng bị tình giải Thánh phàm trói buộc, trên không có chỗ vin theo, dưới bặt chấp ta mình, nhất như dường thể Hương Lâm, Tuyết Đậu, đâu những ngàn muôn cái, nhẫn đến mọi người trên quả đất thảy như thế, Phật trước Phật sau thảy như thế. Nếu như ở trong ngôn cú khởi giải hội, liền như Tử Hồ đánh Lưu Thiết Ma, vừa nêu lên theo tiếng liền đánh. Tử Hồ tham vấn Nam Tuyền cùng Triệu Châu, Trường Sa Cảnh Sầm là bạn đồng tham. Khi ấy, Lưu Thiết Ma cất am ở dưới núi Qui, các nơi đều nể bà. Một hôm, Tử Hồ đến tham vấn, hỏi: Có phải là Lưu Thiết Ma chăng? Thiết Ma đáp: Chả dám. Tử Hồ hỏi: Xoay bên trái (mài) hay xoay bên phải (mài)? Thiết Ma đáp: Hòa thượng chớ điên đảo. Tử Hồ theo tiếng liền đánh. Hương Lâm đáp câu hỏi của vị Tăng “thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang”, nói “ngồi lâu sanh nhọc”. Nếu thế ấy hội được thì xoay trái xoay phải tùy hậu lai. Hãy nói Tuyết Đậu tụng ra như thế là ý tại chỗ nào? Vô sự tốt, xin hãy cử xem?

TẮC 18

TRUNG QUỐC SƯ THÁP VÔ PHÙNG

CÔNG ÁN: Hoàng đế Túc Tông hỏi Quốc sư Huệ Trung: Sau khi trăm tuổi có cần vật gì? Quốc sư tâu: Vì Lão tăng xây cái tháp Vô Phùng. Vua hỏi: Xin Thầy cho kiểu tháp. Quốc sư im lặng giây lâu hỏi: Hiểu chăng? Vua nói: Chẳng hiểu. Quốc sư tâu: Tôi có đệ tử phó pháp là Đam Nguyên thông hiểu việc này, xin vời đến hỏi. Sau khi Quốc sư tịch, vua vời Đam Nguyên hỏi ý này thế nào, Đam Nguyên tâu: Phía Nam sông Tương, phía Bắc cái đầm (Tuyết Đậu trước ngữ: Một tay vỗ chẳng kêu), ở giữa vàng ròng đầy một nước (Tuyết Đậu trước ngữ: Núi hình cây gậy), dưới cây không bóng nên đồng thuyền (Tuyết Đậu trước ngữ: Sông trong biển lặng), trên điện Lưu-ly không tri thức (Tuyết Đậu trước ngữ: Nêu rồi vậy).

GIẢI THÍCH: Túc Tông, Đại Tông đều là con cháu của Huyền Tông, khi còn làm Thái tử thích tham thiền. Vì nước có nhiều trộm cướp, Huyền Tông dời sang đất Thục. Cố đô nhà Đường ở Trường An, bị An Lộc Sơn chiếm cứ, sau dời đô sang Lạc Dương. Khi Túc Tông lên nhiếp chánh thì Quốc sư Huệ Trung đang trụ am trên núi Bạch Nhai thuộc Đặng Châu, nay là đạo tràng Hương Nghiêm. Quốc sư hơn bốn mươi năm không xuống núi, đạo hạnh đồn đến tai vua. Niên hiệu Thượng Nguyên năm thứ hai (761), vua sai Trung sứ mời nhập nội, đãi theo lễ thầy trò rất là kính trọng. Quốc sư thường vì Vua diễn nói đạo vô thượng. Mỗi khi Quốc sư thối triều, Vua tự vin xe đưa đi, quần thần đều tỏ vẻ bực bội, muốn tâu Vua chỗ chẳng tiện đó. Quốc sư đủ Tha tâm thông, khi thấy Vua liền tâu: Tôi ở trước trời Đế Thích, thấy Thiên tử Túc Tán nhanh như làn điện chớp. Vua càng thêm kính trọng. Đến Đại Tông lên ngôi, lại mời Quốc sư ở chùa Quang Trạch mười sáu năm, tùy cơ nói pháp. Niên hiệu Đại Lịch thứ mười (775), Quốc sư thiên hóa. Hòa thượng Thanh Tỏa ở phủ Sơn Nam xưa là bạn đồng hành của Quốc sư, Quốc sư thường tâu Vua mời về triều, Vua mời ba phen mà không đến, lại mắng Quốc sư là đam danh ái lợi luyến trước nhân gian. Quốc sư làm Quốc sư đến ba triều đại, cha con nhà vua đều thích tham thiền. Cứ theo Truyền Đăng Lục khảo cứu thì câu hỏi này của Đại Tông hỏi. Câu hỏi Quốc sư: “thế nào là mười thân Điều Ngự”, mới là của Túc Tông.

Quốc sư duyên hết sắp vào Niết-bàn từ giã Đại Tông. Đại Tông hỏi Quốc sư: “Sau khi trăm tuổi có cần vật gì?” Chỉ là một câu hỏi bình thường, mà ông già không gió nổi sóng, nói: “Vì Lão tăng xây cái tháp Vô Phùng.” Hãy nói bạch nhật thanh thiên như thế, làm sao xây cái tháp được? Vì sao lại nói xây cái tháp Vô Phùng? Đại Tông quả là tay tác gia cho ông một cái tát, liền hỏi: “Thỉnh Thầy cho kiểu tháp.” Quốc sư im lặng giây lâu nói: “Hiểu chăng?” Kỳ quái, cái này thật khó tham cứu. Quốc sư bị Vua một cái tát, liền miệng như tấm biển. Song tuy nhiên như thế, nếu chẳng phải là ông già này, cơ hồ té nhào rồi. Lắm người nói chỗ Quốc sư không nói chính là kiểu tháp. Nếu hiểu thế ấy, một tông Đạt-ma mất sạch. Nếu bảo im lặng là phải thì kẻ câm cũng hội Thiền. Há chẳng thấy ngoại đạo hỏi Phật: Chẳng hỏi có lời, chẳng hỏi không lời. Thế Tôn im lặng giây lâu. Ngoại đạo lễ bái khen ngợi: Thế Tôn đại từ đại bi vẹt đám mây mờ cho con, khiến con được vào. Khi ngoại đạo đi rồi, A-nan hỏi Phật: Ngoại đạo có sở chứng gì mà nói được vào? Thế Tôn đáp: Như con ngựa hay ở thế gian vừa thấy bóng roi liền chạy. Đa số người nhắm vào chỗ im lặng mà hiểu, thật có gì là phải. Ngũ Tổ tiên sư niêm rằng: “Mặt trước là trân châu mã não, mặt sau là mã não trân châu, bên Đông là Quan Âm, Thế Chí, bên Tây là Văn-thù, Phổ Hiền, khoảng giữa có cái phan bị gió thổi kêu hồ lô, hồ lô.” Quốc sư hỏi: Hiểu chăng? Vua nói: Chẳng hiểu. Cũng được chút ít. Hãy nói cái chẳng hiểu này với cái chẳng biết của Võ Đế là đồng hay khác? Tuy nhiên giống thì giống, mà phải thì chưa phải. Quốc sư nói: “Tôi có đệ tử phó pháp là Đam Nguyên thông hiểu việc này, xin vời đến hỏi.” Tuyết Đậu niêm: “Một tay vỗ chẳng kêu.” Đại Tông chẳng hiểu thì gác lại, Đam Nguyên lại hiểu chăng? Chỉ tiêu được cái nói “thỉnh Thầy kiểu tháp”. Mọi người trên quả đất cũng không làm sao được. Ngũ Tổ tiên sư niêm: “Ông là thầy một nước, vì sao chẳng nói lại đẩy qua đệ tử.” Sau khi Quốc sư thiên hóa, Vua vời Đam Nguyên đến hỏi ý này thế nào, Đam Nguyên lại vì Quốc sư nói Hồ nói Hán, nói đạo lý, tự nhiên hiểu lời nói của Quốc sư. Chỉ tiêu một bài tụng: “Bên Nam sông Tương, bên Bắc cái đầm, khoảng giữa có vàng ròng đầy một nước, dưới cây không bóng nên đồng thuyền, trên điện Lưu-ly không tri thức.” Đam Nguyên tên Ứng Chơn làm Thị giả Quốc sư, sau trụ chùa Đam Nguyên ở Kiết Châu.

Khi ấy, Ngưỡng Sơn đến tham vấn, Đam Nguyên nói: Trọng tánh ác không thể phạm, trụ chẳng được. Trước khi Ngưỡng Sơn đến tham vấn Đam Nguyên, có tham vấn Thiền sư Tánh Không. Có vị Tăng hỏi Tánh Không: Thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang? Tánh Không đáp: Như người ở trong giếng sâu ngàn thước, chẳng nhờ một tấc dây mà kéo ra được, tức đáp ông ý Tây sang. Tăng thưa: Gần đây Hòa thượng Xướng ở Hồ Nam cũng vì người nói Đông nói Tây. Tánh Không bèn gọi: Sa-di! Lôi cái tử thi này ra. Sau Ngưỡng Sơn đem hỏi Đam Nguyên: Thế nào là kéo người trong giếng ra được? Đam Nguyên bảo: Dốt! Kẻ si, ai ở trong giếng? Ngưỡng Sơn chẳng khế hội. Sau đến Qui Sơn, Sư lại hỏi. Qui Sơn gọi: Huệ Tịch! Sư ứng thanh: Dạ! Qui Sơn bảo: Ra rồi. Ngưỡng Sơn liền đại ngộ, nói: Con ở chỗ Đam Nguyên được thể, chỗ Qui Sơn được dụng.

Chỉ một bài tụng này dẫn người khởi tà giải chẳng ít. Nhiều người hiểu lầm nói: Tương là tương kiến, đàm là đàm luận, khoảng giữa có cái tháp Vô Phùng, cho nên nói trong có vàng ròng đầy một nước. Vua cùng Quốc sư đối đáp là dưới cây không bóng nên đồng thuyền. Vua không hiểu nên nói: Trên điện Lưu-ly không tri thức. Lại có người nói: Tương là phía nam Tương Châu, Đàm là phía bắc Đàm Châu. Giữa có vàng ròng đầy một nước là tụng nhà quan, liếc mắt nhìn xem nói, cái này là tháp Vô Phùng. Hiểu thế ấy, thật chẳng ra ngoài tình kiến. Đến như Tuyết Đậu hạ bốn chuyển ngữ lại làm sao hiểu? Người nay toàn không hiểu ý cổ nhân. Thử nói phía Nam sông Tương, phía Bắc cái đầm, ông làm sao hiểu? Giữa có vàng ròng đầy một nước, ông làm sao hiểu? Dưới cây không bóng nên đồng thuyền, ông làm sao hiểu? Trên điện Lưu-ly không tri thức, ông làm sao hiểu? Nếu thế ấy thấy được thật là thỏa mãn bình sanh. Phía Nam sông Tương, phía Bắc cái đầm, Tuyết Đậu nói: Một tay vỗ chẳng kêu, bất đắc dĩ cùng ông nói. Giữa có vàng ròng đầy một nước, Tuyết Đậu nói: Núi hình giống cây gậy. Cổ nhân nói: Biết cây gậy, việc tham học một đời được xong. Dưới cây không bóng nên đồng thuyền, Tuyết Đậu nói: Sông trong biển lặng. Đồng thời mở hoác cửa nẻo, tám mặt linh lung. Trên điện Lưu-ly không tri thức, Tuyết Đậu nói: Niêm rồi vậy. Đồng thời vì ông nói xong vậy, quả là khó thấy, thấy được cũng tốt, chỉ là có chỗ nhận lầm, theo lời sanh hiểu. Đến rốt sau nói niêm rồi vậy, lại còn chút ít so sánh. Tuyết Đậu phân minh một lúc hạ ngữ xong. Đoạn sau riêng tụng cái tháp Vô Phùng.

TỤNG:

Vô phùng tháp
Kiến hoàn nan
Trừng đàm bất hứa thuơng long bàn.
Tằng lạc lạc
Ảnh đoàn đoàn
Thiên cổ vạn cổ dữ nhân khan.

DỊCH:

Tháp Vô Phùng 
Càng khó thấy
Đầm trong chẳng cho rồng to cuộn.
Từng lộng lẫy
Bóng tròn tròn
Ngàn xưa muôn xưa cho người xem.

GIẢI THÍCH: Tuyết Đậu ngay đầu nói: Tháp Vô Phùng, càng khó thấy. Tuy nhiên riêng bày chẳng giấu, song mà khi cần thấy lại khó thấy. Tuyết Đậu từ bi tột độ lại vì ông nói “đầm trong chẳng cho rồng to cuộn”. Ngũ Tổ tiên sư nói: Tuyết Đậu tụng cổ một tập, tôi chỉ thích câu “đầm trong chẳng cho rồng to cuộn”. Vẫn còn đôi chút so sánh. Nhiều người nhằm chỗ Quốc sư im lặng làm kế sống. Nếu hiểu thế ấy một lúc lầm rồi. Đâu chẳng nghe nói: Rồng nằm chẳng chọn nước đọng; chỗ không, có trăng sóng lặng; chỗ có, không gió dậy sóng. Lại nói: Rồng nằm hằng sợ đầm trong biếc. Nếu loại này, dù cho nước dậy mênh mông, sóng bủa ngập trời, cũng chẳng ở trong đó uốn khúc. Tuyết Đậu tụng đến đây đã xong. Phần sau thêm đôi phần nhãn mục tô đắp nên cái tháp Vô Phùng. Theo sau nói: Từng lộng lẫy, bóng tròn tròn, ngàn xưa muôn xưa cho người xem. Ông làm sao xem? Hiện nay ở chỗ nào? Dù cho ông thấy được rõ ràng, chớ lầm nhận trái cân bàn (một tiêu chuẩn cố định).

TẮC 19

CÂU CHI ĐƯA MỘT NGÓN TAY

LỜI DẪN: Giở một hạt bụi quả đất thâu, một hoa nở thế giới động. Nếu khi bụi chưa giở, hoa chưa nở làm sao để mắt?

Vì thế nói: Như chặt một cuộn tơ, một chặt thì tất cả đều chặt, như nhuộm một cuộn tơ, một nhuộm thì tất cả đều nhuộm. Chỉ như hiện nay cắt đứt sắn bìm, vận xuất của báu nhà mình, thấp cao khắp ứng, sau trước không sai, mỗi mỗi hiện thành. Nếu chưa được vậy, xem lấy văn sau.

CÔNG ÁN: Hòa thượng Câu Chi, phàm có người hỏi chỉ đưa một ngón tay.

GIẢI THÍCH: Nếu nhằm trên đầu ngón tay hiểu thì cô phụ Câu Chi. Nếu chẳng nhằm trên đầu ngón tay hiểu thì giống như đúc gang làm đồ dùng. Hiểu cũng thế ấy, chẳng hiểu cũng thế ấy, cao cũng thế ấy, thấp cũng thế ấy, phải cũng thế ấy, quấy cũng thế ấy. Do đó nói: Một hạt bụi vừa dấy lên thì cả quả đất toàn thâu, một đóa hoa chớm nở thì toàn thế giới rúng động, một sợi lông sư tử thì trăm ức sợi lông hiện. Viên Minh nói: “Lạnh thì khắp trời khắp đất đều lạnh, nóng thì khắp trời khắp đất đều nóng, núi sông quả đất thấu tột huỳnh tuyền, vạn tượng sum la thông tận hư không.” Hãy nói là vật gì được kỳ quái thế ấy. Nếu biết được thì chẳng tiêu một cái ấn tay. Nếu biết chẳng được thì chướng ngại dẫy đầy.

Hòa thượng Câu Chi là người Kim Hoa Vụ Châu. Buổi đầu ở am, có vị Ni tên Thật Tế đến am, đi thẳng vào chẳng lột nón, cầm tích trượng đi nhiễu giường thiền ba vòng, nói: Nói được thì lột nón. Hỏi như thế đến ba lần, Câu Chi không đáp được. Vị Ni liền đi. Câu Chi nói: Trời đã chiều, cô hãy ở lại nghỉ. Cô Ni nói: Nói được thì ở lại. Câu Chi cũng không đáp được. Vị Ni liền đi. Câu Chi than: Ta tuy mang hình trượng phu mà không có khí trượng phu. Liền phát phẫn quyết rõ được việc này. Toan bỏ am đi các nơi tham thỉnh, làm người hành cước tôi luyện. Đêm ấy, Sơn thần đến mách: Chẳng cần rời chỗ này, ngày mai có nhục thân Bồ-tát đến, vì Hòa thượng nói pháp. Quả thật ngày hôm sau có Hòa thượng Thiên Long đến am. Câu Chi đón tiếp thưa rõ việc qua. Thiên Long liền đưa một ngón tay lên chỉ đó. Câu Chi bỗng nhiên đại ngộ. Bởi Câu Chi hiện thời trịnh trọng chuyên chú, nên thùng thông dễ lủng đáy. Sau này có ai hỏi, Sư liền đưa một ngón tay lên. Trường Khánh nói: Thức ăn ngon chẳng cần với người bụng no. Huyền Sa nói: Ta khi ấy nếu thấy liền bẻ gãy ngón tay. Huyền Giác nói: Huyền Sa nói thế ấy là ý làm sao? Vân Cư Tích nói: Huyền Sa nói thế ấy là thừa nhận Sư, là chẳng thừa nhận Sư? Nếu thừa nhận Sư sao nói bẻ gãy ngón tay? Nếu chẳng thừa nhận Sư thì Câu Chi lỗi tại chỗ nào? Tiên Tào Sơn nói: Chỗ thừa nhận của Câu Chi quá sơ sài, chỉ nhận được một cơ, một cảnh, nhảy lên một bậc liền vỗ tay quơ múa, thấy Tây Viên rất là kỳ quái. Huyền Giác lại nói: Câu Chi lại ngộ hay chưa, vì sao chỗ thừa đương quá sơ sài? Nếu là chẳng ngộ sao ông nói “bình sanh chỉ dùng một ngón tay thiền mà chẳng hết”? Hãy nói ý Tào Sơn tại chỗ nào? Đương thời quả nhiên Câu Chi chẳng hội, đến sau khi ông ngộ, phàm có ai hỏi chỉ đưa một ngón tay, vì sao ngàn người muôn người bủa vây ông chẳng được, đập phá chẳng vỡ? Nếu ông lấy ngón tay để hiểu, quyết định chẳng thấy ý cổ nhân. Loại thiền này dễ tham mà khó hội. Như người nay, có ai hỏi đến liền đưa ngón tay, đưa nắm tay lên, chỉ là lộng tinh hồn. Cần phải thấu cốt thấu tủy, thấy thấu mới được. Trong am Câu Chi có một đứa bé, ra ngoài bị người hỏi: Bình thường Hòa thượng lấy pháp gì dạy người? Đứa bé đưa một ngón tay lên. Trở về nó thưa lại với Hòa thượng, Câu Chi lấy dao chặt ngón tay nó, đau quá nó chạy kêu khóc. Câu Chi gọi một tiếng, nó xoay đầu lại, Câu Chi đưa ngón tay lên, nó hoát nhiên nhận hiểu. Hãy nói thấy được đạo lý gì? Đến khi sắp tịch, Sư nói với chúng: Ta được một ngón tay thiền của Thiên Long, bình sanh dùng chẳng hết, cần hiểu chăng? Sư đưa một ngón tay lên liền hóa. Sau này Minh Chiêu - con rồng một mắt - hỏi Sư thúc Thâm ở chùa Quốc Thới: Người xưa nói “Câu Chi chỉ niệm ba hàng chú, liền được danh siêu tất cả người”, làm sao vì người niệm ba hàng chú? Thâm cũng đưa một ngón tay lên. Chiêu thưa: Chẳng nhân ngày nay đâu biết được khách Qua Châu ấy. Hãy nói ý thế nào? Bí Ma bình sanh chỉ dùng một cây nạng. Hòa thượng Đả Địa phàm có người hỏi, đập đất một cái. Sau bị người giấu mất cây gậy, lại hỏi: “thế nào là Phật”, Sư chỉ hả miệng. Thế cũng là một đời dùng chẳng hết. Vô Nghiệp nói: Tổ sư xem cõi này có căn khí Đại thừa, riêng truyền tâm ấn, vạch bày lối mê. Người được chẳng chọn ngu hay trí, phàm cùng Thánh, vả lại đa hư chẳng bằng thiểu thật. Bậc đại trượng phu hiện nay, cần phải thôi hết đi, chóng dứt muôn duyên đi, vượt khỏi dòng sanh tử, thoát ra cung cách thường tình, dù có quyến thuộc trang nghiêm, chẳng cầu tự được. Vô Nghiệp một đời, phàm ai hỏi điều gì chỉ nói “chớ vọng tưởng”. Vì thế nói: Một chỗ thấu, ngàn chỗ muôn chỗ đồng thời thấu, một cơ sáng, ngàn cơ muôn cơ đồng thời sáng. Người nay thảy chẳng thế ấy, chỉ thích thả rong ý theo tình giải, chẳng hiểu chỗ tỉnh yếu của cổ nhân. Kia vẫn có bộ máy nhanh, chỗ xoay chuyển khéo, tại sao chỉ dùng một ngón tay? Phải biết Câu Chi đến trong đây có chỗ thâm mật vì người. Cốt hiểu được bớt nhọc sức biết mấy. Lại Viên Minh nói: Lạnh thì khắp trời khắp đất đều lạnh, nóng thì khắp trời khắp đất liền nóng. Núi sông đều thông suốt cô nguy, vạn tượng sum la triệt để hiểm tuấn. Chỗ nào được ngón tay Thiền này?

TỤNG:

Đối dương thâm ái lão Câu Chi
Vũ trụ không lai cánh hữu thùy
Tằng hướng thương minh hạ phù mộc
Dạ đào tương cộng tiếp manh qui.

DỊCH:

Đối dương rất thích lão Câu Chi 
Vũ trụ (từ) không (đến) nay có những gì?
Từng đến bể sâu thả cây nổi
Sóng đêm cùng tiếp gã manh qui.

GIẢI TỤNG: Tuyết Đậu hiểu văn chương tứ lục bảy thông tám suốt, phàm là công án lạ lùng kỳ đặc, riêng thích liền tụng. Hai câu “đối dương rất thích lão Câu Chi, vũ trụ (từ) không (đến) nay có những gì”, học giả thời nay ức dương cổ nhân, hoặc khách hoặc chủ, một hỏi một đáp, đối diện đề trì có chỗ vì người như thế, cho nên nói “đối dương rất thích lão Câu Chi”. Tuyết Đậu thích Câu Chi cái gì? Từ mở mang trời đất đến nay lại có người nào? Chỉ là một lão Câu Chi. Nếu là người khác phải tham tạp nhạp, duy lão Câu Chi chỉ dùng một ngón tay cho đến suốt đời. Thời nhân nhiều tà giải nói: Núi sông đất liền cũng không, người không pháp cũng không, dù cho vũ trụ một lúc không rồi, chỉ còn một lão Câu Chi. Thế là không dính dáng. Câu “từng đến biển sâu thả cây nổi”, như nay nói biển sanh tử, chúng sanh ở trong biển nghiệp vừa ra lại vào, chẳng rõ chính mình, không có ngày ra khỏi. Câu Chi buông lòng từ tiếp vật, ở trong biển sanh tử dùng một ngón tay tiếp người, giống như thả một khúc gỗ nổi để tiếp rùa mù, khiến các chúng sanh được đến bờ giác. Câu “sóng đêm cùng tiếp gã manh qui”, kinh Pháp Hoa nói: “Như con rùa một mắt gặp được bộng cây nổi, không còn cái hoạn chìm đắm.” Bậc đại thiện tri thức tiếp được một người như rồng tợ cọp, dạy y đến thế giới có Phật làm chủ khách, đến thế giới không Phật ngồi đoạn yếu tân. Tiếp được một con rùa mù kham dùng làm gì?


(1) Bát thảo chiêm phong (buông vọng hướng huyền chân).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11396)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11555)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13557)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14127)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10312)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10784)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11337)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11284)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11441)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10178)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9970)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10716)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11321)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42227)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10489)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11865)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10019)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10462)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10637)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45788)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32130)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11328)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10708)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11334)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10637)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13462)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12381)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11036)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10622)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12331)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11175)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11852)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29287)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9221)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10555)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10247)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10598)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10912)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10812)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32155)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27408)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17812)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11882)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12293)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10448)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11702)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10438)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10792)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28091)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10163)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10289)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10659)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10773)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11234)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10404)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10697)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11481)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18271)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10529)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12859)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11756)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29207)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28613)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28310)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13330)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22790)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13446)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11582)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13829)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25732)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26089)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22321)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14492)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12077)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11812)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11692)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11494)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33207)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31853)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12043)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39638)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22506)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11966)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14244)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13352)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14310)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12075)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10414)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11238)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13331)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34541)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12635)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12238)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13534)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12629)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12984)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16312)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11759)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27404)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28441)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant