Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Dòng lệ A-tư-đà

08 Tháng Năm 201100:00(Xem: 13532)
Dòng lệ A-tư-đà


Vào một buổi sáng kia, kinh thành Ca Tỳ La Vệ bỗng trở nên nhộn nhịp, tươi vui và khác lạ hơn mọi ngày. Bầu trời hôm ấy thật quang đãng và trong mát, cây cối tươi thắm lạ thường, muôn hoa ngời sắc dưới nắng hồng và tỏa ra những làn hương thoang thoảng dịu ngát, từng đàn chim ríu rít vui hót trên những hàng cây xanh và xa xa vọng lại những âm thanh trầm lắng của từng lời kinh, từng hồi chuông vang vọng từ các ngôi đền nguy nga, cổ kính.

Tin vui về Hoàng hậu Ma Da vừa sinh hạ được một hoàng nam đã nhanh chóng vang đi khắp chốn trong vương quốc của bộ tộc Thích Ca, lan truyền đến các quốc gia lân cận, đến cảnh giới của chư thiên xa xôi, đến những bậc hiền sĩ đang ẩn tu trên những đỉnh núi cao quanh năm phủ đầy tuyết trắng của dãy Hy Mã Lạp Sơn, trong đó có Đạo sĩ A Tư Đà. A Tư Đà vốn là con trai của một Bà La Môn xứ Ujjenì thơ mộng và trù phú. Với tư chất thông tuệ, uyên bác, ông đã sớm trở thành một người đức độ, thông thái và được dân chúng xứ ấy tôn xưng là hiền giả khả kính. Khi danh tiếng vang xa khắp nơi, A Tư Đà được Sìhahanu, thân phụ của vua Tịnh Phạn, mời về cung để truyền dạy đạo lý siêu thế cho mình. Được phép Vua Sìhahanu, A Tư Đà bèn cất một am tranh tại một khu vườn trong kinh thành Ca Tỳ La Vệ để tu trì và cũng để vua có dịp được học hỏi thêm những khi rảnh rang việc triều chính. Tại am thất đơn sơ này, với những nỗ lực cao độ của mình, chẳng bao lâu, A Tư Đà đã thành tựu tám cấp độ thiền địnhchứng đắc ngũ thông. Vì quá khao khát với lý tưởng giải thoát, muốn vượt qua những sở chứng hiện có, ông liền từ giã chốn đô thị huyên náo, lên đỉnh Hy Mã Lạp Sơn và dành trọn quãng đời còn lại của mình trong cảnh u tịch vắng vẻ của chốn thâm sơn hoang dã.

Kinh Lalitavistara (Thần Thông Du Hí) kể lại rằng vào một ngày kia, với thiên nhĩ thông của mình, A Tư Đà bỗng nghe chư thiên trên cung trời Tam Thập Tam hân hoan ca múa và truyền nhau tin vui rằng: “Một hoàng nhi vừa chào đời tại kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Hoàng nhi ấy sau này sẽ trở thành một đấng Toàn giác, một bậc Đạo sư của chư thiên và loài người”. “Ta có nghe lầm chăng?” A Tư Đà tự hỏi, và rồi ông dùng Thiên nhãn quan sát và biết được rằng Hoàng hậu Ma Da đã hạ sanh được một hoàng nhi tại vườn Lâm Tỳ Ni, hài nhi đã được đưa về thành Ca Tỳ La Vệ. Thân của hài nhi này có đầy đủ đức tướng hy hữutỏa ra những vầng hào quang kỳ diệu vô ngần. Liền khi ấy, A Tư Đà liền dẫn người thị giả và cũng là cháu của mình là Naradatta về kinh thành Ca Tỳ La Vệ để tận mắt chiêm ngưỡng đức tướng của một thánh nhân vừa giáng trần.

Khi đến trước cổng hoàng cung, A Tư Đà thấy hàng ngàn người đang tụ hội tại đây, họ từ khắp nơi đổ về mang theo những tràng hoa đẹp nhất, thơm nhất, những cổ trầm hương quí nhất, ngạt ngào nhất cùng vô số lụa là, vật báu để dâng lên đức vua, mừng cho dòng tộc Thích Ca vừa sanh được một hoàng nhi cao quí, người sẽ tiếp nối sự nghiệp của hoàng triều và sẽ làm rạng rỡ đất nước này. A Tư Đà đến bên người lính gác cổng và nhờ anh ta vào báo với hoàng gia.

Được tin có một Đạo sĩ từ đỉnh Hy Mã Lạp Sơn đến thăm, vua Tịnh Phạn vô cùng mừng rỡ và liền cho mời A Tư Đà vào đại sảnh. Sau khi thi lễ chào hỏi xong, nhà vua bèn cất tiếng:

- Thưa Đạo sĩ, trước đây Quả nhân chưa từng gặp Ngài, vậy thìmục đích gì mà hôm nay Ngài quan lâm đến đây?.”

- Muôn tâu Hoàng thượng, Ngài vừa có được một người nối dõi cao quý và xứng đáng, lão đến đây để mong được tận mắt xem hoàng nhi ấy.

Khi nhìn thấy hài nhi có đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, thân ánh lên những vầng hào quang siêu việt hơn cả phước tướng của Đế Thích, Phạm Thiên và tất cả các thiện thần hộ thế khác, A Tư Đà liền thốt lên rằng:

- Kỳ diệu thay! Bậc thánh nhân này là phước lành cho cõi thế.

Liền khi ấy, A Tư Đà liền rời khỏi chỗ ngồi, chắp tay đảnh lễ và cúi đầu đặt trán hôn lên đôi chân bé nhỏ của hài nhi, rồi lại đi nhiễu bên phải hài nhi một vòng. Ngắm nhìn kỹ diện mạo và kim tướng của hài nhi, A Tư Đà lặng người lại, những giọt nước mắt chợt lăn xuống đôi gò má già nua, nhăn nheo đầy phong sương của Đạo sĩ. A Tư Đà đã khóc, niềm bi cảm dâng trào trong tâm hồn thanh khiết của một bậc Hiền nhân.

Nhìn những giọt nước mắt cùng cử chỉ ảo não, đau xót của A Tư Đà, vua Tịnh Phạn vô cùng ngạc nhiênlo âu. Người bước đến bên cạnh Đạo sĩcung kính thưa rằng:

- Thưa Đạo sĩ, sao Ngài lại đau xót và than khóc như vậy? Có điềm gì bất hạnh sẽ xảy đến với hài nhi này chăng?

- Tâu Hoàng thượng, lão khóc là không phải khóc cho hài nhi này, sẽ không có điều gì bất hạnh xảy ra đối với một con người thánh thiện như thế cả. Lão khóc là khóc cho chính mình. Vì sao vậy? Tâu Hoàng thượng, lão đã già nua, yếu ớt, thân thể cằn cỗi như một cỗ xe rệu rã, còn hài nhi này chắc chắn sẽ trở thành một bậc Toàn giác tối thượng, Ngài sẽ chuyển bánh xe chánh pháp mà từ xưa nay chưa có một Đạo sĩ, Sa môn, Bà la môn, Thiên thần, Ma vương… trên thế gian này chuyển được như vậy. Vì lợi íchhạnh phúc cho nhân gian, Người sẽ tuyên thuyết chánh pháp sơ thiện, trung thiện và hậu thiện, với nghĩa lývăn tự đầy đủ. Tâu Đại vương, hoa Ưu Đàm ngàn năm mới nở một lần, cũng thế trải qua vô lượng kiếp chư Phật mới thị hiện trên thế gian này. Hoàng nhi này chắc chắn sẽ chứng ngộ trí tuệ vô thượng, sẽ dẫn dắt vô số chúng sinh vượt thoát đại dương luân hồi để đến cảnh giới giải thoát, bất tử. Nhưng lão sẽ không gặp được một đức Phật cao quý như thế. Đại vương ơi, lão khóc là khóc cho mình bạc phước kém duyên, thọ mạng không còn bao lâu nữa để được nghe đấng Giác Ngộ tuyên giảng chánh pháp, để được đảnh lễcúng dường bậc Đạo sư của chư thiên và loài người…”

Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu. Những tri thức cao siêu, thâm sâu và đầy vẻ u huyền trong những bộ thánh kinh Vệ Đà ông đã thông suốt, những kinh nghiệm tu trì siêu tuyệt đương thời ông đã trải qua, những sở chứng cao tột nhất ông đã đạt được, nhưng vấn nạn về lẽ tử sinh cứ mãi bám víu, đeo đẳng tâm hồn của bậc Đạo sĩ.

A Tư Đà không phải như những phàm nhân tầm thường chỉ biết quanh quẩn trong kiếp người với những giả tạm, phù phiếm của trần thế. Ông là một người có chí khí, có tri thức uyên bác và khát vọng cao thượng, và vì thế ông đã từ bỏ tất cả những vướng bận của trần duyên, đã đi khắp nơi học hỏi đạo lý và đã đạt được những kinh nghiệm tâm linh cao cả nhất mà đương thời ít có ai bì kịp. Với thiên nhĩ thông, Thiên nhãn thông, tha tâm thông… ông có thể lắng nghe, nhìn thấy và thấu cảm được những việc xa xăm trong vũ trụ, những cảnh thăng trầm của cuộc thế huyễn mê, những tâm tư của bao trái tim khác, nhưng oái oăm thay, ông lại không trực nhận, không lắng nghe và cũng chẳng tỏ ngộ được tự tánh thanh tịnh của chính mình. Những triền phược của vô minh vi tế không để cho ông được tự tại, thong dong trong cảnh giới giải thoát viên mãn. A Tư Đà đã khóc và cảm thấy tự thẹn cho chính mình không đủ phước duyên để được nghe diệu pháp của đức Phật, không được qui ngưỡnghành trì theo pháp môn của Ngài.

Có lẽ A Tư Đà không chỉ khóc cho chính mình mà còn khóc cho những ai vẫn đang chơ vơ, lạc lõng, mờ mịt, không tìm được hướng đi xán lạn trong cuộc đời thật ngắn ngủi này. Trong cuộc sống, có biết bao người đã đến và đi trong lo âu, phiền muộn, mang theo mình nỗi buồn của lẽ tử sinh. Những con người ấy cũng chẳng khác chi những hạt bụi đang lãng du, phiêu bồng trên những sa mạc khô cằn, hun hút. Chúng đến và đi, sanh khởihoại diệt trong cô đơn, quạnh quẽ. Từ thuở hồng hoang của nhân loại cho đến tận hôm nay và có lẽ đến tận mai sau nữa, khát vọng tìm về với chân lý, với ý nghĩa đích thực của cuộc sống vẫn là một động lực mãnh liệt, thôi thúc bao lớp người từ mọi phương trời khác nhau dấn thân vào những cuộc hành trình tâm linh xa xôi và kỳ vĩ, và rồi những ai chưa đủ duyên lành để gặp gỡ và an trú vào chánh đạo sẽ là những người bất hạnh nhất trên cuộc đời này. Nghèo đói, mồ côi, bệnh tật v.v…được xem là những nỗi bất hạnh trong đời người, song người ta có thể khắc phục những chướng duyên ấy bằng cách này hay cách khác. Sống mà không gặp được các bậc Chân sư soi sáng và dẫn lối cho đời mình, để nhận diệntrở về an trú trong con người thật của chính mình thì đó mới là nỗi bất hạnh lớn lao và đáng sợ nhất.

Chánh pháp của đức Thế Tônvô giádiệu dụng của nó thật bất khả tư nghì. Kinh tạng Nguyên ThủyĐại Thừa có kể rằng trong nhiều kiếp quá khứ, khi còn là một hành giả đang tầm đạo, đức Phật đã hy sinh bất cứ điều gì, ngay cả tánh mạng của mình để mong học được giáo pháp chân chính. Những ai đón nhận và thọ trì chánh pháp với tâm niệm nhiệt thành thì mới thể nghiệm được sự vi diệu của nó. Thiện Tài Đồng Tử, nhị tổ Huệ Khả, pháp sư Huyền Trang, thiền sư Lâm Tế… là những tấm gương tỏa sáng về tinh thần tha thiết, khát ngưỡng, cầu học chánh pháp trong đạo Phật.

Càng về sau, những tấm gương cầu pháp như thế thật hiếm hoi. Cuộc sống trong xã hội văn minh đã cuốn hút con người vào quĩ đạo của guồng máy vật chất và hưởng thụ. Con người phần nhiều chỉ biết an phận với những niềm vui thế tục mà mình đang hiện có. Có một lần, Lạt ma Dorje Khensen đưa sư phụ mình là Dudjom Rinpoche ngang qua một nghĩa trang. Nhìn những ngôi mộ thẳng tắp chạy dọc trên những thảm cỏ xanh cùng những luống hoa đủ màu đang khoe sắc, ông khen rằng:

- Thầy ơi, người Tây phương quả thật văn minh. Ngay cả nơi dành cho xác chết cũng đẹp đẽ, sạch sẽ.

Hòa thượng Dudjom mỉm cườitrả lời:

- Đúng, họ văn minh, con cũng thấy rằng nơi dành cho “xác sống” còn đẹp và sạch hơn thế nữa kia.

Phần lớn con người sống mà mơ hồ, không ý thức được sự sống. Họ cũng chẳng khác gì với những xác chết biết đi. Người ta sống theo một khuôn mẫu đã vạch sẵn: nhỏ thì học hành, trưởng thành thì lo kiếm việc làm, sau đó thì lập gia đình, sinh con, đẻ cái, lo mua nhà cửa, xe cộ, đến tuổi trung niên thì lo danh vọng, địa vị, tài sản…Hình như họ chỉ biết lo chứ không biết sống. Vì cứ mải miết lo như vậy nên những nội kết cứ tích chứa ngày càng nhiều trong tâm thức, đến một lúc nào đó một biến cố bất ngờ xảy ra, dù là nhỏ nhoi, cũng làm cho họ chao đảo và rơi vào những bi kịch thương tâm. Vì thế khi sống mà không tiếp xúc được với ý nghĩa thực sự của cuộc sống thì con người đâu có khác chi những “xác sống” trong dòng đời.

Khác với A Tư Đà ngày xưa, người đời sau này cũng đã khóc, khóc vì thời cuộc nhiễu nhương, vì chiến tranh thiên tai, vì lòng người tao loạn, vì vô thường nguy biến… những cái khóc như thế thường mang tính cảm quan của tâm thức phàm tục. Một hôm vua Linh Công cùng với Di Tử Hà và các quan đại thần trong triều cùng lên núi cao để du sơn ngoạn cảnh. Nhìn thấy muôn người sống trong cảnh phồn vinh, giang sơn gấm hoa một dãi mênh mông, vua không cầm lòng được và chợt khóc òa lên: “Ôi đất nước ta đẹp quá, giang sơn cẩm tú đẹp quá, nhưng các khanh ơi, trẫm đã già nua, sẽ chẳng còn sống bao lâu nữa để tận hưởng mọi thú vui của cuộc đời này”. Lúc ấy, các quan thấy thế cũng hùa theo mà khóc, riêng Di Tử Hà thì cười ngặt nghẽo, cười như chưa bao giờ được cười. Di Tử Hà đã cười cho tham vọng hão huyền của nhà vua cứ muốn sống mãi và làm vua mãi để hưởng thụ những cái vui thoáng chốc của cuộc đời, lại cười cho hàng quan lại không phân định được đúng sai, phải trái của thế sự mà chỉ biết làm theo một cách mù quáng để lấy lòng nhà vua mà thôi.

Thuở xưa, có đôi lúc các bậc Hiền nhân cũng đã khóc, nhưng sự rung động của những trái tim kỳ vĩ, cao cả đó không phải là sự bi lụy trước những vô thường, thịnh suy của cuộc sống mà thay vào đó là niềm thao thức, là tâm niệm vị tha, hướng thượng của đời mình. Doãn Am Thiền Sư là một bậc cao tăng đức độ, giới luật nghiêm trì. Mỗi khi chiều xuống, Ngài đứng nhìn mặt trời đang khuất dần nơi chân trời xa thẳm mà rơi lệ, lòng tự thẹn rằng một ngày đã qua mà mình chưa tiến bộ được bao nhiêu trên trong con đường giải thoát. Sau đó Liên Trì Đại Sư mỗi khi nhìn mặt trời lên, Ngài thường nhắc lại lời than thở của Doãn Am Thiền Sư và tự khuyến tấn mình rằng: “Kim hựu hoán nhật. Tạc nhật dĩ thành không quá, vị tri kim nhật công phu như hà?” (Hôm nay lại sang một ngày mới. Hôm qua công phu đã chưa được gì, không biết hôm nay ta có đạt được công phu gì chăng?). Ngài Liên Trì vốn là một hành giả Tịnh Độ nổi tiếng, một bậc chân tu tinh nghiêm, nhưng vẫn luôn dè dặt, cẩn trọng và luôn tự khuyến tấn mình. Quả thật, đó là một tấm gương sáng để những hành giả thời nay phải suy tư.

Theo Kinh Phật Bản Hạnh, khi Bồ-tát giáng sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni, thân Ngài tỏa ra những vầng hào quang trong suốt, trái đất chấn động, chư thiên trên sáu tầng trời cõi dục ca hát và loan truyền nhau tin vui này. Lúc ấy, A Tư Đà từ cung trời Tam Thập Tam trở về nơi ẩn tu và dẫn một môn đồ của mình vào thành Ca Tỳ La Vệ. Khi sắp đến thành, A Tư Đà nghĩ rằng không nên thi triển thần thông mà hãy đi bộ vào thành. Hôm ấy mọi người trên phố nhìn Đạo sĩ với vẻ hiếu kỳ, có kẻ đứng trước cửa, có người từ cửa sổ, người khác thì dựa vào bao lơn… chăm chú theo từng bước đi của ông. Họ nhìn ông và thì thào với nhau:

- Trước đây, khi vào thành, vị Đạo sĩ này nương thần thông mà đến thẳng hoàng cung, nhưng sao hôm nay ông lại bước chầm chậm như vậy?

Khi xem tướng thái tử, Đạo sĩ luôn tỏ vẻ cung kính và ngưỡng mộ trước đức tướng của một Thánh nhân. Bao nhiêu vật báu mà vua Tịnh Phạn dâng tặng, Đạo sĩ đều đem dâng cúng cho thái tử. Ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp trên người của thái tử đã nói lên một sự thậtthái tử sau này hoặc trở thành Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc trở thành một đấng Giác Ngộ. A Tư Đà tỏ vẻ cung kính, bi cảm rơi lệ, thương cho thân phận mình vì ông biết rằng hoàng nhi này sẽ không là một Chuyển Luân Thánh Vương thông thường mà nhất định sẽ trở thành một đức Phật.

Chuyển Luân Thánh Vương là danh từ chỉ cho một vị đại vương tài đức, dùng chánh pháp cai trị cả bốn châu thiên hạ. Vị vua này có đủ bốn đức: sống lâu, không bệnh tật, dung mạo đẹp đẽ và kho báu dồi dào. Tuy nhiên, những phước đức hữu lậu đó không thể sánh với những phẩm tính siêu việt của một đức Phật. Có lần Bà La Môn Sela được chiêm ngưỡng đức tướng của đức Phật, ông bèn thốt lên rằng:

- Thưa đức Cồ Đàm, Ngài có đầy đủ phước tướng của một Chuyển Luân Thánh Vương, người sẽ cai trị cả bốn châu thiên hạ.

Đức Phật liền đáp:

- Đúng thế Sela, ta là quốc vương, nhưng vương quốc của ta là chánh pháp, nơi đó không có tước vị. Ta cũng chuyển pháp luân, nhưng pháp luân ấy không hề thoái chuyển.

Bản sớ giải của kinh Tương Ưnggiải thích rằng nếu Chuyển Luân Thánh Vươngbảy báu là xe báu, voi báu, ngựa báu, tướng quân báu, châu báu, nữ báu và gia chủ báu thì đức Phật cũng có bảy món báu tương ưng (Thất Giác Chi) khác: niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định và xả. Còn bản chú giải của kinh Tăng Chi thì so sánh năm phẩm chất giữa Chuyển Luân Thánh Vương với đức Phật như sau: nếu Chuyển Luân Thánh Vương biết thiện; biết pháp (truyền thống và phong tục truyền thừa); biết thời (lúc nào nên đăng triều, lúc dạo chơi, lúc xem xét thiên hạ); biết chúng (phân định hàng quí tộc, Bà La Môn…); và biết lượng (thưởng phạt công tâm), thì đức Phật cũng biết năm đặc tánh của thiện; biết pháp Tứ Đế; biết lúc nào nên giảng pháp; biết đâu là quí tộc, Bà La Môn, Tỳ Kheo…; và biết thọ nhận tri túc tứ sự cúng dường. Trưởng lão Vagisa từng tán thán rằng đức Phật cũng như một vị Chuyển Luân Thánh Vương (có ngàn người con và cận thần bao quanh) có ngàn vị Tỳ Kheo kề cận hộ trì. Trong Kinh Trung Bộ, Tôn giả Vô Não đã ca tụng rằng đức Phật đã hóa độ hàng đệ tử mình với tâm lượng từ dung, không thúc ép và bức bách một ai cũng như Chuyển Luân Thánh Vương luôn cai trị muôn dân mà không dùng đến binh đao, gậy gộc. Các bản kinh Pali thường khắc họa và nhấn mạnh đến tính thế tục trong hình ảnh của Chuyển Luân Thánh Vương khác biệt với hình ảnh siêu thoát của một đức Phật, bậc Đạo Sư của thế giới tâm linh.

Mọi hình thái, thể chế xã hội được thiết lập theo những khuôn mẫu trong phạm vi tương đối của mỗi quốc giachủng tộc. Theo đà tiến hóa chung, các cơ cấu ấy sẽ được thay đổi theo điều kiện và nhu cầu của thực tế. Có lẽ đỉnh cao của mọi hình thái đó là một thế giới hưng vượng mà mẫu người lãnh đạo đó là Chuyển Luân Thánh Vương. Nhưng rồi thế giới ấy có lúc cũng phải biến đổi và có những vị Chuyển Luân Thánh Vương vì thấu rõ tính vô thường nên xả bỏ tất cả để sống một cuộc đời phạm hạnh viễn ly (Kinh Chuyển Luân Thánh Vương Sư Tử Hống).

Không như Chuyển Luân Thánh Vương ngồi trên ngai vàng để cai trị thiên hạ, đức Phật với tấm y hoại sắcbình bát đơn sơ đã du hóa khắp nơi để trang trải ánh sáng của tình thươngtuệ giác. Ngài đã vượt qua những con đường dài hun hút đầy sỏi đá chông chênh, an nhiên, điềm tĩnh với cái nóng hừng hực của mùa hạ, cái lạnh thấu xương của mùa đông, bình thản trước mọi thị phi, hiềm thù của nhân thế. Nơi Ngài ngồi giảng pháp và nghỉ ngơi là những phiến đá xanh, những bãi cỏ hiền hòa thơ mộng nằm cạnh những dòng nước tươi mát, thơm trong, bên dưới những tàn cây rậm rợp và hùng vĩ. Mỗi hành vi, cử chỉlời nói của Ngài là những bài học thâm thúy cho bất cứ ai trên cõi đời này. Đạo sĩ A Tư Đà đã suy nghiệm được bài học ấy, đã cảm nhận được Sư giao thoa mầu nhiệm, thiêng liêng của đức Phật ngay từ khi Ngài còn là một hài nhi sống trong nhung lụa vàng son. A Tư Đà buồn tủi vì biết mình sẽ không sống được bao lâu nữa để trở thành một thành viên trong gia đình tâm linh thanh tịnh, một thần dân trong vương quốc chánh pháp của đức Phật. Vương quốc tâm linh đó được khơi nguồn từ tâm hồn sâu lắng của đức Thế Tôn tại Bồ Đề Đạo Tràng, lan tỏa đến năm nhà khổ hạnh tại Lộc Uyển, thấm nhuần đến một nghìn hai trăm năm mươi vị thánh Tăng tại Ma Kiệt Đà, Kiều Tất La…, và rồi đến hàng triệu con tim trên khắp hành tinh này.

Thế hệ Phật tử hôm nay và mai sau sẽ luôn cảm thấy tự hào và sung sướng vì giữa một thế giới đầy sầu hận bi hoang, họ đã được diễm phúc hội ngộ và an trú trong suối nguồn chánh pháp thanh lươngan lạc. Họ sẽ luôn biết nâng niu, trân quí những gia tài pháp bảo mà các bậc tiền nhân đã để lại, luôn ý thức được trách nhiệm của mình trong việc bảo tồn kỳ quan chánh pháp và sẽ sống bằng trọn trái tim hiểu biếthướng thượng như lời nhắn nhủ của Hòa thượng Nàrada: “Có những quốc gia hình thành rồi tan rã, có những đế quốc được xây dựng trên bạo lực và cường quyền đã trở nên hưng thịnh rồi suy vong, nhưng vương quốc chánh pháp của đức Phật, được kiến tạo bằng tình thươngtuệ giác sẽ mãi phồn thịnhtiếp tục thịnh vượng cho đến khi nào người con Phật biết vâng giữ những nguyên tắc cao thượng của chánh pháp.”

Mùa Phật Đản PL 2548

ĐT.

Tài liệu tham khảo:

- The Lalitavistara, Tr by R.L. Mitra, Delhi, 1998
- Malalasekera G.P, Encyclopaedia of Buddhism, Vol II , Ceylon, 1966
- Nàrada, The Buddha and His Teachings, Malaysia, 1988
- Samuel Beal,The Romantic Legend of Sàkya Buddha, M.Banarsidass, 1985
- Thomas Ed, The Life of Buddha as Legend and History, M.Munshiram, 1992
- Wimalaratana, Concept of Great Man, B. Singapore, 1998

Nguồn: Tập san Pháp luân số 2

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10155)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10553)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10171)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20465)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11688)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13840)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19196)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46767)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12137)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11718)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23172)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17902)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10192)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17859)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13962)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 14095)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15152)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20340)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18335)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17488)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18247)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12762)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12901)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13471)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 17082)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11510)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18317)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18648)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21441)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22230)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16918)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12595)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15363)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24712)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14262)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11672)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19810)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13464)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22856)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 19051)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18496)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21663)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20556)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 20073)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14121)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 15047)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13814)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15142)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17274)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15322)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12837)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15914)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 13034)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13178)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 15055)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22694)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7198)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19391)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37774)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9231)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8719)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17950)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14903)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 27092)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19992)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15309)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15516)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26844)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14606)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19757)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14676)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18697)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15984)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16398)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19428)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19797)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19948)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18640)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29903)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14607)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17809)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32510)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15311)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17350)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29824)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31601)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64765)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32860)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20280)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18557)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30862)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19961)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45950)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32645)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39397)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40510)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50207)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19134)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18601)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20731)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant