Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cảm niệm ngày Phật đản

12 Tháng Năm 201100:00(Xem: 10250)
Cảm niệm ngày Phật đản

Cách nay đúng 2592 năm (tính theo thời điểm năm 1968), một vị Bồ Tát đã giáng sinh ở nước Ca Tỳ La Vệ (Ấn Độ), lớn lên xuất gia tu hành thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Từ đó đến nay chưa hề có một vị Phật thứ hai xuất thế, như vậy Đức Phật được coi như một siêu nhân, một hành tinh hay một ngôi sao chổi, chỉ thoáng hiện trên vòm trời đen tối trong một thời gian ngắn, rồi lại vụt biến đi, để lại một thế giới u tối đầy đau khổ.

Không, Đức Phật luôn luôn hiện hữu bên cạnh tất cả chúng sinh từ vô thỉ tới vô chung. Ngài đã giáng sinh, từng giờ từng phút trong đời sống của muôn loài. Lúc trẻ cho tới lúc già, lúc khổ cũng như vui, khi trầm luân hay lúc giải thoát, Đức Phật luôn luôn ở cạnh chúng ta và gần chúng ta hơn tất cả mọi người, mọi vật. Những lúc lầm lạcvô minh, chúng ta thấy Ngài nhìn chúng ta bằng cặp mắt thương xótchúng ta cảm thấy xấu hổ, quỳ xuống mà sám hối “Lạy Phật, con đã lầm lỗi theo gót Ma Vương Ác Quỷ gây nhiều tội ác, con xin thành tâm hối cải, bỏ ác làm lành, quày đầu trở lại với Ngài, với sự sáng suốt và giác ngộ”. Lúc đó, Đức Phật mỉm cười, hào quang chiếu sáng, từ bi dơ tay xoa đảnh đầu đứa con biết trở về đường chánh. Những khi làm được điều thiện, chúng ta cũng thấy Phật mỉm cười khuyến khích: “Con hãy tiếp tục làm như vậy, nhưng phải xa lìa chấp tướng nhân ngã, đừng thấy có mình làm thiện, có việc làm thiện, có người được hưởng điều thiện, nên xả bỏ tất cả để được tất cả”.

Chúng ta thấy Phật hiện ra, nghe Phật dạy bảo trong mọi trường hợp, từng giây từng phút, đó không phải là tưởng tượng, là mê tín, mà chính là chúng ta đã cảm thông với Phật. Hình tướng của Ngài là Vô Tướng, âm thanh của Ngài là Vô Thanh, chỉ những cặp mắt đã sáng suốt, đôi tai đã thanh tịnh, mới thấy được Chân Tướng, mới nghe được Diệu Âm. Hình của Ngài lớn như núi Tu Di nhưng hiển hiện trọn vẹn trong lòng hạt cải, tiếng của Ngài to như tiếng gầm của biển cả (Hải Triều Âm) nhưng luôn luôn dịu dàng văng vẳng bên tai chúng sinh; tiếc thay, chúng sinh có mắt cũng như mù, có tai cũng như điếc, không thấy, không nghe.

Tiếng của Phật hay tiếng của lương tâm từ chỗ sâu thẳm cất lên át mọi thứ tiếng ở đời, luôn luôn trách mắng khi chúng ta lầm lỗi, thường xuyên khen ngợi lúc chúng ta làm lành, dù bịt tai chúng ta vẫn nghe thấy, đó là tiếng của cõi lòng, tiếng của Chân Tâm, Tiếng Vô Thanh (la Voix du Silence). Người con Phật phải y theo tiếng đó mà tu hành thì vô minh sẽ hết, chân lý sẽ đạt, nhưng thử hỏi số người đó được là bao? Con người trần thế mải nghe theo tiếng của thất tình lục dục, cũng có lúc chợt nghe tiếng Phật nổi lên, nhưng lại giả điếc để giòng đời lôi cuốn nhận chìm trong bể khổ, mặc cho tiếng Phật trở thành tiếng kêu trong sa mạc.

Hình bóng của Phật cũng vậy: chúng ta thường thấy hàng ngày mà không nhận ra. Một người lính chữa lửa leo lên lầu một nhà đang bị cháy để cứu một bà già và vài trẻ thơ không lối thoát sắp bị lửa thiêu; một khách bộ hành nhảy xuống nước để vớt một người mù không may rớt xuống sông; một nông phu chân lấm tay bùn thấy cây cầu khỉ bị lung lay, ván chốt mục nát, vội tìm gỗ để thay, đóng lại những chốt bị hỏng; những sinh viên và học sinh phơi mình dưới nắng mưa cất nhà cho đồng bào bị nạn chiến tranh; người y sĩ lao mình vào lửa đạn để băng bó vết thương cho những người đang quằn quại trong vũng máu; những hình ảnh đẹp đẽ đầy vị tha kể sao cho hết đã xuất hiện thường ngày trước mắt chúng ta mà ít ai biết rằng đó chính là hình bóng Phật, hình bóng của Từ Bi Hỷ Xả, của lòng thương. Ai có cặp mắt sáng suốt sẽ thấy Phật ở khắp mọi nơi, còn người u mê thì dù Phật có hiện ra cũng không thấy. Đáng thương thay cho Gagarine, phi hành gia đầu tiên của nhân loại đã bay trong không gian, khi anh ta nói với giọng diễu cợt: “Tôi đã bay nhiều vòng trong không gian mà không thấy Thượng Đế đâu cả?”; cũng như câu chuyện một người Âu đi săn bị lạc trong rừng thẳm Phi Châu, hết lòng cầu khẩn Thượng Đế giúp anh thấy đường về; trong khi nguy cấp, bóng chiều đã xế, tiếng hổ báo gầm vang, anh ta chợt gặp một người mọi dẫn lối ra khỏi khu rừng; thoát chết, anh ta cười rỡn kể chuyện lại cho bạn bè và kết luận: “Tôi cầu nguyện Thượng Đế mà chỉ thấy một anh mọi đen”.

Những người như Gagarine và gã đi săn thật đáng thương vì họ quá ngu muội không hiểu rằng Thượng Đế (hay Phật) đâu có phải là một con người vật chất bằng xương thịt ngồi mãi trên cao, cứ bay lên là thấy; Ngài đã thị hiện trong lốt người mọi đen để cứu gã đi săn mà hắn nào có biết. Muốn cho những người đó tin là có Thượng Đế, có Phật, thì phải có một Đấng Tối Cao nào đó đội mũ cánh chuồn, râu tóc bạc phơ, mặc áo thụng, đi hia đen, bay trong không gian như máy bay, hóa hiện 72 phép thần thông như Tề Thiên Đại Thánh, ban phước giáng họa ... có như vậy họ mới sợ mới tin! Họ đâu có hiểu rằng Thượng Đế cũng như Phật là Chân lý, là Từ Bi Hỷ Xả, là Bác Ái Lợi Tha, là Giác Ngộ Giải Thoát. Ở người nào, ở chỗ nào những đức tánh đó đều có thể biểu hiện và ở đâu có sự biểu hiện đó là có Thượng Đế, có Phật. Ít người chịu tìm, chịu nhận Niết Bàn tại thế mà chỉ đi tìm Niết Bàn ở trên chín từng mây.

Phật là Pháp, là Chân lý, mà Chân lý thì ở khắp cùng, trường tồn bất biến; chỗ nào có Pháp là có Phật, người nào đắc Pháp thì người đó là Phật, mà người nào chưa đắc Pháp thì cũng là Phật, nhưng đó là Như Lai tại triền, còn bị xiềng xích thế gian ràng buộc; khi cởi bỏ được xiềng xích phiền não thì là Như Lai xuất triền, được tự tại vô ngại. Ai cũng có Phật tánh, ai cũng có khả năng thành Phật, và hàng ngày có biết bao nhiêu vị Phật ra đời mà ít người nhận biết.

Lạy Phật! Con không dám đứng trong lý thuyết mà bàn suông, con muốn quay về thực tại để chiêm nghiệm, để hành động, để tự cứu và cứu người khác. Trong thế giới đầy hận thù và khổ đau, chúng ta phải làm gì? Trước hết, chúng ta hãy bình tỉnh và sáng suốtphân tách sự vật một cách khách quan: Chúng ta là ai? Vai trò của chúng ta là thế nào? Chúng ta đã làm gì cho mình và cho người khác? Nếu suy gẫm kỹ càng thì thấy chúng tahiện thân của tham sân sichấp ngã, chúng ta đã đóng những vai trò của những kẻ giả đạo đức luôn miệng nói Từ Bi, Bác Ái, Hòa Bình, Tự Do, mà hành động thì trái hẳn; chúng ta luôn luôn ích kỷ, làm việc gì cũng vì mình, vì gia đình mình, vì quốc gia mình, mà không hề nghĩ đến người khác, gia đình khác, quốc gia khác.

Sự chấp ngãngã sở đã đưa đến vực thẳm của sợ hãiyếu hèn. Chúng ta sợ chết, sợ mất của, sợ tù tội, sợ đàn áp, sợ tất cả những gì làm thiệt hại đến bản thân và đến những cái gì của ta vì vậy chúng ta yếu hèn cúi đầu thụ động chấp nhận sự sai khiến của Ma Vương hiện ra dưới hình thức của si mê, dục vọng, ác độc. Chúng ta học vì sợ dốt, sợ thi trượt chứ không biết học để làm người; chúng ta tu vì sợ tội, sợ đọa địa ngục, mong được phước lên Thiên Đàng, chứ không hiểu tu là sửa, là quên mình lợi người, hướng về giác ngộgiải thoát. Tất cả mọi việc làm của chúng ta đều do sự sợ hãi chứ không vì một mục đích cao cả nào. Rồi khi tiếng nói của lương tâm, của Chân lý, khi Diệu Âm từ đáy lòng nổi lên thì chúng ta nhắm mắt bịt tai, tìm đủ mọi lý do xảo ngôn để bào chữa những hành động sai lầm của mình; đôi khi không chịu nổi sự gầm thét của Hải Triều Âm, chúng ta bỏ trốn vào tháp ngà hoặc lên núi xuống biển ẩn mình; như vậy đâu có giải quyết được vấn đề.

Chúng ta cần phải học hỏi suy tầm để có một số vốn liếng làm phương tiện khởi hành, rồi dấn thân vào cuộc đời, làm mọi việc phải làm để tìm ra Chân lý đang ẩn mình đâu đây, trong không gian, vĩnh cửu với thời gian, ở đâu cũng có, lúc nào cũng hiện, nhưng khó thấy khó gặp. Trước hết phải diệt trừ sự sợ hãi bằng cách giữ tâm hồn thản nhiên trước mọi hoàn cảnh, tâm trí kiên cố như núi Tu Di, lòng phẳng lặng như mặt hồ không gợn sóng, đó là đức tính Vô ÚyĐức Phật đã nhiều lần căn dặn. Thân ta là do ngũ uẩn hợp thành, đủ duyên thì hợp hết duyên thì tan, mọi sự mọi vật đều do luật vô thường chi phối, nay còn mai mất có gì là quý, là trọng đâu mà phải lao tâm khổ trí để bảo vệ. Vô Thường, Khổ, Vô ngã, đó là Tam Pháp Ấn căn bản của giáo lý nhà Phật. Biết ba điều này, chúng ta sẽ tìm ra lối sống hợp thời, hợp cơ và trung đạo.

Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch, được như vậy tâm an định không còn sợ hãi, được pháp Vô Úy của Phật, tâm hồn thản nhiên trước mọi hoàn cảnh mọi sự vật và tâm trí mở ra đón Lý lẽ diệu huyền. Nụ cười đầy hỷ xả an lạc của Đức Di Lặc tượng trưng cho lòng Vô Úy mà Ngài đã thực hiện khi Ngài hóa thân làm Bất Không Thành Tựu Như Lai (Amoghasiddhi) tay bắt ấn Vô Úy (Abhaya Mudra). Chỗ nào còn sợ hãi đau khổ, còn chiến tranh hận thù thì Ngài đến với Vô Úy Ấn sáng ngời trên tay, với nụ cười hiền hòa an lạc, để an ủi dạy bảo chúng sinh con đường thoát khổ. Chúng ta có pháp Vô Úy thì lòng không sợ hãi, tâm thản nhiên trước mọi biến chuyển vô thường, bình tĩnh đón nhận kết quả của lý vô ngã, khổ vui không còn làm náo động tâm hồn, nhìn cuộc đời như tuồng ảo hóa mộng huyễn; chúng ta là tảng đá lớn mà ngọn gió đời không lay chuyển được. Chúng ta nhìn thẳng vào sợ hãi và tự nhủ: “Không có gì hại ta được”, vì cái ta không thật có (Vô Ngã). Chỉ khi nào ta nhận là có ta, coi trọng và đề cao bản ngã, đem sự sợ hãi vào nuôi dưỡng trong cái ta giả tạo đó khiến cho sự sợ hãi mới xâm chiếm và làm chủ tâm hồn ta được.

Nhưng chúng ta không phải là gỗ đá, không cảm xúc trước nỗi thương đau của chúng sinh, ta phải chia sẻ nỗi đau khổ của đồng loại bằng cách sống hòa mình với chúng sinhthực hành lục độ vạn hạnh để cúu giúp muôn loài.

Lạy Phật!

Hôm nay chúng con mừng lễ Khánh Đản của Ngài với lòng luôn luôn ghi nhớ sự hiện diện của Ngài thường xuyên ở khắp nơi, mong cho ánh sáng của Ngài làm tan hắc ám vô minh, phá vỡ mọi sợ hãihận thù, đem lại an vui và hòa bình cho nhân loại. Đêm tối sắp hết, sao Mai lấp lánh báo hiệu rạng đông sắp tới, một ngày sắp bắt đầu; tuy biết một ngày chỉ là một khoảng ngắn ngủi trong thời gian vô tận, nhưng ngày Rằm tháng Tư đánh dấu một bước tiến chắc chắn của nhân loại hướng về Giác NgộGiải Thoát.

Một vị Phật đã thành, nhiều vị Phật sắp thành.

(đăng trong tạp chí Từ Quang,

số 187-188, tháng 3 & 4 năm 1968)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25721)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37927)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19656)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18759)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14324)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20169)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9553)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14415)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35652)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10705)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19778)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23253)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13410)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10794)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20301)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10658)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 10015)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14924)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17734)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17655)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13235)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31233)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25851)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 14018)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17565)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 11027)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12339)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10504)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12324)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11818)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9663)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12396)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9239)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8528)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 10001)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9790)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12082)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14512)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9929)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11243)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8344)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 11016)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14149)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9953)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15268)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13135)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23142)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 24097)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12633)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15484)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17852)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15134)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16607)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16171)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17734)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11646)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11664)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17908)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10844)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10551)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11380)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12126)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11090)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36474)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 9000)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9728)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34785)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17332)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10268)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10513)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12237)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13698)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14721)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9198)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24921)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11691)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10365)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15999)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15634)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14584)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13056)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12498)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14624)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18406)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9609)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18577)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18672)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19096)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18923)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11862)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13382)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 48030)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11097)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13600)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13097)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11129)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12613)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11076)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31849)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11731)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant