Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Mùa xuân miên viễn

23 Tháng Tư 201100:00(Xem: 9375)
4. Mùa xuân miên viễn

CỬA THIỀN HÉ MỞ
Thượng Toạ Thích Thông Phương

MÙA XUÂN MIÊN VIỄN

I. THẾ GIAN KẸT TRONG THỜI GIAN VÔ THƯỜNG

Nói mùa xuân miên viễn là muốn gợi lại một cái gì mà người người đang bỏ quên. Bởi người thế gian luôn sống trong tâm vô thường, nên thấy nhìn cái gì cũng theo chiều vô thường và buồn vui theo ngoại cảnh. Chúng ta thường tán tụng xuân về hoa nở, chim ca hót, ca ngợi tuổi xuân đẹp như thơ v.v…, nhưng rồi một lúc xuân cũng đi qua và nhớ lại liền tiếc nuối! Năm mới thì chúc tụng, mừng tuổi, ngờ đâu lên một tuổi là mất một năm, là bớt đi một tuổi thọ, nghĩa là rút ngắn bớt thời gian mình có mặt trên đời.

Thiền sư Thiên Tùng có hai câu thơ nói về xuân:

Kim triêu tận đạo thiêm nhất tuế,

Ngô đạo như kim giảm nhất niên.

Nghĩa:

Sáng nay người bảo thêm một tuổi,

Tôi nói ngày này bớt một năm.

Lẽ thật là như thế. Bởi con người chúng ta luôn sống trong tưởng tượng quá nhiều hơn sự thật. Bảo xuân về, nhưng xuân ở đâu mà về? Rồi đi đâu? Chỉ là thời tiết đến thì hoa nở, nở xong thì tàn, một dòng trôi chảy liên tục vậy thôi. Chúng ta lại chặn ngang một đoạn, gán cho nó cái tên “mùa xuân” để tạm vui với nhau. Song mùa xuân có đến, có đi, đó là mùa xuân của sự vô thường sinh diệt, nó gạt con mắt phàm vui buồn trong đó; với người hiểu đạo thì đâu thể lầm mê!

Với người hiểu đạo, phải thấy cái gì cao siêu hơn, không thể giam mình trong cái tầm thường hư ảo này!

Thượng Sĩ Tuệ Trung có bài kệ nói về: KHUYÊN ĐỜI VÀO ĐẠO:

Tứ tự tuần hoàn xuân phục thu,

Xâm xâm dĩ lão thiếu niên đầu.

Vinh hoa khẳng cố nhất trường mộng,

Tuế nguyệt không hoài vạn hộc sầu.

Khổ thú luân hồi như chuyển cốc,

Ái hà xuất một đẳng phù âu.

Phùng trường diệc bất mô lai tỷ,

Vô hạn lương duyên chỉ ma hưu.

Nghĩa:

Thời tiết xoay vần xuân tới thu,

Tuổi già vùn vụt phủ lên đầu.

Giàu sang nhìn lại một cơn mộng,

Năm tháng ôm suông muôn hộc sầu.

Nẽo khổ luân hồi vành xe chuyển,

Sông yêu chìm nổi tợ bọt xao.

Gặp dịp chẳng liền sờ lên mũi,

Thôi thế duyên lành bao thuở nào!

Đây là Thượng Sĩ ân cần nhắc nhở mọi người, chớ đắm mê theo cuộc vô thường của thế gian này, say đắm ở trong đó mà tạo tác lăng xăng, rốt cuộc chỉ ôm khổ, ôm sầu, tay không cũng hoàn tay không. Theo đó, tức là theo hòn bọt nổi mà lên xuống, chìm nổi trong vòng luân hồi, quên mất biển cả thênh thang. Ngay đây đã gặp dịp đánh thức cho mình, phải tỉnh lại, sờ lên mũi xem! Một lẽ thật muôn thuở ngàn đời vẫn hằng sẵn đó mà không chịu nhận, lại nhớ đâu đâu, đuổi theo bắt bóng tìm bọt, cuối cùng trả về cho KHÔNG! Đành bỏ qua duyên lành hy hữu này sao?

Mã Tổ một hôm cùng Hoài Hải đi dạo, thấy bầy vịt trời bay qua, Mã Tổ liền chỉ đó hỏi:

- Đó là cái gì?

Hoài Hải thưa:

- Bầy vịt trời.

Mã Tổ hỏi:

- Bay đi dâu?

Hoài Hải thưa:

- Bay qua.

Mã Tổ bèn nắm mũi Hoài Hải vặn mạnh, đau quá Sư la lên. Mã Tổ bảo:

- Lại nói bay qua đi!

Ngay câu đó, Hoài Hải tỉnh ngộ.

Hoài Hải ban đầu theo thường tình cứ lo nhớ bầy vịt trời, quên mất chính mình đang hiện hữu. Mã Tổ thấy thấu được điểm ấy nên nhéo mũi đánh thứctrở lại. Hoài Hải đau điếng la lên, mới hay lẽ thật từ xưa vẫn sờ sờ đó thôi, chưa từng thiếu vắng bao giờ! Có bay đi đâu? Chớ quên mình theo vật đành chịu lang thang rất đáng thương!

II. XUÂN TRONG TỰ TÁNH

Quả thật, ai ai cũng đều có một quê hương sáng ngời với mùa xuân muôn thuở, chưa từng có đến đi, nở tàn, thay đổi theo thời gian mà đành bỏ quên một cách đáng thương! Thiền sư thấy được lẽ thật ấy nên dùng mọi phương tiện đánh thức chúng ta sống lại chỗ này, chính đó là nguồn sống vĩnh viễn không cùng tận.

Thiền sư Tiên Đỗ hiệu Vô Kiến có bài thơ Ở NÚI:

Trang Sanh hữu ý năng tề vật,

Ngã dã vô tâm dữ vật tề.

Độc tọa bồ đoàn xuân nguyệt noãn,

Nhất thanh u điểu cách song đề.

Nghĩa:

Trang Chu có ý hay tề vật,

Ta chỉ vô tâm cùng vật tề.

Độc tọa bồ đoàn ngày xuân ấm,

Một tiếng chim kêu xa vọng về.

Nghĩa là, Trang Chu đem tâm muốn an bài vật, khiến cảnh vật theo ý mình; đâu biết rằng, càng khởi tâm thì cảnh càng động, càng loạn, càng sai biệt thôi. Vừa khởi tâm tề vật, là vật đã sai biệt rồi! Chỉ tự vô tâm thì cảnh tự an bài, vật tự tề, núi tự là núi, sông tự là sông.

Ngày xuân ấm, ngồi một mình trên bồ đoàn, chợt một tiếng chim kêu cách cửa sổ, từ xa vọng về! Xa vọng về đâu? Tức vọng về “Con Người Mãi Xuân” đang ngồi đó!

Ô kìa! Bên song cửa sáu căn thấy nghe hiểu biết, “Người ấy” đang ngồi đây! Người này không có trẻ già, đâu lo còn mất? Có Ai đã nghe tiếng chim xa vọng về đó chăng? Tuy nhiên, trong đây vừa có “Ý” liền sai.

Đến Thiền sư Nhân Dũng ở Bảo Ninh thì nhân ngày tết, Sư dạy chúng:

Tạc nhật khứ niên khứ,

Kim nhật kim niên lai.

Khứ niên khứ bất khứ,

Kim niên lai bất lai.

Biến dã doanh xích tuyết,

Đại địa vong tiêm ai.

Vô danhtự nhân,

Cử mục liêu bồi hồi!

Nghĩa:

Hôm qua năm cũ đi,

Ngày nay năm mới đến.

Năm cũ đi chẳng đi,

Năm mới đến chẳng đến.

Khắp đồng trắng đầy tuyết,

Cõi đất bặt mảy trần.

Người không tên không chữ,

Đưa mắt nhìn bồi hồi.

Năm nào là năm cũ? Năm nào là năm mới? Chỉ cách có một đêm, sáng ra liền chia thành năm cũ, năm mới. Quả là sống trong ảo tưởng quá nhiều! Rồi tại sao năm cũ đi chẳng đi? Năm mới đến chẳng đến? Vì đến đi đó là cái thấy ảo tưởng theo thời gian vô thường, nhưng sự thật ngay trước mắt đây, vốn hiện bày một màu sáng ngời, không một hạt bụi che. Trong đó, có “người không tên, không chữ” đang đưa mắt nhìn bồi hồi kia kìa! Năm cũ, năm mới làm sao đến được chỗ này! Ai thấy chăng? Song, vì sao mà người ấy nhìn bồi hồi? Bởi vì, vẫn ngồi đó mà không ai ngó tới! Người người cứ lo đuổi theo hoa nở, hoa rụng để tự vui buồn theo đó, còn người chủ của mùa xuân bất diệt vẫn ngồi đây mà không ai hay. Thật quá phũ phàng! Vậy có ai biết người đó ở đâu chăng?

Đây, Thiền sư Pháp DiễnNgũ Tổ chỉ thêm cho thấy, Sư thượng đường bảo:

- Hôm qua lão tăng vào trong thành thấy một giàn xiếc với người gỗ máy, bèn đến gần trước xem, hoặc thấy đẹp đẽ lạ kỳ, hoặc thấy rất xấu xí, chuyển động khi đi khi ngồi, xanh vàng đỏ trắng. Thấy rõ mọi thứ xong, đến khi xem kỹ lại thì vốn là tấm màn vải xanh bọc lại, bên trong có người. Sơn tăng nhịn không nổi, liền bước tới hỏi: - Ông tên họ gì? Y bảo: Ông Hoà thượng này, thấy là xong, còn hỏi tên họ làm gì?

Đại chúng! Sơn tăng bị y hỏi một câu đành câm miệng không lời có thể đáp, không lý có thể bày. Có ai vì Sơn tăng nói được chăng?

Người nào ở trong tấm vải bọc lại? Tại sao hỏi tên họ thì bị quở? Ai thấy được người ấy chưa? Hãy chú ý nghe kỹ: “Thấy là xong, còn hỏi tên họ làm gì?” Ngay trong thân hiện tại đây, nhận thấy là xong, khỏi hỏi tên họ, tuổi tác!

Hòa thượng Thạch Đầu từng bảo Duy Nghiễm:

Từ lâu chung ở chẳng biết tên,

Đi đứng theo nhau cứ mặc tình.

Chư thánh từ xưa còn chẳng biết

Kẻ phàm thô vội đâu thể rành!

Âm:

Tùng lai cộng trụ bất tri danh

Nhậm vận tương tương chỉ ma hành

Tự cổ thượng hiền du bất thức,

Tạo thứ phàm lưu khởi khả minh.

Cái gì tùy thời luôn luôn theo sát bên mình trong mọi cử chỉ, hành động chưa từng tạm rời? Tại sao từ lâu xa vẫn ở chung với nó mà không biết tên nó? Có phải đó là người không tên không chữ đang nhìn bồi hồi chăng? Nó vốn không tên, nếu biết tên nó, lại thành kẻ thứ hai rồi! Chỗ này chư thánh còn chẳng biết kia mà! Đơn giản, vì đây không phải là cái bị biết. Do đó nếu đứng bên ngoài mà suy luận thì không bao giờ cảm thông được.

Cần phải một phen thẳng vào sống trong ấy. Song, muốn sống chỗ này, phải dám quên cái vô thường kia, và bừng dậy ngay trong vô thường vẫn hằng thường, không sanh niệm thứ hai chen vào thì hiện tiền sáng ngời không nghi.

Thiền sư Chân Tịnhbài kệ:

Lão dã tu tri bất lão thân,

Đồng hành đồng tọa hữu tinhthần

Tuy nhiên vô tướngdung mạo

Năng vị quần sanh tác chủ ông.

Nghĩa:

Già đó nên biết thân chẳng già.

Đi đứng nằm ngồi vẫn theo ta

Tuy nhiên không tướng, không hình mạo

Làm chủ muôn loài vốn từ xưa.

Thiền sư Chân Tịnh cũng nhắc nhở chúng ta, trong cái thân trẻ già này, có cái chẳng già, nó vẫn hiện hữu trong mọi cử động tới lui, qua lại hằng ngày đây. Tuy nó không có hình dáng gì để thấy như cái thân già trẻ, nhưng chính đó là gốc của muôn vật, không cái gì trên thế gian này thoát ra khỏi nó. Nhưng lạ thay! Người người lại bỏ quên nó không ngó ngàng tới! Ồ! Người ấy đang bồi hồi nhìn chúng ta kìa!

Tổ Lâm Tế bảo: “Ngay cục thịt đỏ au đó, có con người chân thật không ngôi thứ, thường ra vào nơi cửa mặt chúng ta đây.” Tức ngay hiện tại, thấy nghe tất cả mà vẫn nguyên vẹn là thấy nghe, không xen lẫn cái gì, ai không có? Sống trở lại với con người này thì làm chủ trong cuộc vô thường, còn gì vui sướng hơn? Mùa xuân miên viễn không năm tháng là đó chứ gì?

Động Sơn sắp tịch, có vị tăng hỏi:

- Hòa thượng bệnh, có cái chẳng bệnh chăng?

Sư đáp:

- Có.

Tăng hỏi:

- Cái chẳng bệnh có thấy Hòa thượng chăng?

Sư đáp:

- Lão tăng xem y có phần.

Tăng hỏi:

- Chưa biết Hòa thượng làm sao xem y?

Sư đáp:

- Khi lão tăng xem, chẳng thấy có bệnh.

Khi bệnh, nhìn kỹ xem cái bệnh diễn ra như thế nào? Thấy được cái bệnh, cái đó đâu thuộc bệnh? Đâu bị vô thường chi phối? Nên nói: “Xem y có phần”. Bốn đại năm ấm đâu ngăn che được nó. Hiện tại có ai bị ngăn không có thấy nghe chăng? Tuy nhiên tối kị sanh tâm động niệm. Vừa động niệm liền rơi trong bệnh, chớ bảo là không dính dáng.

Đến Thiền sư Vạn Hạnh thì sự thịnh suy vô thường hiện trong con mắt Sư như sau:

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suybố uý,

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

Nghĩa:

Thân như điện chớp có rồi không

Cây cỏ xuân tươi thu héo tàn

Mặc cuộc thịnh suy không sợ hãi,

Thịnh suy ngọn cỏ hạt sương đông.

Với Thiền sư lòng vẫn bình thản trước sự thịnh suy của cuộc đời. Nhưng tại sao Thiền sư không sợ hãi trước cuộc thịnh suy? Vì Sư thấy rõ thân không thật, cảnh sẽ nương vào đâu để lập? Thịnh với ai? Suy với ai? Sư thấy rõ thịnh suy tợ hạt sương buổi sớm đọng trên đầu ngọn cỏ, không có gì quan trọng so với con người bất tử kia. Nếu gặp thịnh liền vui, gặp suy liền buồn, đó là vui buồn theo duyên, không có chủ, cần nên nhớ!

III. NIỀM VUI CHÂN THẬT

Như vậy nói mùa xuân miên viễn là ngầm chỉ cái gì? Tức ngầm chỉ một niềm vui chân thật, vui mãi không mất, không thuộc sanh diệt. Đó là niềm vui không có thời gian. Nói thẳng là, niềm vui sống được trong tự tánh, niềm vui làm chủ trở lại chính mình.

Hòa thượng Thủy Lạo từng bảo trong chúng: “Ta từ khi bị cái đạp của Mã Tổ đến nay cười mãi không thôi.” Đó là niềm vui sống được trong cái chân thật. Nếu ngay khi bị đạp đó mà chợt nhớ đến cái ta này, hẳn không thể có đứng dậy vỗ tay cười to (Sư hỏi Mã Tổ: - Thế nào là ý Tổ Sư từ Ấn Độ sang? Mã Tổ liền nhắm ngay ngực tống cho một đạp té nhào. Sư liền đại ngộ, đứng dậy cười to ha hả). Chính lúc đó, Sư quên mất cái Ta này, cũng không nhớ cái đạp luôn, mới chợt nhận ra niềm vui bất diệt ấy ở ngay nơi mình từ lâu.

Thiền sư Hoài NhượngNam Nhạc sai vị tăng đến thăm dò Mã Tổ và dặn:

- Đợi y thượng đường, chỉ hỏi: “Làm cái gì?”, y trả lời thế nào ông hãy ghi nhớ về thuật lại cho ta nghe!

Vị tăng liền đến chỗ Mã Tổ làm đúng theo lời Sư chỉ dạy. Mã Tổ liền bảo:

- Từ loạn Hồ về sau ba mươi năm chưa từng thiếu tương muối.

Đây là Mã Tổ nói lên niềm vui trở về nhà, hết còn lang thang tìm kiếm xin ăn bửa đói bửa no. Chính đó là chỗ an ổn đời đời, không ai có thể xâm phạm được. Các ngài là người, các ngài có; chúng ta cũng là người thì chúng ta cũng có đâu thiếu! Vậy sao chúng ta không chịu sống trong ấy, mà đành chịu giam mình trong cuộc luân hồi sanh tử khổ đau?

Hòa thượng Vân Cái có bài kệ nói lên chỗ sống chân thật ấy:

Nhất niên xuân tận nhất niên xuân,

Dã thảo sơn hoa kỷ độ tân.

Thiên hiểu bất nhân chung cổ động,

Nguyệt minh phi vị dạ hành nhân.

Nghĩa:

Một năm xuân trọn một năm xuân,

Hoa nội cỏ đồng tươi mấy lần.

Trời sáng chẳng do chuông trống động,

Trăng trong đâu bởi khách đi đêm.

Đến đây, với Thiền sư Vân Cái thì thấy lúc nào cũng là xuân, khắp nơi đâu đâu cũng là xuân, không còn phân biệt mới cũ. Đó là mùa xuân từ trong tự tánh mà thấy, không do tạo tác từ bên ngoài, không do cái gì làm nên. TÂM XUÂN thì thấy cái gì cũng xuân. Ai bảo người tu là bi quan yếm thế?

IV. LÀM SAO THẤY ĐƯỢC NIỀM VUI NÀY?

Đã biết có niềm vui bất diệt ấy, nhưng làm sao nhận thấy, chẳng lẽ chỉ nói suông sao?

Đây, Thiền sư Thử Am chỉ cho chúng ta thấy qua bài kệ:

Lưu thủy hạ sơn phi hữu ý,

Phiến vân qui động bổn vô tâm

Nhân sanh nhược đắc như vân thủy,

Thiết thọ khai hoa biến giới xuân.

Nghĩa:

Nước tuôn xuống núi nào có ý,

Mây bay về động vốn vô tâm.

Người đời nếu được như mây nước,

Cây sắt trổ hoa khắp cõi xuân.

Nếu tâm chúng ta được như mây nước, đi qua tất cả mà không lưu lại dấu vết gì, không bám dính cái gì, thì: “cây sắt trổ hoa khắp cõi xuân”, khỏi tìm đâu khác. Nói theo kinh Kim Cang là: “Nên không chỗ trụ mà sanh tâm kia”, đi qua tất cả sáu trần mà không dừng trụ ở bất cứ trần nào, không đứng lại ở bất cứ chỗ nào, thì tâm thênh thang có gì phiền não? Chính đó là sống trở lại “tâm thể tinh khôi”, lúc nào cũng mới mẻ sáng ngời, chỗ nào cũng có niềm vui bất diệt đó.

Cho nên Thiền sư Thiền Lão đáp vua Lý Thái Tông hỏi:

- Hằng ngày Hòa thượng làm gì?

Sư đáp:

- Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác,

Trăng trong mây bạc hiện toàn chân.

(Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh,

Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân)

Chỗ sống hằng ngày của Thiền sư là như thế. Tâm đã thanh tịnh sáng suốt thì thấy cái gì cũng thanh tịnh sáng suốt, cũng lộ bày chân thật đó, chỗ nào mà chẳng xuân? Song vừa có “ý” xen vào liền hết xuân! Liền đó Lưu Thần, Nguyễn Triệu phải trở về nhân gian thôi!

Tương truyền ngày xưa có hai chàng học trò tên Lưu Thần và Nguyễn Triệu nhân ngày tết Đoan ngọ (mùng 5 tháng 5) đi hái thuốc, bị lạc đường đến động Thiên thai gặp Tiên nữkết duyên cùng Tiên nữ. Nhưng một hôm, đang ở trên cảnh tiên vui sướng bỗng chợt nhớ nhà quá, rồi một mực đòi về. Tiên nữ biết hai chàng lòng trần chưa dứt không thể ép được, nên đưa cả hai về trần thế. Song, khi hai chàng về đến nơi thì hỡi ôi, cảnh vật đều biến đổi khác lạ, quê xưa không còn nữa, người thân đều chết cả, không người quen biết! Hai chàng buồn bã lại nhớ đến cảnh tiên, tìm đường muốn lên đó để gặp tiên, nhưng than ôi, cảnh tiên đâu không thấy, cuối cùng lạc lối, đành chịu chết bỏ xác ở rừng sâu!

Cho thấy, dù người đang ngồi trong cảnh tiên, vẫn không sống được trong ấy, là vì sao? Lỗi tại ai? Cảnh đâu có bỏ người hay lựa người. Chỉ tại người tự sanh tâm cách biệt!

Trong khi đó thì:

Hoa lưu động khẩu ưng trường tại.

Nghĩa là:

Mãi nơi cửa động hoa còn đó.

Hoa vẫn còn mãi đó! Vẫn nở luôn nơi cửa động nhưng người còn động niệm nhớ trần gian nên không thấy. Chỉ cần ngay đây, ai đó tự mở mắt ra xem, thì, ô kìa! Hoa nở ngay trong mắt mình! Vui sướng xiết bao! Bỏ qua, rồi đi tìm là đành chịu chết! Có thật đau đớn chăng?

V. TÓM KẾT

Người nhận được niềm vui chân thật này là con đường trở lại quê xưa. Sống được niềm vui này là làm chủ trở lại trong cuộc vô thường sanh tử, từ đó có hiệu dụng thắng phiền não, đau buồn, vì đã có mùa xuân miên viễn nơi cố hương. Cũng từ đây, người tỉnh ngộ hết chạy đuổi tìm theo cái hư dối mà ngồi thẳng ngay tại quê nhà thưởng xuân, còn gì vui sướng hơn? Tuy nhiên, muốn được như thế, phải quên cái TA sanh diệt này, phải dám BUÔNG!

Kinh Niết Bàn có nhắc chuyện Tiên nhân vì nửa bài kệhy sinh thân mạng. Tức Phật khi còn tu Bồ tát hạnh, làm vị Tiên nhân ở trong núi sâu, trọn ngày hành đạo, muốn tìm cầu kinh điển đại thừa mà không nghe biết ở đâu có. Nhân vị Tiên ấy đang ngồi thiền tư duy, cảm đến trời Đế Thích hiện xuống hóa làm một quỷ La Sát đến bên động dùng tiếng trong trẻo đọc nửa bài kệ:

Chư hành vô thường,

Thị sanh diệt pháp

Nghĩa:

Các hành vô thường,

Là pháp sanh diệt.

Vị Tiên nghe được, liền xuống khỏi chỗ ngồi, đi ra ngoài nhìn khắp nơi tìm xem ai đọc nửa bài kệ đó, thì thấy một hình tướng ghê sợ, đầu tóc rối bù, mặt xanh như chàm, răng nanh lòi ra, thân to, bụng đói teo nhỏ. Vị Tiên bèn hỏi:

- Phải ông vừa đọc hai câu kệ vừa rồi chăng?

La Sát đáp:

- Chính tôi đọc.

Vị Tiên nói:

- Xin ông đọc tiếp luôn hai câu cuối, tôi sẽ đền ơn cho.

La Sát nói:

- Bụng tôi đang đói mấy ngày, không còn sức để đọc tiếp.

Vị Tiên hỏi:

- Thức ăn của ông là gì?

La Sát nói:

- Thịt tươi của người và uống máu nóng, nếu ông có thể xả thân cho tôi ăn, tôi sẽ nói cho.

Vị Tiên nghĩ: - “Nếu xả thân cho vị này ăn thì lấy gì để nghe pháp?” Bèn nghĩ ra kế, xin La Sát hãy viết bài kệ lên đá, Ngài ở trên cây cao nhìn xuống đồng thời gieo thân mình cho ăn.

Như thế, La Sát viết hai câu tiếp:

Sanh diệt diệt dĩ,

Tịch diệt vi lạc.

Nghĩa:

Sanh diệt diệt rồi,

Tịch diệt là vui.

Vị Tiên đang nhảy xuống, La Sát đỡ lấy thân của vị Tiên, hiện lại nguyên hình trời Đế Thích, tán thán:

- Lành thay! Ngài sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, xin chớ quên độ tôi!

Trong đây, tại sao chỉ có hai câu kệ mà bắt phải hy sinh thân mạng? Hy sinh thân mạng rồi, lấy gì để nghe? Đó là một thâm ý! Thân này vốn thuộc các hành vô thường, là pháp hữu vi sanh diệt chứ gì! Muốn nghe nhận được đến “Sanh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui” thì phải dám BUÔNG cái TA sanh diệt này, mới nghe được “Tịch diệt là vui” kia! Còn quá bám víu, quá luyến tiếc cái Ta không dám buông, thì đừng mong nghe được lời vi diệu kia. Vì vậy Tiên nhân buông xả thân mạng này, liền được thấy “Tịch diệt là vui”! Chỗ này dù lý luận hay thế mấy cũng không tới được, chỉ phải một phen chứng nghiệm thôi.

Để tóm tắt ý nghĩa trên, xin dẫn bài kệ của Thiền sư Tư ở Nột Đường:

Xuân tuyết mãn không lai,

Xúc xứ thị hoa khai.

Bất tri viên lý thụ,

Na cá thị chân mai?

Nghĩa:

Tuyết xuân đầy trời đến,

Trúng đâu hoa nở đó.

Chẳng rõ cây trong vườn,

Gốc nào là mai thật?

Tức là hơi xuân đã sẵn khắp mọi nơi, mọi chỗ, đụng đến là hoa nở ngay đó thôi. Nhưng không biết trong đây có cây nào là mai thật chăng? Đã có, tại sao còn chưa nở? Có đáng thương, đáng buồn chăng?

Hy vọng mỗi cây thật trong đây đều trúng được “hơi xuân bất diệt” này!

Ồ! Hoa nở rồi đây!

TÂM THỂ TINH KHÔI
TỨC TÂM THỂ MỚI MẺ,
CÒN NGUYÊN VẸN
Y NHƯ NÓ LÀ NÓ TỰ THUỞ NÀO

I. AI KHÔNG TÂM THỂ? 

Điều trước nhất cần xét kỹ lại xem, trên thế gian này, ai là người không có tâm thể? Thấu được chỗ này thì rõ chỗ căn bản mê lầm của chúng ta từ vô thủy đến nay.

Thường chúng ta bị Phật gọi là mê, là sống trong hư vọng phải chăng? Đã gọi là mê, nếu không có tâm, lấy gì là mê? Cây đá, máu thịt, gân xương đâu biết mê? Có mê là chấp nhận có Tâm rồi. Đây là một điểm.

Thứ hai, gọi là vọng, tức là sao? Nghĩa là trái với chân thể thì gọi là vọng chứ gì? Nếu hoàn toàn không có chân thể thì nói vọng cũng dư. Cho nên nói vọng là ngay đó tự thầm nhận có chân thể. Chính vì chúng ta bỏ quên cái TÂM THỂ CHÂN THẬT ban đầu này, nên mãi lang thang đuổi theo bóng dáng sanh diệt, gọi đó là vọng.

Vua Trần Thái Tông trong bài kệ tóm tắt NÚI THỨ NHẤT có hai câu:

Chỉ sai hữu niệm quên vô niệm,

Liền trái không sanh nhận có sanh.

Tức là, đang ở trong thể vô niệm vô sanh an ổn không chuyện gì, bỗng động niệm liền đó quên mất chính nó, ngay đó là trái với vô sanhđi vào có sanh có diệt, đây là nhận cái vọng chứ gì? Song, sở dĩ có niệm, có sanh là vì sao? Vì quên chỗ vô niệm, vì trái chỗ vô sanh thôi.

Có vị tăng hỏi Hòa thượng Lang Nha:

- Thanh tịnh sẵn vậy, vì sao bỗng sanh núi sông, cõi đất?

Sư đáp:

- Thanh tịnh sẵn vậy, vì sao bỗng sanh núi sông, cõi đất?

Đây là ông tăng dẫn kinh Lăng Nghiêm, Ngài Phú Lâu Na hỏi Phật. Chỗ đặc biệt của Thiền sư là giống như chỉ lập lại câu hỏi vậy thôi, nhưng lại là cách đáp chính xác vô cùng. Câu hỏi là: Đang sẵn thanh tịnh như vậy, cớ gì bỗng sanh ra các thứ? Thiền sư lập lại y nguyên câu hỏi, như dội lại ngay chỗ vừa hỏi đó. Chính ngay đó, ông đang thanh tịnh an ổn không việc gì, bất chợt khởi niệm hỏi, không phải là trong ấy bỗng sanh núi sông, cõi đất hay sao? Ngay đó tỉnh lại, liền rõ chỗ trước khi sanh chứ gì! Chỉ một chút kẽ hở này liền phân mê ngộ cách biệt. Kinh Pháp Hoa gọi là, cùng tử lang thang bỏ cha đi làm kẻ ăn mày nơi đất khách quê người. Đất khách nào? Chính là các trần trước mắt đây! Vừa ở trần này, lại vào trần kia, rồi bắt qua trần nọ, cứ thế đi mãi, đi mãi… quên hẳn đường về! Song, chính khi chạy vào các trần đó, thì cái gì chạy? Than ôi! Lại mê cái ấy, chỉ biết có trần thôi, vô minh là đấy!

Hòa thượng Thạch Đầu đã từng bảo Đại Điên:

- Trừ ngoài nhướng mày chớp mắt hãy đem tâm lại!

Đại Điên thưa:

- Không tâm có thể đem lại.

Thạch Đầu liền bảo:

- Nguyên lai có tâm sao nói không tâm, không tâm tức đồng với chê bai rồi!

Kìa, ông bảo không tâm, vậy chính “cái gì nói là không tâm đó?” Bởi người người đều có sẵn tâm thể ấy mà bỏ quên không chịu nhận, có mà không hay biết nên gọi là Mê, nhớ lại là Giác. Lẽ thật rõ ràng như thế, còn gì nghi ngờ nữa?

II. TÂM THỂ Ở ĐÂU?

Đã biết có tâm thể rồi, vậy thì tâm thể đó ở đâu mà mê? Sự thật nó không ở đâu cả mà ở ngay chính mình, đó là một điều không ai ngờ. Chính vì không ngờ nên mọi người cứ chạy đi tìm. Nhưng tìm ở đâu cho ra?

Trong Huyết Mạch Luận, Tổ Sư đã bảo: “Ba cõi đều dấy lên, đồng về một tâm. Phật trước, Phật sau lấy tâm truyền tâm, chẳng lập văn tự. Hỏi: - Nếu chẳng lập văn tự, lấy gì làm tâm? Đáp: - Ông hỏi tôi chính là tâm ông, tôi đáp ông chính là tâm tôi. Tôi nếu không có tâm, nhân đâu biết đáp ông? Ông nếu không có tâm, nhân đâu biết hỏi tôi? Hỏi tôi chính là tâm ông, từ vô thủy kiếp đến nay, cho đến mọi hành động tạo tác trong tất cả thời, tất cả chỗ đều là bản tâm ông”.

Trong đây Tổ Sư xác định rõ ràng, tất cả thế gian có ra, dù có muôn ngàn sai khác, mà không cái gì ra ngoài MỘT TÂM. MỘT TÂM nào? Người học đạo cần thấu rõ chỗ MỘT TÂM này, liền rõ gốc gác của sanh tử. MỘT TÂM đó, chính là “tâm thể không hai” hay “tâm thể tinh khôi” chứ không gì khác. Tâm thể này đâu thuộc văn tự chữ nghĩa? Ngòi bút nào ghi được nó? Cho nên Phật Phật truyền nhau chỉ là truyền tâm này. Hay nói rõ hơn, chính đây là chỗ sống của chư Phật, lìa chỗ này thì Phật chỉ còn là Phật trong sách vở.

Đây, Tổ Sư chỉ thẳng cho thấy tâm này ở đâu? “Hỏi tôi chính là tâm ông, đáp ông chính là tâm tôi”. Chính ngay chỗ hiện tiền “đang hỏi đáp”, tâm thể sẵn hiện hữu trong đó. Nếu không có tâm, nhân đâu có hỏi, có đáp? Đây là nhân cái DỤNG, Tổ Sư chỉ ra cái THỂ. Đã có cái dụng phát ra nói năng, hỏi đáp, tới lui, qua lại đó, thì từ cái gì mà khởi dụng? Nếu không có Thể thì lấy gì khởi Dụng? Tuy nhiên chỗ này cũng dễ lầm! Nếu người hấp tấp nhận cái nói năng, động dụng đó cho là bản tâm, thì cũng mê. Tại sao? Vì nếu nhận cái “hỏi đáp” đó cho là bản tâm, khi không hỏi đáp thì sao? Tức thành không có tâm hay sao? Nhận như thế là nhận trên cái sanh diệt rồi! Trong đây phải thật chính chắn. Cốt yếu là, người lanh lợi phải khéo nhân đó mà thầm nhận trở lại “tâm thể kia”. Từ tâm thể đó ứng dụng ra mới không lầm.

Để rõ hơn, chúng ta hãy nghe thầy trò Qui Ngưỡng hiển bày “thể dụng” cho thấy. Qui Sơn đang hái trà, Sư gọi Ngưỡng Sơn bảo:

- Cả ngày hái trà, chỉ nghe tiếng con mà chẳng thấy hình con.

Ngưỡng Sơn liền rung cây trà. Qui Sơn bảo:

- Con chỉ được cái dụng của nó, chẳng được cái thể của nó.

Ngưỡng Sơn thưa:

- Chưa biết Hòa thượng thế nào?

Qui Sơn im lặng. Ngưỡng Sơn nói:

- Hòa thượng chỉ được cái thể của nó, chẳng được cái dụng của nó.

Có ai thấy được thầy trò Qui Ngưỡng chăng? Qui Sơn bảo hiện hình, Ngưỡng Sơn “rung cây trà”, tức hiện hình đó rồi. Sao Qui Sơn còn bảo “chỉ được dụng, không được thể”? Chẳng lẽ ngoài cái dụng đó, riêng có cái thể nào khác nữa? Nếu quả thực không có cái “thể” thì lấy gì hiện ra cái “dụng” ấy? Đây là Qui Sơn ngầm nhắc cho người, chớ lầm bị Ngưỡng Sơn gạt, chỉ thấy trên tướng động của cây trà là mờ mắt. Phải thấy sâu qua chỗ “cây trà không thể rung tới kia” thì mới tròn thể dụng!

Cho nên tiếp theo Qui Sơn im lặng là bổ túc chỗ ấy. Nhưng người không hiểu, theo lời mà bị gạt. Nghe Ngưỡng Sơn bảo: “Hòa thượng chỉ được thể, không được dụng”, bèn chê Qui Sơn là còn nghiêng lệch, tức lầm to! Nếu quả thực trong đó chỉ có “thể” mà không có “dụng”, thì đó là cái “thể chết”, vậy cái gì “Biết im lặng”? Thế nên trong đây im lặngsáng ngời, mà vang như sấm, đừng tưởng im lặng là không biết gì. Người mắt sáng, phải thấy thấu qua tướng im lặng kia mới thấy được thầy trò Qui Ngưỡng. Vì im lặng là đối với tướng nói năng, tướng rung cây trà kia, cũng thuộc tướng sanh diệt đối đãi.

Trong đây cần rõ: Ngưỡng Sơn rung cây trà, Qui Sơn đã hiện trong đó! Qui Sơn im lặng, Ngưỡng Sơn cũng hiện trong đó! Đâu thể tách rời chia hai mà nói một được, một chẳng được? Rõ ràng tâm thể vốn hiện tiền đấy thôi.

Và đây, Sở Nam đến tham vấn Hòa thượng Hoàng Bá, Hoàng Bá hỏi:

- Thế nào là trước khi ông chưa hiện hình trong ba cõi?

Sư thưa:

- Ngay hiện nay đâu phải có.

Hoàng Bá bảo:

- Có không hãy gác lại, ngay hiện nay thế nào?

Sư thưa:

- Chẳng phải xưa nay.

Hoàng Bá bảo:

- Pháp nhãn của ta chính ở nơi ông.

Cái gì là trước khi hiện hình trong ba cõi? Tức “tâm thể tinh khôi” chứ gì! Chỗ đó có hình tướng gì để thấy, để nói? Song, người nghe hỏi như thế, bèn theo câu hỏi tưởng xa xôi về quá khứ nào đó, là quên mất chính mình đang hiện hữu. Ngài Sở Nam không lầm theo ngôn ngữ, nên đáp rõ: “Ngay hiện nay đâu phải có”. Tức ngay đây, chưa khởi niệm thì có hình tướng gì? Chính đó là tâm thể tinh khôi, là chỗ chưa hiện hình trong ba cõi, đâu có tướng gì che mờ được? Tuy nhiên, vừa động niệm liền có hiện hình rồi, là rơi trong ba cõi liền đó.

Song, Hoàng Bá còn gạn thêm: “Có không hãy gác lại, chính hiện nay thế nào?” Nếu chưa phải người thực sống trong đó, hẳn khó trả lời. Sở Nam đáp thẳng: “Chẳng phải xưa nay”, tức vượt qua ý niệm xưa nay. Thể đó sờ sờ như vậy, vốn chẳng rơi vào xưa nay, chẳng thuộc trong thời gian trước sau. Rõ được chỗ này là mở con mắt pháp, ánh sáng thiền xuất hiện ngay đó!

III. TỪ ĐÂU TRỞ VỀ?

Rõ biết được tâm thể này có sẵn nơi mình đây rồi, nhưng hiện nay còn đang trong mê lầm thì từ đâu mà trở về?

Quả thực cũng rất đơn giản, vốn chính từ cái BIẾT này mà mê, thì cũng chính từ cái BIẾT này mà trở về thôi, không có con đường nào khác. Nghĩa là, BIẾT yêu, BIẾT ghét, BIẾT hơn, BIẾT thua, BIẾT phải, BIẾT quấy… đó là BIẾT trong mê, BIẾT theo duyên, theo cảnh, là cái BIẾT đi trong sanh tử luân hồi. Giờ đây, cứ ngay đó mà trở về là xong.

Kinh Lăng Nghiêm, Phật bảo: -Những người tu hành chẳng thể thành tựu Vô thượng bồ đề, cho đến riêng thành Thanh Văn, Duyên Giácquyến thuộc của ma, đều do chẳng biết hai thứ căn bản, tu tập lầm lộn. Thế nào là hai thứ?

1. CĂN BẢN SANH TỬ TỪ VÔ THỦY: tức chính ông hiện nay và các chúng sanh dùng “tâm phan duyên” làm tự tánh.

2. THỂ BỒ ĐỀ NIẾT BÀN THANH TỊNH SẴN CÓ TỪ VÔ THỦY: tức chính ông hiện nay cái “thức thể sẵn tự sáng ngời” (Thức tinh nguyên minh), nó hay sanh ra các duyên, mà bị các duyên bỏ sót nó. Do các chúng sanh bỏ sót cái “sáng suốt sẵn có”(Bổn minh) này nên tuy trọn ngày tu hành mà chẳng tự giác, uổng đi vào các thú.

Dùng tâm phan duyên làm tự tánh, đó là căn bản sanh tử từ vô thủy đến nay. Tâm phan duyên tức cái Biết theo duyên chứ gì? Còn “thể Bồ Đề niết bàn sẵn có từ vô thủy” là ở đâu? Tức ngay cái “thức thể sẵn có sáng ngời” hiện nơi mình đang sống đây thôi. Cái thức thể đó là gì? Chính là CÁI BIẾT SỜ SỜ đây, hay cái TÂM THỂ TINH KHÔI đấy! Chính CÁI BIẾT CÒN NGUYÊN VẸN, MỚI MẺ, TINH KHÔI NHƯ NÓ LÀ NÓ CỦA TỰ THUỞ NÀO nên gọi là “thức tinh”. Nó hay sanh ra các duyên, là nó Biết cái này, Biết cái nọ, Biết đủ thứ không thiếu sót. Biết duyên tức là sanh, vì khi biết cái nào là có cái đó hiện. Nhưng khi nó Biết cái gì, thì nó chỉ nhớ cái đó, nó đồng hóa mình là cái đó mà quên mất chính nó, nên gọi là “bị các duyên bỏ sót nó.” Chính vì bỏ sót nó, gọi đó là Mê, là quên mất đường về, nên đi vào các thú. Tu hành mà cứ lấy cái Tâm chỉ Biết theo duyên đó để tu, thì bao giờ tự giác được để trở về? Song, đường về ở đâu mà không trở về được? Cũng chính ngay đó thôi. Muốn trở về, cũng phải ngay cái Biết đó mà trở về, chính đây là quê nhà muôn thuở!

Trở về thế nào? Chỉ cần: Biết tất cả mà không bỏ sót chính nó vậy thôi.

Thiền sư Lâm Tế - Nghĩa Huyền có lần thượng đường bảo: “Có một người ở mãi giữa đường mà chẳng lìa nhà, có một người lìa nhà mà chẳng ở giữa đường.”

Thật là nghịch lý chăng? Tại sao lìa nhà mà chẳng ở giữa đường? Ở giữa đường mà chẳng lìa nhà? Thiền như thách thức với đầu óc quen đóng khung trong vòng lý luận của thế tình, nhưng lại là một lẽ thật sáng ngời với người đã mở mắt tuệ. Vậy ai thấy người nào ở mãi giữa đường mà chẳng lìa nhà? Người nào lìa nhà mà chẳng ở giữa đường? Và trong đây là mấy người? Quả thật chính là “tâm thể tinh khôi” này thôi. Dù chúng ta đang mê mờ lang thang trong trần, nhưng sự thật nó có đi đâu?

Chỉ cốt ngay đây đổi lại: thay vì Biết tất cả mà quên mất chính nó, giờ đây hãy Biết tất cả mà không bỏ sót chính nó trong bất cứ trường hợp nào, trong bất cứ nơi chốn nào, thì có chỗ nào vắng mặt nó đâu? Như thế rõ ràng đâu đâu chẳng là quê nhà? Nghĩa ở giữa đường mà chẳng lìa nhà sáng tỏ như ban ngày, có gì phải nghi ngờ!

Bài kệ của Ngài Tam Bình nói:

Tức thử kiến văn phi kiến văn,

Vô dư thinh sắc khả trình quân.

Cá trung nhược liễu toàn vô sự, 

Thể dụng hà phòng phân bất phân.

Nghĩa:

Chính thấy nghe này chẳng thấy nghe,

Đâu thừa thinh sắc đáng trình anh.

Trong kia nếu rõ toàn vô sự,

Thể dụng ngại gì phân chẳng phân.

Chính ngay cái THẤY NGHE hiện tiền đây, thấy nghe tất cả mọi sắc thinh nhưng không dừng ở một sắc, một thinh nào, tức thấy nghe mà chẳng thấy nghe chứ gì. Đó là thấy nghe nguyên vẹn như nó là nó, ngay đó trọn vẹn sáng ngời đâu còn có chút sắc thinh nào lẫn vào để mà trình. Thấy nghe như thế là toàn “THỂ” ở trong thấy nghe rồi, thấy là toàn thể thấy, nghe là toàn thể nghe, vậy còn có cái thể nào riêng khác nữa đâu mà chia là thể, là dụng? Người còn chia chẻ đây là thể, kia là dụng, là rõ ràng chưa hết mê!

Bàng Uẩn ở trong hội Hòa thượng Dược Sơn, khi từ giã đi, Dược Sơn sai mười thiền khách tiễn đến cổng. Ông bèn chỉ tuyết trong hư không nói:

- Tuyết đẹp từng mảnh từng mảnh chẳng rơi chỗ khác.

Thiền khách Toàn hỏi:

- Rơi ở chỗ nào?

Ông tát Thiền khách Toàn một cái tát, Toàn bảo:

- Cư sĩ không được vô lễ.

Ông nói:

- Ông thế ấy mà xưng là Thiền khách, Diêm Vương chưa tha ông đâu.

Toàn hỏi:

- Cư sĩ thì sao?

Ông tát cho một cái tát nữa, nói:

- Mắt thấy như mù, tai nghe như điếc.

Ông Bàng Uẩn rõ ràng có chỗ thấy sáng ngời chẳng mê. Ngay tuyết rơi, thấy rõ từng mảnh tuyết, từng mảnh tuyết rành rẽ không lầm, không có một mảnh nào lọt ra ngoài con mắt ấy, thì TÂM THỂ SỜ SỜ đó, còn phải tìm đâu nữa? Thiền khách Toàn lại lầm qua, hỏi rơi chỗ nào? Đó là theo tuyết rơi quên mất chính mình rồi. Tức bị các duyên bỏ sót nó rất đau thương, nên liền bị tát! Vậy mà Toàn còn chưa tỉnh! Nếu ngay đó khéo thấy trở lại, tức liền trên đường về, mặc cho ông Bàng Uẩn tát, làm sao tát đến chỗ này?

IV. VỀ ĐÂU?

Nói ngay đó liền trở về, nhưng về đâu? Không khéo lại kẹt theo ngôn ngữ thành mê nữa. Chỉ là trở lại trước khi khởi niệm thôi, thấy có chỗ về là nằm mộng như cũ.

Bài pháp đầu tiên Lục Tổ bảo Huệ Minh:

- Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, cái gì là mặt mày xưa nay của Thượng tọa Minh?

Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, đó là Lục Tổ đưa Thượng tọa Minh trở về trước khi động niệm, ngay đó tự nhận ra “mặt thật xưa nay” của chính mình từ vô thủy thôi. Tâm thể tinh khôi là đấy!

Sư Nhan hỏi Hòa thượng Nham Đầu:

- Thế nào là lý bản thường?

Nham Đầu bảo:

- Động.

Sư Nhan thưa:

- Khi động thì thế nào?

Nham Đầu bảo:

- Chẳng phải lý bản thường.

im lặng giây lâu, Nham Đầu bảo:

- Nhận tức chưa thoát khỏi căn trần, chẳng nhận tức hằng chìm trong sanh tử.

Lý bản thường, tức nó thường sẵn như vậy chưa có xen gì vào. Nói theo đây là tâm thể mới mẻ, tinh khôi trước khi động niệm chứ gì? Nó đã thường sẵn như vậy, chợt khởi niệm hỏi thì sao? - Tức là động rồi. Mà đã động là trái bản thường, là đi vào cái khuôn hiểu biết, khái niệm. Nếu còn chần chừ nhận chẳng nhận, tức rơi vào hai đầu sanh diệt, càng đi xa. Vượt qua đó, liền rõ lý bản thường, khỏi hỏi thêm.

Nếu người sống trong tâm thể tinh khôi này, thì nó Biết khắp rất tinh tế, không chút gì qua lọt. Như Ngài Lâm Tế từng bảo: “Sơn tăng nói pháp khác với mọi người ở khắp nơi, hoặc có Văn Thù, Phổ Hiền xuất hiện trước mặt, mỗi vị hiện mỗi thân hỏi pháp, vừa nói: -Thưa Hòa thượng! Tôi đã sớm biết rõ rồi. Huynh đệ đến gặp nhau tôi trọn biết rành. Chỉ vì cái thấy của tôi riêng khác, ngoài chẳng nhận lấy phàm thánh, trong chẳng trụ căn bản, thấy suốt trọn không có nghi lầm”.

Tại sao Sư thấy hay như vậy? Chỉ vì “ngoài chẳng nhận lấy phàm thánh, trong chẳng trụ căn bản”. Tức là luôn luôn ở trong “tâm thể tinh khôi” ấy, không theo tướng phân biệt phàm thánh bên ngoài, không trụ chỗ căn bản nơi tâm bên trong, nói đơn giản là KHÔNG TRỤ TRONG NGOÀI, nên thấy suốt không có nghi lầm. Tuy nhiên, không trụ bên ngoài thì dễ hiểu, tâm bên trong cũng không trụ nữa là sao? Bởi vì còn thấy có cái tâm căn bản để trụ, tức biến nó thành cái đối tượng rồi, là có thêm cái bóng thứ hai án ở trước, thì đâu thể thấy suốt!

Cho nên trong đây vừa có TRỤ là mất tinh khôi, là có cái khác xen vào. Do đó, trở về là về trước khi có trụ, trước khi có bạn bè, ngay đó liền gặp “Người chẳng cùng muôn pháp làm bạn”, khỏi phải chạy sang Trung Hoa tìm đến Tây Giang uống cho cạn mới được câu trả lời.

Bởi vậy, người thấu rõ chỗ này, là rõ tất cả cội nguồn Phật pháp. Tất cả bí quyết của tông môn, tất cả sâu kín của Tổ sư đều nằm trong đây, khỏi phải tìm đâu khác.

V. PHẢI LUÔN SỐNG MỚI MẺ TINH KHÔI

Bởi tâm thể này vốn mới mẻ tinh khôi, vì vậy người muốn đạt chỗ này, cũng phải giữ tâm luôn luôn mới mẻ tinh khôi, không có chứa đựng nhiều khái niệm trong đầu, không bám chặt vào một cái khuôn định sẵn khiến tâm cùn lụt, chết cứng.

Hãy xem, xưa kia Ngài Đại Mai - Pháp Thường đến hỏi Mã Tổ:

- Thế nào là Phật?

Mã Tổ đáp:

- Tức tâm tức Phật. (Phật tức là tâm, tâm tức là Phật)

Sư liền tỏ ngộ, về núi Đại Mai sống an ổn vững vàng, không còn ai dối gạt được. Trái lại, hiện giờ chúng ta đã nghe câu này không biết bao nhiêu lần, tại sao không ngộ? Chính vì bị cái KHÁI NIỆM in sẵn trong đầu này. Vừa nghe nói đến, trong đầu liền bảo ngay: “Tôi hiểu rồi”, thì đâu có cơ hội để tỏ ngộ! Sự thật thì nó có thực hiểu đâu. Hiểu đó, là Hiểu qua cái Hiểu của người xưa, Hiểu của khái niệm cũ mòn, chết cứng thôi. Chính đó là nghe với một cái tâm đã chết của quá khứ, chớ vội hài lòng!

Nếu người còn chưa tin, hãy nghe vị tăng hỏi Điều Ngự Giác Hoàng:

- Thế nào là một việc hướng thượng?

Điều Ngự đáp:

- Đầu gậy khêu nhật nguyệt.

Tăng thưa:

- Dùng công án cũ của người xưa làm gì?

Điều Ngự đáp:

- Mỗi lần nhắc lại, mỗi lần mới.

Người học đạo chớ bắt chước theo ông tăng này! Tin tức việc lớn ấy vẫn luôn có sẵn bên mình, nhưng nếu chúng ta chỉ nghe với tâm có chứa khái niệm trong đầu, thì chỉ nghe với cái khuôn cũ kỹ, nghe với cái nhớ về quá khứ đã chết, không đối diện được cái đang hiện hữu sáng ngời! Chỉ nhớ có “đầu gậy”, nhớ có “nhật nguyệt”, thì đó chỉ là danh từ rỗng thôi, làm sao đạt được “ý sống” trong ấy? Đầu gậy làm sao với tới nhật nguyệt mà khêu? Rõ ràng ý này đã vượt ngoài lời nói rồi, còn đâu để nói mới cũ?

Nếu người thực sự nghe với TÂM TRỐNG RỖNG, HOÀN TOÀN MỚI MẺ TINH KHÔI, sạch mọi khái niệm đóng khuôn trong đầu, thì bảo đảm nghe gì cũng mới mẻ, cũng sáng ngời, sẽ nghe được những điều bất ngờ! Cho nên Điều Ngự bảo: “Mỗi lần nhắc lại mỗi lần mới”. Nhắc lại là đang đối diện trực tiếp với chính ông đây, tâm tâm đang trực tiếp với nhau đây, đâu phải nói với người xưa mà bảo cũ! Còn ông, ông chỉ nghe với mớ khái niệm cũ mòn in trong đầu nên thấy là cũ. Như vậy, kết luận cho chính xác, là lời nói cũ hay chính tâm ông cũ? Người học đạo cần nghiệm kỹ chỗ này!

Chúng ta hãy nghe chuyện Huyền Tắc với Ngài Pháp Nhãn. Huyền Tắc ở trong hội Ngài Pháp Nhãn mà chưa từng thưa hỏi. Một hôm Pháp Nhãn hỏi:

- Giám viện Tắc sao chẳng vào thất thưa hỏi?

Tắc thưa:

- Hòa thượng đâu không biết con ở chỗ Thanh Phong đã có chỗ thâm nhập.

Pháp Nhãn hỏi:

- Ông thử thuật lại cho ta nghe!

Tắc thưa: 

Con hỏi Hòa thượng Thanh Phong: “Thế nào là Phật? (Có bản ghi: Thế nào là tự kỷ của con?)” Hòa thượng đáp: - Đồng tử Bính Đinh đến xin lửa.

Pháp Nhãn bảo:

- Lời khéo, nhưng ngại ông hiểu lầm nên nói lại xem.

Tắc thưa:

- Bính Đinh thuộc lửa, đem lửa đi xin lửa, như con là Phật lại đi tìm Phật.

Pháp Nhãn bảo:

- Giám viện quả nhiên lầm rồi.

Tắc nổi giận, quảy hành lý bỏ đi. Pháp Nhãn nói:

- Người này nếu trở lại còn có thể cứu, nếu không trở lại thì không thể cứu.

Tắc đi giữa đường, nghĩ lại: “Hòa thượng là bậc thiện tri thức của năm trăm người, há lại gạt ta sao?”, bèn trở lại tham vấn tiếp. Pháp Nhãn bảo:

- Ông hỏi ta đi, ta sẽ đáp cho.

Tắc hỏi:

- Thế nào là Phật?

Pháp Nhãn đáp:

- Đồng tử Bính Đinh đến xin lửa.

Tắc liền đại ngộ.

Nghiệm kỹ trong đây chúng ta sẽ thấy nhiều điều mới mẻ. Tại sao, cũng một câu nói đó mà lần trước Huyền Tắc nói thì chưa phải ngộ; lần sau Pháp Nhãn cũng lập lại thì thành thật ngộ? Chỗ này đem khái niệm trong đầu để hiểu, có thể hiểu được chăng? Bởi, chính lần đầu Huyền Tắc đáp là đáp theo cái hiểu của khái niệm, của lối mòn suy nghĩ thuộc tình thức, tự cho là hiểu mà thật là cái hiểu bắt chước, lập lại. Lần sau, Pháp Nhãn đáp, là đáp trong chỗ bất ngờ, Huyền Tắc không kịp suy nghĩ trước, tính toán trước, tức là đang đối diện trực tiếp với nhau, nên ngộ là thật ngộ! Chỗ này người đứng bên ngoài không thể suy tư đến được.

Do đó, người học đạo chúng ta phải tâm luôn luôn mới mẻ tinh khôi như vậy mà ứng dụng, mà nghe, mà học đạo thì lúc nào cũng sáng ngời vi diệu, lúc nào cũng nghe được những điều chưa từng nghe.

Hãy nhớ kỹ! Cũng câu kinh Kim Cang: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà Lục Tổ nghe qua liền ngộ, Vua Trần Thái Tông đọc đến liền tỉnh, còn chúng ta nghe hoài sao vẫn không ngộ? Lỗi tại đâu? Tại câu kinh quá cũ hay tại cái gì?

Rõ ràng tại vì chúng ta bị cái hiểu quá nhiều, quá in đậm trong đầu, nên nghe đó chỉ là nghe với bóng dáng quá khứ của chữ nghĩa chứa đầy, làm sao trực tiếp thẳng vào tâm thể được?

Vậy, ngay đây người học hãy buông sạch mọi khái niệm chứa đựng trong đầu, mọi cái hiểu của quá khứ, để tâm nguyên vẹn mới mẻ tinh khôi như nó là nó mà xem: cái gì đang đọc những dòng chữ này?

VI. TÓM KẾT 

Lâu nay chúng ta đã sống quá nhiều với những khái niệm chứa đầy ắp trong đầu, giờ đây muốn học đạo để nghe những điều chưa nghe, thì phải can đảm để tâm trống rỗng mới mẻ tinh khôi mà học, mà nghe, đó là con đường sống dậy của chính mình.

Chính ngay đó là nguồn sống vô biên chúng ta cần trở về, chư Phật, chư Tổ có sẵn trong ấy khỏi tìm đâu khác. Kìa, bài Chứng Đạo Ca của Thiền sư Huyền Giác vừa mở đầu, Sư đã nhấn mạnh: ANH THẤY CHĂNG? (Quân bất kiến). Người học thường hay bỏ qua chỗ này, không ngờ chính đây là yếu chỉ của toàn bài Ca. Yếu chỉ ở đâu?

Đây này! Chưa nói gì mà bảo: “Anh thấy chăng?” là thấy cái gì? Rõ ràng ngầm chỉ Tổ sư luôn có mặt, cái ấy sờ sờ sẵn đó. Bởi đây là KHÚC CA CHỨNG ĐẠO, tức nói lên chỗ chứng, chỗ sống của Thiền sư Huyền Giác. Với chỗ sống đó thì lúc nào nó cũng sẵn sàng hiện tiền, chưa nói ra, chưa mở miệng, nhưng nó vẫn sờ sờ có đủ đó rồi! Tức nó mới mẻ tinh khôi, nguyên vẹn chưa có khái niệm gì chen vào. Vì vậy, chưa nói ra mà hỏi người: “Thấy chăng?” Nếu người lanh lợi, ngay đó nhận ra liền thì đâu còn bị những lời lẽ phía sau lừa nữa. Bao nhiêu lời lẽ của cả một bài ca chỉ là giải thích lại chỗ này thôi.

Và bài Bảo Cảnh Tam Muội, mở đầu liền bảo:

Pháp ấy như vậy,

Phật Tổ thầm trao.

Nay ông được đó, 

Nên khéo giữ gì (Như thị chi pháp, Phật Tổ mật phó, Nhữ kim đắc chi, Nghi thiện bảo hộ.)

Vừa mở lời liền nói: “Pháp ấy như vậy,” mà không nói là pháp gì, vì nó đã sẵn như vậy rồi, khỏi thêm khái niệm nữa. Chính đó là chỗ Phật Phật, Tổ Tổ thầm trao, thầm truyền. Nói thầm trao, tức lời nói không thể nói đến được, người nhận phải khéo thầm nhận thôi: Thầm nhận trước khi nói. Đã thầm nhận rõ rồi, phải khéo giữ gìn, khéo sống, không để tâm chia chẻ, lựa chọn chen vào liền tự khuất lấp ngay! Chỗ này còn có thể nói mới, nói cũ nữa sao?

Để kết thúc ý nghĩa này, xin dẫn đoạn nhân duyên Thiền sư Thạch Thê hỏi thị giả:

- Ông đi đâu?

Thị giả thưa:

- Con đi lên trai đường.

Sư bảo:

- Ta đâu không biết ông đi lên trai đường?

Thị giả thưa:

- Trừ ngoài việc này, riêng nói cái gì?

Sư bảo:

- Ta chỉ hỏi việc bổn phận của ông?

Thị giả thưa:

- Nếu hỏi việc bổn phận, con thật đi lên trai đường.

Sư bảo:

- Ông quả thậtthị giả của ta!

Thiền sư Thạch Thê muốn gạn lại chỗ sống hiện tiền của ông thị giả thế nào. Nếu là người khác hẳn bị Ngài Thạch Thê lừa ra khỏi việc ấy rồi. Hỏi đi đâu, nếu theo cái đi đó mà đáp, quên mất chính mình đang hiện hữu là nguy! Thị giả quả đang sống trong ấy nên sáng tỏ rõ ràng không lầm. Đáp đi lên trai đường, là chính thật mình đang hiện hữu trong đó. Hỏi việc bổn phận, thì cũng chính ngay đây “đang đi lên trai đườngđi lên trai đường,” rõ ràng sáng tỏ không thêm gì khác. Trong đây vừa có xen vào bất cứ ý niệm nào nữa là khuất lấp chính mình, là quên mất việc bổn phận ngay. Tâm thể tinh khôi chính đã đầy đủ trong ấy rồi!

Như vậy xác quyết rõ ràng là: Ai ai cũng đều có một “tâm thể nguyên vẹn tinh khôi từ thuở nào”. Hãy buông hết mọi khái niệm cũ mòn trong đầu, sống lại ngay chỗ này, chính đó là sinh mạng vĩnh viễn, khỏi tìm kiếm gì khác nữa!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25651)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37867)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19581)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18663)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14254)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20094)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9499)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14368)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35562)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10653)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19700)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23196)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13358)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10744)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20214)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10599)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9961)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14875)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17652)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17595)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13185)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31159)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25750)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13978)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17505)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10971)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12289)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10466)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12266)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11756)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9613)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12353)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9195)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8491)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9954)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9756)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12029)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14414)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9899)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11203)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8294)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10968)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14082)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9905)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15203)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13036)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23075)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23985)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12567)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15423)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17783)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15048)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16550)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16089)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17635)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11588)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11616)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17823)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10779)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10518)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11321)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12077)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11046)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36413)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8960)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9677)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34708)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17260)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10240)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10468)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12197)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13632)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14663)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9147)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24802)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11636)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10314)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15939)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15568)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14517)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13003)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12445)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14577)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18353)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9569)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18515)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18583)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19016)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18833)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11831)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13340)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47985)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11064)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13547)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13035)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11061)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12552)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11051)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31771)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11666)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant