Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Dòng lệ A-tư-đà

08 Tháng Năm 201100:00(Xem: 13541)
Dòng lệ A-tư-đà


Vào một buổi sáng kia, kinh thành Ca Tỳ La Vệ bỗng trở nên nhộn nhịp, tươi vui và khác lạ hơn mọi ngày. Bầu trời hôm ấy thật quang đãng và trong mát, cây cối tươi thắm lạ thường, muôn hoa ngời sắc dưới nắng hồng và tỏa ra những làn hương thoang thoảng dịu ngát, từng đàn chim ríu rít vui hót trên những hàng cây xanh và xa xa vọng lại những âm thanh trầm lắng của từng lời kinh, từng hồi chuông vang vọng từ các ngôi đền nguy nga, cổ kính.

Tin vui về Hoàng hậu Ma Da vừa sinh hạ được một hoàng nam đã nhanh chóng vang đi khắp chốn trong vương quốc của bộ tộc Thích Ca, lan truyền đến các quốc gia lân cận, đến cảnh giới của chư thiên xa xôi, đến những bậc hiền sĩ đang ẩn tu trên những đỉnh núi cao quanh năm phủ đầy tuyết trắng của dãy Hy Mã Lạp Sơn, trong đó có Đạo sĩ A Tư Đà. A Tư Đà vốn là con trai của một Bà La Môn xứ Ujjenì thơ mộng và trù phú. Với tư chất thông tuệ, uyên bác, ông đã sớm trở thành một người đức độ, thông thái và được dân chúng xứ ấy tôn xưng là hiền giả khả kính. Khi danh tiếng vang xa khắp nơi, A Tư Đà được Sìhahanu, thân phụ của vua Tịnh Phạn, mời về cung để truyền dạy đạo lý siêu thế cho mình. Được phép Vua Sìhahanu, A Tư Đà bèn cất một am tranh tại một khu vườn trong kinh thành Ca Tỳ La Vệ để tu trì và cũng để vua có dịp được học hỏi thêm những khi rảnh rang việc triều chính. Tại am thất đơn sơ này, với những nỗ lực cao độ của mình, chẳng bao lâu, A Tư Đà đã thành tựu tám cấp độ thiền địnhchứng đắc ngũ thông. Vì quá khao khát với lý tưởng giải thoát, muốn vượt qua những sở chứng hiện có, ông liền từ giã chốn đô thị huyên náo, lên đỉnh Hy Mã Lạp Sơn và dành trọn quãng đời còn lại của mình trong cảnh u tịch vắng vẻ của chốn thâm sơn hoang dã.

Kinh Lalitavistara (Thần Thông Du Hí) kể lại rằng vào một ngày kia, với thiên nhĩ thông của mình, A Tư Đà bỗng nghe chư thiên trên cung trời Tam Thập Tam hân hoan ca múa và truyền nhau tin vui rằng: “Một hoàng nhi vừa chào đời tại kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Hoàng nhi ấy sau này sẽ trở thành một đấng Toàn giác, một bậc Đạo sư của chư thiên và loài người”. “Ta có nghe lầm chăng?” A Tư Đà tự hỏi, và rồi ông dùng Thiên nhãn quan sát và biết được rằng Hoàng hậu Ma Da đã hạ sanh được một hoàng nhi tại vườn Lâm Tỳ Ni, hài nhi đã được đưa về thành Ca Tỳ La Vệ. Thân của hài nhi này có đầy đủ đức tướng hy hữutỏa ra những vầng hào quang kỳ diệu vô ngần. Liền khi ấy, A Tư Đà liền dẫn người thị giả và cũng là cháu của mình là Naradatta về kinh thành Ca Tỳ La Vệ để tận mắt chiêm ngưỡng đức tướng của một thánh nhân vừa giáng trần.

Khi đến trước cổng hoàng cung, A Tư Đà thấy hàng ngàn người đang tụ hội tại đây, họ từ khắp nơi đổ về mang theo những tràng hoa đẹp nhất, thơm nhất, những cổ trầm hương quí nhất, ngạt ngào nhất cùng vô số lụa là, vật báu để dâng lên đức vua, mừng cho dòng tộc Thích Ca vừa sanh được một hoàng nhi cao quí, người sẽ tiếp nối sự nghiệp của hoàng triều và sẽ làm rạng rỡ đất nước này. A Tư Đà đến bên người lính gác cổng và nhờ anh ta vào báo với hoàng gia.

Được tin có một Đạo sĩ từ đỉnh Hy Mã Lạp Sơn đến thăm, vua Tịnh Phạn vô cùng mừng rỡ và liền cho mời A Tư Đà vào đại sảnh. Sau khi thi lễ chào hỏi xong, nhà vua bèn cất tiếng:

- Thưa Đạo sĩ, trước đây Quả nhân chưa từng gặp Ngài, vậy thìmục đích gì mà hôm nay Ngài quan lâm đến đây?.”

- Muôn tâu Hoàng thượng, Ngài vừa có được một người nối dõi cao quý và xứng đáng, lão đến đây để mong được tận mắt xem hoàng nhi ấy.

Khi nhìn thấy hài nhi có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, thân ánh lên những vầng hào quang siêu việt hơn cả phước tướng của Đế Thích, Phạm Thiên và tất cả các thiện thần hộ thế khác, A Tư Đà liền thốt lên rằng:

- Kỳ diệu thay! Bậc thánh nhân này là phước lành cho cõi thế.

Liền khi ấy, A Tư Đà liền rời khỏi chỗ ngồi, chắp tay đảnh lễ và cúi đầu đặt trán hôn lên đôi chân bé nhỏ của hài nhi, rồi lại đi nhiễu bên phải hài nhi một vòng. Ngắm nhìn kỹ diện mạo và kim tướng của hài nhi, A Tư Đà lặng người lại, những giọt nước mắt chợt lăn xuống đôi gò má già nua, nhăn nheo đầy phong sương của Đạo sĩ. A Tư Đà đã khóc, niềm bi cảm dâng trào trong tâm hồn thanh khiết của một bậc Hiền nhân.

Nhìn những giọt nước mắt cùng cử chỉ ảo não, đau xót của A Tư Đà, vua Tịnh Phạn vô cùng ngạc nhiênlo âu. Người bước đến bên cạnh Đạo sĩcung kính thưa rằng:

- Thưa Đạo sĩ, sao Ngài lại đau xót và than khóc như vậy? Có điềm gì bất hạnh sẽ xảy đến với hài nhi này chăng?

- Tâu Hoàng thượng, lão khóc là không phải khóc cho hài nhi này, sẽ không có điều gì bất hạnh xảy ra đối với một con người thánh thiện như thế cả. Lão khóc là khóc cho chính mình. Vì sao vậy? Tâu Hoàng thượng, lão đã già nua, yếu ớt, thân thể cằn cỗi như một cỗ xe rệu rã, còn hài nhi này chắc chắn sẽ trở thành một bậc Toàn giác tối thượng, Ngài sẽ chuyển bánh xe chánh pháp mà từ xưa nay chưa có một Đạo sĩ, Sa môn, Bà la môn, Thiên thần, Ma vương… trên thế gian này chuyển được như vậy. Vì lợi íchhạnh phúc cho nhân gian, Người sẽ tuyên thuyết chánh pháp sơ thiện, trung thiện và hậu thiện, với nghĩa lývăn tự đầy đủ. Tâu Đại vương, hoa Ưu Đàm ngàn năm mới nở một lần, cũng thế trải qua vô lượng kiếp chư Phật mới thị hiện trên thế gian này. Hoàng nhi này chắc chắn sẽ chứng ngộ trí tuệ vô thượng, sẽ dẫn dắt vô số chúng sinh vượt thoát đại dương luân hồi để đến cảnh giới giải thoát, bất tử. Nhưng lão sẽ không gặp được một đức Phật cao quý như thế. Đại vương ơi, lão khóc là khóc cho mình bạc phước kém duyên, thọ mạng không còn bao lâu nữa để được nghe đấng Giác Ngộ tuyên giảng chánh pháp, để được đảnh lễcúng dường bậc Đạo sư của chư thiên và loài người…”

Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu. Những tri thức cao siêu, thâm sâu và đầy vẻ u huyền trong những bộ thánh kinh Vệ Đà ông đã thông suốt, những kinh nghiệm tu trì siêu tuyệt đương thời ông đã trải qua, những sở chứng cao tột nhất ông đã đạt được, nhưng vấn nạn về lẽ tử sinh cứ mãi bám víu, đeo đẳng tâm hồn của bậc Đạo sĩ.

A Tư Đà không phải như những phàm nhân tầm thường chỉ biết quanh quẩn trong kiếp người với những giả tạm, phù phiếm của trần thế. Ông là một người có chí khí, có tri thức uyên bác và khát vọng cao thượng, và vì thế ông đã từ bỏ tất cả những vướng bận của trần duyên, đã đi khắp nơi học hỏi đạo lý và đã đạt được những kinh nghiệm tâm linh cao cả nhất mà đương thời ít có ai bì kịp. Với thiên nhĩ thông, Thiên nhãn thông, tha tâm thông… ông có thể lắng nghe, nhìn thấy và thấu cảm được những việc xa xăm trong vũ trụ, những cảnh thăng trầm của cuộc thế huyễn mê, những tâm tư của bao trái tim khác, nhưng oái oăm thay, ông lại không trực nhận, không lắng nghe và cũng chẳng tỏ ngộ được tự tánh thanh tịnh của chính mình. Những triền phược của vô minh vi tế không để cho ông được tự tại, thong dong trong cảnh giới giải thoát viên mãn. A Tư Đà đã khóc và cảm thấy tự thẹn cho chính mình không đủ phước duyên để được nghe diệu pháp của đức Phật, không được qui ngưỡnghành trì theo pháp môn của Ngài.

Có lẽ A Tư Đà không chỉ khóc cho chính mình mà còn khóc cho những ai vẫn đang chơ vơ, lạc lõng, mờ mịt, không tìm được hướng đi xán lạn trong cuộc đời thật ngắn ngủi này. Trong cuộc sống, có biết bao người đã đến và đi trong lo âu, phiền muộn, mang theo mình nỗi buồn của lẽ tử sinh. Những con người ấy cũng chẳng khác chi những hạt bụi đang lãng du, phiêu bồng trên những sa mạc khô cằn, hun hút. Chúng đến và đi, sanh khởihoại diệt trong cô đơn, quạnh quẽ. Từ thuở hồng hoang của nhân loại cho đến tận hôm nay và có lẽ đến tận mai sau nữa, khát vọng tìm về với chân lý, với ý nghĩa đích thực của cuộc sống vẫn là một động lực mãnh liệt, thôi thúc bao lớp người từ mọi phương trời khác nhau dấn thân vào những cuộc hành trình tâm linh xa xôi và kỳ vĩ, và rồi những ai chưa đủ duyên lành để gặp gỡ và an trú vào chánh đạo sẽ là những người bất hạnh nhất trên cuộc đời này. Nghèo đói, mồ côi, bệnh tật v.v…được xem là những nỗi bất hạnh trong đời người, song người ta có thể khắc phục những chướng duyên ấy bằng cách này hay cách khác. Sống mà không gặp được các bậc Chân sư soi sáng và dẫn lối cho đời mình, để nhận diệntrở về an trú trong con người thật của chính mình thì đó mới là nỗi bất hạnh lớn lao và đáng sợ nhất.

Chánh pháp của đức Thế Tônvô giádiệu dụng của nó thật bất khả tư nghì. Kinh tạng Nguyên ThủyĐại Thừa có kể rằng trong nhiều kiếp quá khứ, khi còn là một hành giả đang tầm đạo, đức Phật đã hy sinh bất cứ điều gì, ngay cả tánh mạng của mình để mong học được giáo pháp chân chính. Những ai đón nhận và thọ trì chánh pháp với tâm niệm nhiệt thành thì mới thể nghiệm được sự vi diệu của nó. Thiện Tài Đồng Tử, nhị tổ Huệ Khả, pháp sư Huyền Trang, thiền sư Lâm Tế… là những tấm gương tỏa sáng về tinh thần tha thiết, khát ngưỡng, cầu học chánh pháp trong đạo Phật.

Càng về sau, những tấm gương cầu pháp như thế thật hiếm hoi. Cuộc sống trong xã hội văn minh đã cuốn hút con người vào quĩ đạo của guồng máy vật chất và hưởng thụ. Con người phần nhiều chỉ biết an phận với những niềm vui thế tục mà mình đang hiện có. Có một lần, Lạt ma Dorje Khensen đưa sư phụ mình là Dudjom Rinpoche ngang qua một nghĩa trang. Nhìn những ngôi mộ thẳng tắp chạy dọc trên những thảm cỏ xanh cùng những luống hoa đủ màu đang khoe sắc, ông khen rằng:

- Thầy ơi, người Tây phương quả thật văn minh. Ngay cả nơi dành cho xác chết cũng đẹp đẽ, sạch sẽ.

Hòa thượng Dudjom mỉm cườitrả lời:

- Đúng, họ văn minh, con cũng thấy rằng nơi dành cho “xác sống” còn đẹp và sạch hơn thế nữa kia.

Phần lớn con người sống mà mơ hồ, không ý thức được sự sống. Họ cũng chẳng khác gì với những xác chết biết đi. Người ta sống theo một khuôn mẫu đã vạch sẵn: nhỏ thì học hành, trưởng thành thì lo kiếm việc làm, sau đó thì lập gia đình, sinh con, đẻ cái, lo mua nhà cửa, xe cộ, đến tuổi trung niên thì lo danh vọng, địa vị, tài sản…Hình như họ chỉ biết lo chứ không biết sống. Vì cứ mải miết lo như vậy nên những nội kết cứ tích chứa ngày càng nhiều trong tâm thức, đến một lúc nào đó một biến cố bất ngờ xảy ra, dù là nhỏ nhoi, cũng làm cho họ chao đảo và rơi vào những bi kịch thương tâm. Vì thế khi sống mà không tiếp xúc được với ý nghĩa thực sự của cuộc sống thì con người đâu có khác chi những “xác sống” trong dòng đời.

Khác với A Tư Đà ngày xưa, người đời sau này cũng đã khóc, khóc vì thời cuộc nhiễu nhương, vì chiến tranh thiên tai, vì lòng người tao loạn, vì vô thường nguy biến… những cái khóc như thế thường mang tính cảm quan của tâm thức phàm tục. Một hôm vua Linh Công cùng với Di Tử Hà và các quan đại thần trong triều cùng lên núi cao để du sơn ngoạn cảnh. Nhìn thấy muôn người sống trong cảnh phồn vinh, giang sơn gấm hoa một dãi mênh mông, vua không cầm lòng được và chợt khóc òa lên: “Ôi đất nước ta đẹp quá, giang sơn cẩm tú đẹp quá, nhưng các khanh ơi, trẫm đã già nua, sẽ chẳng còn sống bao lâu nữa để tận hưởng mọi thú vui của cuộc đời này”. Lúc ấy, các quan thấy thế cũng hùa theo mà khóc, riêng Di Tử Hà thì cười ngặt nghẽo, cười như chưa bao giờ được cười. Di Tử Hà đã cười cho tham vọng hão huyền của nhà vua cứ muốn sống mãi và làm vua mãi để hưởng thụ những cái vui thoáng chốc của cuộc đời, lại cười cho hàng quan lại không phân định được đúng sai, phải trái của thế sự mà chỉ biết làm theo một cách mù quáng để lấy lòng nhà vua mà thôi.

Thuở xưa, có đôi lúc các bậc Hiền nhân cũng đã khóc, nhưng sự rung động của những trái tim kỳ vĩ, cao cả đó không phải là sự bi lụy trước những vô thường, thịnh suy của cuộc sống mà thay vào đó là niềm thao thức, là tâm niệm vị tha, hướng thượng của đời mình. Doãn Am Thiền Sư là một bậc cao tăng đức độ, giới luật nghiêm trì. Mỗi khi chiều xuống, Ngài đứng nhìn mặt trời đang khuất dần nơi chân trời xa thẳm mà rơi lệ, lòng tự thẹn rằng một ngày đã qua mà mình chưa tiến bộ được bao nhiêu trên trong con đường giải thoát. Sau đó Liên Trì Đại Sư mỗi khi nhìn mặt trời lên, Ngài thường nhắc lại lời than thở của Doãn Am Thiền Sư và tự khuyến tấn mình rằng: “Kim hựu hoán nhật. Tạc nhật dĩ thành không quá, vị tri kim nhật công phu như hà?” (Hôm nay lại sang một ngày mới. Hôm qua công phu đã chưa được gì, không biết hôm nay ta có đạt được công phu gì chăng?). Ngài Liên Trì vốn là một hành giả Tịnh Độ nổi tiếng, một bậc chân tu tinh nghiêm, nhưng vẫn luôn dè dặt, cẩn trọng và luôn tự khuyến tấn mình. Quả thật, đó là một tấm gương sáng để những hành giả thời nay phải suy tư.

Theo Kinh Phật Bản Hạnh, khi Bồ-tát giáng sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni, thân Ngài tỏa ra những vầng hào quang trong suốt, trái đất chấn động, chư thiên trên sáu tầng trời cõi dục ca hát và loan truyền nhau tin vui này. Lúc ấy, A Tư Đà từ cung trời Tam Thập Tam trở về nơi ẩn tu và dẫn một môn đồ của mình vào thành Ca Tỳ La Vệ. Khi sắp đến thành, A Tư Đà nghĩ rằng không nên thi triển thần thông mà hãy đi bộ vào thành. Hôm ấy mọi người trên phố nhìn Đạo sĩ với vẻ hiếu kỳ, có kẻ đứng trước cửa, có người từ cửa sổ, người khác thì dựa vào bao lơn… chăm chú theo từng bước đi của ông. Họ nhìn ông và thì thào với nhau:

- Trước đây, khi vào thành, vị Đạo sĩ này nương thần thông mà đến thẳng hoàng cung, nhưng sao hôm nay ông lại bước chầm chậm như vậy?

Khi xem tướng thái tử, Đạo sĩ luôn tỏ vẻ cung kính và ngưỡng mộ trước đức tướng của một Thánh nhân. Bao nhiêu vật báu mà vua Tịnh Phạn dâng tặng, Đạo sĩ đều đem dâng cúng cho thái tử. Ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp trên người của thái tử đã nói lên một sự thậtthái tử sau này hoặc trở thành Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc trở thành một đấng Giác Ngộ. A Tư Đà tỏ vẻ cung kính, bi cảm rơi lệ, thương cho thân phận mình vì ông biết rằng hoàng nhi này sẽ không là một Chuyển Luân Thánh Vương thông thường mà nhất định sẽ trở thành một đức Phật.

Chuyển Luân Thánh Vương là danh từ chỉ cho một vị đại vương tài đức, dùng chánh pháp cai trị cả bốn châu thiên hạ. Vị vua này có đủ bốn đức: sống lâu, không bệnh tật, dung mạo đẹp đẽ và kho báu dồi dào. Tuy nhiên, những phước đức hữu lậu đó không thể sánh với những phẩm tính siêu việt của một đức Phật. Có lần Bà La Môn Sela được chiêm ngưỡng đức tướng của đức Phật, ông bèn thốt lên rằng:

- Thưa đức Cồ Đàm, Ngài có đầy đủ phước tướng của một Chuyển Luân Thánh Vương, người sẽ cai trị cả bốn châu thiên hạ.

Đức Phật liền đáp:

- Đúng thế Sela, ta là quốc vương, nhưng vương quốc của ta là chánh pháp, nơi đó không có tước vị. Ta cũng chuyển pháp luân, nhưng pháp luân ấy không hề thoái chuyển.

Bản sớ giải của kinh Tương Ưnggiải thích rằng nếu Chuyển Luân Thánh Vươngbảy báu là xe báu, voi báu, ngựa báu, tướng quân báu, châu báu, nữ báu và gia chủ báu thì đức Phật cũng có bảy món báu tương ưng (Thất Giác Chi) khác: niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định và xả. Còn bản chú giải của kinh Tăng Chi thì so sánh năm phẩm chất giữa Chuyển Luân Thánh Vương với đức Phật như sau: nếu Chuyển Luân Thánh Vương biết thiện; biết pháp (truyền thống và phong tục truyền thừa); biết thời (lúc nào nên đăng triều, lúc dạo chơi, lúc xem xét thiên hạ); biết chúng (phân định hàng quí tộc, Bà La Môn…); và biết lượng (thưởng phạt công tâm), thì đức Phật cũng biết năm đặc tánh của thiện; biết pháp Tứ Đế; biết lúc nào nên giảng pháp; biết đâu là quí tộc, Bà La Môn, Tỳ Kheo…; và biết thọ nhận tri túc tứ sự cúng dường. Trưởng lão Vagisa từng tán thán rằng đức Phật cũng như một vị Chuyển Luân Thánh Vương (có ngàn người con và cận thần bao quanh) có ngàn vị Tỳ Kheo kề cận hộ trì. Trong Kinh Trung Bộ, Tôn giả Vô Não đã ca tụng rằng đức Phật đã hóa độ hàng đệ tử mình với tâm lượng từ dung, không thúc ép và bức bách một ai cũng như Chuyển Luân Thánh Vương luôn cai trị muôn dân mà không dùng đến binh đao, gậy gộc. Các bản kinh Pali thường khắc họa và nhấn mạnh đến tính thế tục trong hình ảnh của Chuyển Luân Thánh Vương khác biệt với hình ảnh siêu thoát của một đức Phật, bậc Đạo Sư của thế giới tâm linh.

Mọi hình thái, thể chế xã hội được thiết lập theo những khuôn mẫu trong phạm vi tương đối của mỗi quốc giachủng tộc. Theo đà tiến hóa chung, các cơ cấu ấy sẽ được thay đổi theo điều kiện và nhu cầu của thực tế. Có lẽ đỉnh cao của mọi hình thái đó là một thế giới hưng vượng mà mẫu người lãnh đạo đó là Chuyển Luân Thánh Vương. Nhưng rồi thế giới ấy có lúc cũng phải biến đổi và có những vị Chuyển Luân Thánh Vương vì thấu rõ tính vô thường nên xả bỏ tất cả để sống một cuộc đời phạm hạnh viễn ly (Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống).

Không như Chuyển Luân Thánh Vương ngồi trên ngai vàng để cai trị thiên hạ, đức Phật với tấm y hoại sắcbình bát đơn sơ đã du hóa khắp nơi để trang trải ánh sáng của tình thươngtuệ giác. Ngài đã vượt qua những con đường dài hun hút đầy sỏi đá chông chênh, an nhiên, điềm tĩnh với cái nóng hừng hực của mùa hạ, cái lạnh thấu xương của mùa đông, bình thản trước mọi thị phi, hiềm thù của nhân thế. Nơi Ngài ngồi giảng pháp và nghỉ ngơi là những phiến đá xanh, những bãi cỏ hiền hòa thơ mộng nằm cạnh những dòng nước tươi mát, thơm trong, bên dưới những tàn cây rậm rợp và hùng vĩ. Mỗi hành vi, cử chỉlời nói của Ngài là những bài học thâm thúy cho bất cứ ai trên cõi đời này. Đạo sĩ A Tư Đà đã suy nghiệm được bài học ấy, đã cảm nhận được Sư giao thoa mầu nhiệm, thiêng liêng của đức Phật ngay từ khi Ngài còn là một hài nhi sống trong nhung lụa vàng son. A Tư Đà buồn tủi vì biết mình sẽ không sống được bao lâu nữa để trở thành một thành viên trong gia đình tâm linh thanh tịnh, một thần dân trong vương quốc chánh pháp của đức Phật. Vương quốc tâm linh đó được khơi nguồn từ tâm hồn sâu lắng của đức Thế Tôn tại Bồ Đề Đạo Tràng, lan tỏa đến năm nhà khổ hạnh tại Lộc Uyển, thấm nhuần đến một nghìn hai trăm năm mươi vị thánh Tăng tại Ma Kiệt Đà, Kiều Tất La…, và rồi đến hàng triệu con tim trên khắp hành tinh này.

Thế hệ Phật tử hôm nay và mai sau sẽ luôn cảm thấy tự hào và sung sướng vì giữa một thế giới đầy sầu hận bi hoang, họ đã được diễm phúc hội ngộ và an trú trong suối nguồn chánh pháp thanh lươngan lạc. Họ sẽ luôn biết nâng niu, trân quí những gia tài pháp bảo mà các bậc tiền nhân đã để lại, luôn ý thức được trách nhiệm của mình trong việc bảo tồn kỳ quan chánh pháp và sẽ sống bằng trọn trái tim hiểu biếthướng thượng như lời nhắn nhủ của Hòa thượng Nàrada: “Có những quốc gia hình thành rồi tan rã, có những đế quốc được xây dựng trên bạo lực và cường quyền đã trở nên hưng thịnh rồi suy vong, nhưng vương quốc chánh pháp của đức Phật, được kiến tạo bằng tình thươngtuệ giác sẽ mãi phồn thịnhtiếp tục thịnh vượng cho đến khi nào người con Phật biết vâng giữ những nguyên tắc cao thượng của chánh pháp.”

Mùa Phật Đản PL 2548

ĐT.

Tài liệu tham khảo:

- The Lalitavistara, Tr by R.L. Mitra, Delhi, 1998
- Malalasekera G.P, Encyclopaedia of Buddhism, Vol II , Ceylon, 1966
- Nàrada, The Buddha and His Teachings, Malaysia, 1988
- Samuel Beal,The Romantic Legend of Sàkya Buddha, M.Banarsidass, 1985
- Thomas Ed, The Life of Buddha as Legend and History, M.Munshiram, 1992
- Wimalaratana, Concept of Great Man, B. Singapore, 1998

Nguồn: Tập san Pháp luân số 2

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25721)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37926)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19651)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18759)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14321)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20168)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9549)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14415)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35647)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10685)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19776)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23253)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13410)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10794)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20299)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10642)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 10014)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14923)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17732)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17646)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13233)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31231)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25844)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 14016)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17562)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 11023)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12337)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10502)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12320)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11803)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9663)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12394)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9238)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8526)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 10001)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9789)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12076)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14511)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9929)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11241)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8342)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10999)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14149)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9953)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15262)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13129)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23140)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 24095)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12633)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15482)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17846)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15132)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16604)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16141)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17724)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11642)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11662)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17903)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10828)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10548)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11371)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12126)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11090)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36473)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8999)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9728)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34782)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17330)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10266)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10513)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12232)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13697)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14718)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9198)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24918)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11689)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10365)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15999)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15630)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14569)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13037)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12481)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14620)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18406)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9605)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18575)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18667)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19093)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18914)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11861)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13378)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 48030)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11091)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13598)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13088)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11112)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12602)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11076)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31843)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11716)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant