Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cảm niệm ngày Phật đản

12 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10244)
Cảm niệm ngày Phật đản

Cách nay đúng 2592 năm (tính theo thời điểm năm 1968), một vị Bồ Tát đã giáng sinh ở nước Ca Tỳ La Vệ (Ấn Độ), lớn lên xuất gia tu hành thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Từ đó đến nay chưa hề có một vị Phật thứ hai xuất thế, như vậy Đức Phật được coi như một siêu nhân, một hành tinh hay một ngôi sao chổi, chỉ thoáng hiện trên vòm trời đen tối trong một thời gian ngắn, rồi lại vụt biến đi, để lại một thế giới u tối đầy đau khổ.

Không, Đức Phật luôn luôn hiện hữu bên cạnh tất cả chúng sinh từ vô thỉ tới vô chung. Ngài đã giáng sinh, từng giờ từng phút trong đời sống của muôn loài. Lúc trẻ cho tới lúc già, lúc khổ cũng như vui, khi trầm luân hay lúc giải thoát, Đức Phật luôn luôn ở cạnh chúng ta và gần chúng ta hơn tất cả mọi người, mọi vật. Những lúc lầm lạcvô minh, chúng ta thấy Ngài nhìn chúng ta bằng cặp mắt thương xótchúng ta cảm thấy xấu hổ, quỳ xuống mà sám hối “Lạy Phật, con đã lầm lỗi theo gót Ma Vương Ác Quỷ gây nhiều tội ác, con xin thành tâm hối cải, bỏ ác làm lành, quày đầu trở lại với Ngài, với sự sáng suốt và giác ngộ”. Lúc đó, Đức Phật mỉm cười, hào quang chiếu sáng, từ bi dơ tay xoa đảnh đầu đứa con biết trở về đường chánh. Những khi làm được điều thiện, chúng ta cũng thấy Phật mỉm cười khuyến khích: “Con hãy tiếp tục làm như vậy, nhưng phải xa lìa chấp tướng nhân ngã, đừng thấy có mình làm thiện, có việc làm thiện, có người được hưởng điều thiện, nên xả bỏ tất cả để được tất cả”.

Chúng ta thấy Phật hiện ra, nghe Phật dạy bảo trong mọi trường hợp, từng giây từng phút, đó không phải là tưởng tượng, là mê tín, mà chính là chúng ta đã cảm thông với Phật. Hình tướng của Ngài là Vô Tướng, âm thanh của Ngài là Vô Thanh, chỉ những cặp mắt đã sáng suốt, đôi tai đã thanh tịnh, mới thấy được Chân Tướng, mới nghe được Diệu Âm. Hình của Ngài lớn như núi Tu Di nhưng hiển hiện trọn vẹn trong lòng hạt cải, tiếng của Ngài to như tiếng gầm của biển cả (Hải Triều Âm) nhưng luôn luôn dịu dàng văng vẳng bên tai chúng sinh; tiếc thay, chúng sinh có mắt cũng như mù, có tai cũng như điếc, không thấy, không nghe.

Tiếng của Phật hay tiếng của lương tâm từ chỗ sâu thẳm cất lên át mọi thứ tiếng ở đời, luôn luôn trách mắng khi chúng ta lầm lỗi, thường xuyên khen ngợi lúc chúng ta làm lành, dù bịt tai chúng ta vẫn nghe thấy, đó là tiếng của cõi lòng, tiếng của Chân Tâm, Tiếng Vô Thanh (la Voix du Silence). Người con Phật phải y theo tiếng đó mà tu hành thì vô minh sẽ hết, chân lý sẽ đạt, nhưng thử hỏi số người đó được là bao? Con người trần thế mải nghe theo tiếng của thất tình lục dục, cũng có lúc chợt nghe tiếng Phật nổi lên, nhưng lại giả điếc để giòng đời lôi cuốn nhận chìm trong bể khổ, mặc cho tiếng Phật trở thành tiếng kêu trong sa mạc.

Hình bóng của Phật cũng vậy: chúng ta thường thấy hàng ngày mà không nhận ra. Một người lính chữa lửa leo lên lầu một nhà đang bị cháy để cứu một bà già và vài trẻ thơ không lối thoát sắp bị lửa thiêu; một khách bộ hành nhảy xuống nước để vớt một người mù không may rớt xuống sông; một nông phu chân lấm tay bùn thấy cây cầu khỉ bị lung lay, ván chốt mục nát, vội tìm gỗ để thay, đóng lại những chốt bị hỏng; những sinh viên và học sinh phơi mình dưới nắng mưa cất nhà cho đồng bào bị nạn chiến tranh; người y sĩ lao mình vào lửa đạn để băng bó vết thương cho những người đang quằn quại trong vũng máu; những hình ảnh đẹp đẽ đầy vị tha kể sao cho hết đã xuất hiện thường ngày trước mắt chúng ta mà ít ai biết rằng đó chính là hình bóng Phật, hình bóng của Từ Bi Hỷ Xả, của lòng thương. Ai có cặp mắt sáng suốt sẽ thấy Phật ở khắp mọi nơi, còn người u mê thì dù Phật có hiện ra cũng không thấy. Đáng thương thay cho Gagarine, phi hành gia đầu tiên của nhân loại đã bay trong không gian, khi anh ta nói với giọng diễu cợt: “Tôi đã bay nhiều vòng trong không gian mà không thấy Thượng Đế đâu cả?”; cũng như câu chuyện một người Âu đi săn bị lạc trong rừng thẳm Phi Châu, hết lòng cầu khẩn Thượng Đế giúp anh thấy đường về; trong khi nguy cấp, bóng chiều đã xế, tiếng hổ báo gầm vang, anh ta chợt gặp một người mọi dẫn lối ra khỏi khu rừng; thoát chết, anh ta cười rỡn kể chuyện lại cho bạn bè và kết luận: “Tôi cầu nguyện Thượng Đế mà chỉ thấy một anh mọi đen”.

Những người như Gagarine và gã đi săn thật đáng thương vì họ quá ngu muội không hiểu rằng Thượng Đế (hay Phật) đâu có phải là một con người vật chất bằng xương thịt ngồi mãi trên cao, cứ bay lên là thấy; Ngài đã thị hiện trong lốt người mọi đen để cứu gã đi săn mà hắn nào có biết. Muốn cho những người đó tin là có Thượng Đế, có Phật, thì phải có một Đấng Tối Cao nào đó đội mũ cánh chuồn, râu tóc bạc phơ, mặc áo thụng, đi hia đen, bay trong không gian như máy bay, hóa hiện 72 phép thần thông như Tề Thiên Đại Thánh, ban phước giáng họa ... có như vậy họ mới sợ mới tin! Họ đâu có hiểu rằng Thượng Đế cũng như Phật là Chân lý, là Từ Bi Hỷ Xả, là Bác Ái Lợi Tha, là Giác Ngộ Giải Thoát. Ở người nào, ở chỗ nào những đức tánh đó đều có thể biểu hiện và ở đâu có sự biểu hiện đó là có Thượng Đế, có Phật. Ít người chịu tìm, chịu nhận Niết Bàn tại thế mà chỉ đi tìm Niết Bàn ở trên chín từng mây.

Phật là Pháp, là Chân lý, mà Chân lý thì ở khắp cùng, trường tồn bất biến; chỗ nào có Pháp là có Phật, người nào đắc Pháp thì người đó là Phật, mà người nào chưa đắc Pháp thì cũng là Phật, nhưng đó là Như Lai tại triền, còn bị xiềng xích thế gian ràng buộc; khi cởi bỏ được xiềng xích phiền não thì là Như Lai xuất triền, được tự tại vô ngại. Ai cũng có Phật tánh, ai cũng có khả năng thành Phật, và hàng ngày có biết bao nhiêu vị Phật ra đời mà ít người nhận biết.

Lạy Phật! Con không dám đứng trong lý thuyết mà bàn suông, con muốn quay về thực tại để chiêm nghiệm, để hành động, để tự cứu và cứu người khác. Trong thế giới đầy hận thù và khổ đau, chúng ta phải làm gì? Trước hết, chúng ta hãy bình tỉnh và sáng suốtphân tách sự vật một cách khách quan: Chúng ta là ai? Vai trò của chúng ta là thế nào? Chúng ta đã làm gì cho mình và cho người khác? Nếu suy gẫm kỹ càng thì thấy chúng tahiện thân của tham sân sichấp ngã, chúng ta đã đóng những vai trò của những kẻ giả đạo đức luôn miệng nói Từ Bi, Bác Ái, Hòa Bình, Tự Do, mà hành động thì trái hẳn; chúng ta luôn luôn ích kỷ, làm việc gì cũng vì mình, vì gia đình mình, vì quốc gia mình, mà không hề nghĩ đến người khác, gia đình khác, quốc gia khác.

Sự chấp ngãngã sở đã đưa đến vực thẳm của sợ hãiyếu hèn. Chúng ta sợ chết, sợ mất của, sợ tù tội, sợ đàn áp, sợ tất cả những gì làm thiệt hại đến bản thân và đến những cái gì của ta vì vậy chúng ta yếu hèn cúi đầu thụ động chấp nhận sự sai khiến của Ma Vương hiện ra dưới hình thức của si mê, dục vọng, ác độc. Chúng ta học vì sợ dốt, sợ thi trượt chứ không biết học để làm người; chúng ta tu vì sợ tội, sợ đọa địa ngục, mong được phước lên Thiên Đàng, chứ không hiểu tu là sửa, là quên mình lợi người, hướng về giác ngộgiải thoát. Tất cả mọi việc làm của chúng ta đều do sự sợ hãi chứ không vì một mục đích cao cả nào. Rồi khi tiếng nói của lương tâm, của Chân lý, khi Diệu Âm từ đáy lòng nổi lên thì chúng ta nhắm mắt bịt tai, tìm đủ mọi lý do xảo ngôn để bào chữa những hành động sai lầm của mình; đôi khi không chịu nổi sự gầm thét của Hải Triều Âm, chúng ta bỏ trốn vào tháp ngà hoặc lên núi xuống biển ẩn mình; như vậy đâu có giải quyết được vấn đề.

Chúng ta cần phải học hỏi suy tầm để có một số vốn liếng làm phương tiện khởi hành, rồi dấn thân vào cuộc đời, làm mọi việc phải làm để tìm ra Chân lý đang ẩn mình đâu đây, trong không gian, vĩnh cửu với thời gian, ở đâu cũng có, lúc nào cũng hiện, nhưng khó thấy khó gặp. Trước hết phải diệt trừ sự sợ hãi bằng cách giữ tâm hồn thản nhiên trước mọi hoàn cảnh, tâm trí kiên cố như núi Tu Di, lòng phẳng lặng như mặt hồ không gợn sóng, đó là đức tính Vô ÚyĐức Phật đã nhiều lần căn dặn. Thân ta là do ngũ uẩn hợp thành, đủ duyên thì hợp hết duyên thì tan, mọi sự mọi vật đều do luật vô thường chi phối, nay còn mai mất có gì là quý, là trọng đâu mà phải lao tâm khổ trí để bảo vệ. Vô Thường, Khổ, Vô ngã, đó là Tam Pháp Ấn căn bản của giáo lý nhà Phật. Biết ba điều này, chúng ta sẽ tìm ra lối sống hợp thời, hợp cơ và trung đạo.

Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch, được như vậy tâm an định không còn sợ hãi, được pháp Vô Úy của Phật, tâm hồn thản nhiên trước mọi hoàn cảnh mọi sự vật và tâm trí mở ra đón Lý lẽ diệu huyền. Nụ cười đầy hỷ xả an lạc của Đức Di Lặc tượng trưng cho lòng Vô Úy mà Ngài đã thực hiện khi Ngài hóa thân làm Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi) tay bắt ấn Vô Úy (Abhaya Mudra). Chỗ nào còn sợ hãi đau khổ, còn chiến tranh hận thù thì Ngài đến với Vô Úy Ấn sáng ngời trên tay, với nụ cười hiền hòa an lạc, để an ủi dạy bảo chúng sinh con đường thoát khổ. Chúng ta có pháp Vô Úy thì lòng không sợ hãi, tâm thản nhiên trước mọi biến chuyển vô thường, bình tĩnh đón nhận kết quả của lý vô ngã, khổ vui không còn làm náo động tâm hồn, nhìn cuộc đời như tuồng ảo hóa mộng huyễn; chúng ta là tảng đá lớn mà ngọn gió đời không lay chuyển được. Chúng ta nhìn thẳng vào sợ hãi và tự nhủ: “Không có gì hại ta được”, vì cái ta không thật có (Vô Ngã). Chỉ khi nào ta nhận là có ta, coi trọng và đề cao bản ngã, đem sự sợ hãi vào nuôi dưỡng trong cái ta giả tạo đó khiến cho sự sợ hãi mới xâm chiếm và làm chủ tâm hồn ta được.

Nhưng chúng ta không phải là gỗ đá, không cảm xúc trước nỗi thương đau của chúng sinh, ta phải chia sẻ nỗi đau khổ của đồng loại bằng cách sống hòa mình với chúng sinhthực hành lục độ vạn hạnh để cúu giúp muôn loài.

Lạy Phật!

Hôm nay chúng con mừng lễ Khánh Đản của Ngài với lòng luôn luôn ghi nhớ sự hiện diện của Ngài thường xuyên ở khắp nơi, mong cho ánh sáng của Ngài làm tan hắc ám vô minh, phá vỡ mọi sợ hãihận thù, đem lại an vui và hòa bình cho nhân loại. Đêm tối sắp hết, sao Mai lấp lánh báo hiệu rạng đông sắp tới, một ngày sắp bắt đầu; tuy biết một ngày chỉ là một khoảng ngắn ngủi trong thời gian vô tận, nhưng ngày Rằm tháng Tư đánh dấu một bước tiến chắc chắn của nhân loại hướng về Giác NgộGiải Thoát.

Một vị Phật đã thành, nhiều vị Phật sắp thành.

(đăng trong tạp chí Từ Quang,

số 187-188, tháng 3 & 4 năm 1968)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31784)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10567)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11286)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12815)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10858)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16761)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10861)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 23031)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12111)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11545)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10744)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12389)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11239)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10066)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10361)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11967)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10743)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12412)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9861)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11316)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13876)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9616)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12679)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9727)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10496)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10611)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10370)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9949)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11095)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12042)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10184)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10816)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9585)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9940)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8835)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9534)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14574)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8815)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12609)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10469)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9129)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10609)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9369)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8830)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10556)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9247)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8394)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12081)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9741)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10250)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10266)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19210)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9454)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 9026)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9609)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9033)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14810)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10127)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8401)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8982)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 9023)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8770)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9407)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14656)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9062)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8816)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9070)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10573)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8674)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10039)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24372)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10220)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11077)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9052)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9515)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8035)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9312)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15414)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10379)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9608)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17494)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21495)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12206)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10267)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19333)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26122)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 8009)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14873)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10672)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11396)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9560)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18756)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12411)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11939)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10798)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13384)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10043)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9300)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9425)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15951)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant