Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kho tàng các giáo huấn siêu việt

25 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 21601)
Kho tàng các giáo huấn siêu việt

KHO TÀNG CÁC GIÁO HUẤN SIÊU VIỆT
Tác giả: Đại sư Orgyen Kusum Lingpa, Liên Hoa dịch -
Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
NXB: Tôn giáo

blank

LỜI NÓI ĐẦU

Hiện thân vinh quang sự toàn thiện nguyên thủy của hai tích tập và sự thuần tịnh bổn nguyên của hai che chướng được biểu lộ như trạng thái toàn thiện nguyên sơ, Đức Phật nguyên thủy Samantabhadra (Phổ Hiền). Sự xuất hiện của quang minh chói lọi và lòng bi mẫn không chướng ngại này được phô diễn như các hiện thân giác ngộ lẫn trí tuệ nguyên thủy. Nó hiển lộ như vô số cảnh giới thanh tịnh vượt khỏi những giới hạn của thực tại. Trong sắp xếp hoàn hảo này của sự bất nhị, biểu thị của bậc bảo hộ nguyên sơ là sự hiện diện tự nhiên toàn khắp vai trò của trí tuệ nguyên thủy và sự phô diễn không thể nghĩ bàn của hoạt động giác ngộ kỳ diệu bao gồm toàn thể thực tại.

Đức Shakya Thupa (Đức Phật Thích ca Mâu ni), vị dẫn dắt thứ tư của tất cả chúng sinh đã xuất hiện trong cõi này như suối nguồn của Phật Pháp. Vì hạnh phúc của tất cả chúng sinh cũng như để điều phục những nhu cầu và khuynh hướng của họ bắt nguồn từ nhân và quả, thừa nguyên nhân với những đặc tính đã được giới thiệu. Vì lợi lạc của những người may mắn với căn cơ nhạy bén có khuynh hướng theo đuổi con đường của kết quả và để dẫn dắt họ tới những trạng thái tái sinh cao hơn và tới sự giải thoát thực sự, Kim Cương thừa (Mật thừa) đã được giới thiệu.

Dần dần, những giáo pháp này tìm ra con đường của chúng để đi vào xứ sở Tây Tạng, vốn đang bị che phủ bởi một màn vô minh. Như mặt trời, tám cỗ xe (thừa) lớn của các dòng truyền thừa thực hành Pháp đã xua tan bóng tối. Thời kỳ này được gọi là sự truyền bá ban đầu truyền thống Nyingma. Các giáo lý trình bày phương pháp truyền thụ trực tiếp của Đức Phật và các luận giảng vĩ đại viết về các giáo lý này được làm sáng tỏ trong thế gian qua những hiển lộ trong thân tướng con người của ba đấng Bồ Tát bảo trợ vĩ đại xuất hiện là Khenpo Shantirakshita, Loppon Padmasambhava, và Vua Pháp Trisong Deutsen.

Được dẫn dắt bởi ba bậc khai sáng lẫy lừng này, một trăm lẻ tám dịch giả và học giả trải qua những gian khổ để có thể đảm đương đầy đủ trách nhiệm truyền bá toàn hảo và trọn vẹn các giáo lý về sutra (Kinh điển) và tantra (Mật điển) trong xứ Tây Tạng. Nhờ những nỗ lựcthiện tâm vĩ đại của các ngài, toàn thể xứ sở này đã được gia hộ bằng những Pháp ngữ xác thực. Sự truyền bá của trường phái Cựu dịch thuộc Mật thừa, bao gồm các dòng truyền thừa như đại dương của sutra và tantra, đã tạo nên nền tảng chưa từng có của giáo lý viên mãn và toàn hảo ở Tây Tạng, cùng với tất cả các thừa được trình bày trong sự toàn vẹn của chúng. Các thừa này gồm có Thanh Văn thừa, Độc giác thừa (Duyên giác thừa) và Bồ Tát thừa của sự tiếp cận bằng nguyên nhân; ba thừa tantra ngoại gồm Kriya, Upa và Yoga tantra; và ba thừa nội gồm Mahayoga của giai đoạn phát triển, Anu yoga của giai đoạn thành tựu và giai đoạn giáo huấn trực chỉ Đại Viên mãn của Ati yoga. Như vậy, tất cả chín thừa của đạo Phật đã được củng cố vững chắcTây Tạng.

Trong phạm vi của ba trường phái tantra nội, hai dòng truyền thừa gồm kama (dòng truyền thừa truyền dạy) và terma (dòng truyền thừa khám phá) gồm như sau: Dòng kama nắm giữ dòng truyền tâm của các Đấng Chiến Thắng, dòng truyền thừa chỉ bày bằng biểu tượng của các vị vidyadhara (Trì minh vương) và dòng khẩu truyền của những bậc Thầy bình thường. Trong ba dòng truyền thống terma vĩ đại, dòng thứ nhất là dòng kế thừa tâm linh đã được tiên tri; dòng thứ hai là dòng được truyền pháp bởi sự khát khao giác ngộ; và dòng thứ ba là dấu ấn giao phó của các dakini.

Ba dòng sau nổi bật với truyền thống sâu xa của sự khám phá terma, đem theo cùng với nó những sự gia hộ cao cả không bị ô nhiễm. Nhờ lòng từ bi của Đức Padmasambhava, hiện thân của tất cả chư Phật, và nhờ Đức Yeshe Tsogyal, vị phối ngẫu của ngài về thân, ngữ và tâm, là bậc siêu việt trong tất cả các vị phối ngẫu của phạm vi năm bộ Phật, và cũng nhờ các vị vidyadhara thành tựu cao cả, mà dòng terma đã được củng cốTây Tạng, trước hết là nhằm mục đích hướng đến chúng sinh trong tương lai.

Qua dòng truyền thừa này, một trăm lẻ tám vị terton vĩ đại và thứ yếu hóa thânkhám phá các terma phù hợp với những nhu cầu của chúng sinh, khiến cho giáo lý chói ngời khắp mọi nơi như mặt trời mọc.

Theo các tiên tri của Tertom Nyima Drakpa thì: “Ở phía bắc xứ Ahchag, vào năm Tuất, một bậc Đạo Sư sẽ sinh ra từ giai cấp các ngakpa (hành giả cư sĩ Mật thừa), là tái sinh của ngài Lhalung Palgyi Dorje, có tên là Orgyen. Lỗ rốn của ngài sẽ được đánh dấu bởi một đám nốt ruồi. Vào năm con Mộc Thìn, trong xứ Ahchag, là một terton của chín mạn-đà-la về Bổn tôn, Ngài sẽ đem niềm vui lớn lao đến cho xứ tuyết Tây Tạng và sẽ giải trừ nỗi đau khổ trong phương bắc xứ Ahchag.”

Các tiên tri khác, cũng như các tiên đoán và tuyên bố đã được đưa ra bởi các Đạo sư lừng danh như Dzogchen Migyur Namkha’i Dorje, vị Dodrubchen tiền nhiệm, Ahphong Terton, Uza Khandro và nhiều vị khác.

Phù hợp với tất cả các tiên tri này, xuất phát từ sáu dòng họ lớn ở Tây Tạng, trong một dòng họ tên là Ahpho – là giai cấp lớn nhất trong mười tám giai cấp – một đứa bé được sinh ra là con của yogin Lhundrub Gonpo. Đây chính là một Đạo sư hóa thân cao cấp và sự tái sinh của ông đã được các bậc Thầy vĩ đại tiên đoán. Tên mẹ em bé là Padma Tso. Là hóa thân của một trong hai mươi lăm đệ tử thân thiết của Đức Padmasambhava, em là một lưu xuất của Đức Vajrapani (Kim Cương Thủ), và hóa thân của ngài Lhalung Palgyi Dorje. Về sau, em bé này được biết đến với danh hiệu là Padma Tumdrag Duddul Dorje Rolpa Tsal Orgyen Kusum Lingpa. Ngài đã học tập dưới chân của hơn một trăm bậc Thầy tâm linh đức hạnh, hấp thụ sự truyền dạy như đại dương của các dòng truyền thừa sutra, tantra, kama và terma, phát triển ba cấp độ trí tuệ.

Phù hợp với các tiên tri được đưa ra bởi các bậc Đạo sư vĩ đại trong quá khứ, Ngài Tumdrag Dorje bắt đầu khám phá các terma đất, terma tâm và các terma từ thị kiến thanh tịnh để đáp ứng các nhu cầu và khả năng của chúng sinh, phù hợp với các mức độ tiếp thu của họ: cao cấp, bình thường và phổ quát.

Trong tháng ba năm 1994, ngài đã du hành tới lục địa phía bắc mà tên của nó bắt đầu với âm thanh bản tánh vô sinh của chân lý: Ah-America. Đến nơi, ngài bắt đầu quay bánh xe Tối thượng thừa, ati yoga, vì lợi lạc của những người thọ nhận may mắn. Trong những phần của thừa ati yoga: phần tâm, phần không gian, và phần giáo huấn trực chỉ bí mật, ngài đã dạy tinh túy của phần giáo huấn trực chỉ.

Trong hai cấp độ thuộc phần giáo huấn trực chỉ, cấp độ thứ nhất, cái thấy về trekchod, sự cắt đứt một cách vững chắc, cho phép ta đi tới một kết luận dứt khoát về cái thấy sự thuần tịnh nguyên sơ, tâm của Pháp thân, hiện thân của thực tại tuyệt đối. Cấp độ thứ hai, con đường togal, vượt qua với sự hiện diện tự nhiên, cho phép ta chứng ngộ tịnh quang, tâm hiện diện tự nhiên của Báo thân, hiện thân của hỉ lạc.

Terton Orgyen Kusum Lingpa đã ban các giáo lý về tinh túy của trekchod, được rút ra từ các giáo huấn căn bản quý báu không thể nghĩ bàn về giáo lý cốt tuỷ để thành tựu trekchod. Trước tiên, các giáo huấn này được giới thiệu với thế gian bởi sự hóa thân làm người của Đức Vajrasattva (Kim Cương Tát Đỏa) tuyệt hảo. Vị Phật này đã xuất hiện như vị vua của tất cả các vidyadhara: Vidyadhara Garab Dorje vô song.

Garab Dorje đã ban các giáo huấn này như di chúc cuối cùng cho đệ tử chính của ngài là Jāmpl Shenyen (Manjushrimitra). Nhờ lòng từ bi của ngài, các giáo huấn dành cho những người thọ nhận may mắntri giác nhạy bén tốt nhất gọi là “Ba lời đánh vào điểm trọng yếu”, là những giáo huấn trực chỉ tự nhiên. Nếu chúng được hoàn toàn nhập tâm, thì chúng là, như có nói trong giáo lý cao cả của Shri Gyalpo, “tâm yếu tràn đầy ý nghĩa sâu xa. Là các giáo huấn tinh túy, đừng bao giờ xa lìa điểm then chốt của nghĩa. Đừng bao giờ tự cho phép mình xao nhãng những giáo huấn cốt tủy này.” Phù hợp với lời dạy này, tất các các đệ tử may mắn đã nhận lãnh những giáo huấn trực chỉ này, thay vì quảng cáo chúng thì nên khắc ghi chúng vào tâm khảm qua sự áp dụng thực tiễn.

Hơn nữa, đối với những ai có căn cơ trung bình, ngài Orgyen Kusum Lingpa đã ban cho các giáo huấn cốt tủy để đạt được giải thoát trong bardo. Như đã được nói rõ trong Dra Thal Gyur: “Những phân biệt tự nhiên về các thời kỳ chuyển tiếp gọi là các bardo có bốn chi: Bardo Đời Này, Bardo Vào Lúc Chết, Bardo Pháp tánh và Bardo Trở thành”.

Bardo Trạng thái Mộng và Bardo Thiền định gắn liền với Bardo Đời Này. Nếu ta phải định rõ sự khác biệt của sáu loại thì Bardo Trạng thái Mộng và Bardo Thiền định sẽ được xem như là bardo thứ năm và thứ sáu. Trong cả hai trường hợp, thời kỳ gọi là Bardo Đời Này là thời kỳ từ lúc sinh ra tới lúc chết. Trong khoảng thời gian đó ta phải hoàn thiện ba cấp độ của trí tuệ để cắt đứt mọi dấu vết hoài nghi.

Các giáo huấn trực chỉ này được áp dụng theo cách giống như con chim sẻ đi vào tổ, một hành động được thực hiện không chút ngại ngần nào. Nhờ sự thọ nhận các giáo huấn này và việc thực hành chúng một cách phù hợp, sự giải thoát có thể xảy ra trong Bardo Đời Này.

Các giáo lý về Bardo Trạng thái Mộng được gọi là “lấy giác tánh tịnh quang làm con đường”, là các giáo huấn trực chỉ rằng việc tự giải thoát mê lầm giống như một ngọn nến được đốt lên trong bóng tối.

Bardo Thiền định được gọi là “sự làm sáng tỏ về điều không xác thực”, giống như việc nhận lãnh mệnh lệnh được đóng dấu ấn của vua, hay giống như một đứa con lạc loài gặp được mẹ.

Các giáo lý về Bardo Vào Lúc Chết được gọi là các giáo huấn trực chỉ giống như sự hoàn toàn tinh lọc vàng hay sự chú tâm theo cách như một bé gái xinh xắn nhìn ngắm bóng mình trong gương.

Bardo Pháp tánhkinh nghiệm thành tựu xác tín vào bản tánh của những hình tượng tự-xuất hiện, giống như đứa con nhảy vào lòng mẹ một cách thoải mái.

Các giáo huấn trực chỉ về Bardo Trở thành thì tương tự như dòng nước được định hướng vào trong một ống dẫn nước tưới.

Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân, vì thế không nên nghi ngờ lòng từ bi vĩ đại của Đạo Sư, cội gốc của công đức này thật vĩ đại và không thể phủ nhận. Nhờ công lực của công đức này, cầu mong có được sự lợi lạctốt lành trong các cõi của thế giới.

Cuối cùng, tôi dâng lời cầu nguyện tha thiết rằng, những người có đức tin vững chắc có thể chạm mặt với các sự tự-xuất hiện như sự phô diễn của các Bổn tôn từ hòa và phẫn nộ, quả cầu kim cương của thực tại tuyệt dối, và trong đó một mạn-đà-la vô hạn được an trụ trong trạng thái tự do tuyệt đối.

Theo thỉnh cầu của hành giả Sangye Khandro và những người khác, bài tựa này được tôi, Thinley Norbu, viết ra đúng vào lúc tôi đang chuẩn bị khởi hành từ phía bắc Châu Mỹ đến xứ sở linh thiêng phía đông của rặng núi Himalaya, suối nguồn của giáo lý này và là nơi sinh của người thừa kế tất cả các Đấng Chiến thắng, đấng đã thành tựu tất cả những gì ý nghĩa: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni.

ĐỀ TỰA CỦA NGƯỜI BIÊN TẬP BẢN ANH NGỮ

Hai cuộc hội thảo hình thành quyển sách này đã được Đức Orgyen Kusum Lingpa ban cho trong chuyến thăm viếng Hoa Kỳ lần đầu tiên của Ngài vào mùa xuân năm 1994. Các giáo lý Sáu bardo được thuyết giảng ở Tashi Choling tại Asland, bang Oregon và các giáo lý về Ba Lời Đánh vào Điểm Trọng Yếu được thuyết giảng ở Los Angeles, bang California.

Nếu không nhờ sự thỉnh mời tốt lành được gửi đi bởi Chagdud Rinpoche và Gyatrul Rinpoche thì chúng tôi sẽ không có cơ hội được gặp His Holiness Orgyen Kusum Lingpa. Vì thế, chúng tôi mãi mãi nhớ ơn hai ngài. Sangye Khandro và Richard Barron là những dịch giả rộng lượng và không mệt mỏi, đã có đủ dũng khí để nhảy thẳng vào một ngôn ngữ rất khó khăn. Nhiều người khác đã tham gia chuẩn bị để chuyến viếng thăm Hoa Kỳ lần đầu tiên của His Holiness Orgyen Kusum Lingpa có thể thực hiện, và mặc dầu chúng tôi không thể bắt đầu cảm ơn mọi người về lòng tốt của họ, chúng tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn đến Lingtrul Rinpoche, Tulku Thubten Lodro, Lama Chonam, Sondra Bennett, Leonard Cohen, Kay Henry, Richard Rutowski, Oliver Stone, Richard Wechsler, cũng như các tăng đoàn của Yeshe Nyingpo và Tổ chức Chagdud Gonpa.

Đối với quyển sách này, chúng tôi muốn cảm ơn Sangye Khandro trong việc duyệt lại các băng ghi âm về Sáu bardo cho chính xác và Tulku Thubten Lodro đã mở lòng từ bi xem lại những bài giảng về Ba Lời Đánh vào Điểm Trọng yếu. Thêm vào đó, Erik Drew và Richard Barron đã ngồi nhiều giờ để hiệu đínhsửa chữa, kiên nhẫn phiên dịch những câu hỏi của chúng tôi tới Orgyen Kusum Lingpa và những hiệu đính của ngài cho chúng tôi.

Cuối cùng, chúng tôi cảm kích sâu xa những nỗ lực của Richard Barron và Jeannie McSloy trong giai đoạn sau cùng của việc biên tập để xem xét lại những chỗ khó hiểu và giúp làm cho chúng rõ ràng hơn.

Đặc biệt nhất, chúng tôi muốn cảm ơn Đức Orgyen Kusum Lingpa, bậc đã dâng hiến cuộc đời mình để làm cho những giáo huấn quý báu như thế này có thể có mặt ở cả phương Tây và phương Đông.

Nhờ công đức này cầu mong tất cả đạt được toàn giác
Cầu mong công đức này đánh tan kẻ địch thù tà hạnh
Từ cơn phong ba của sinh, già, bệnh, chết
Từ đại dương của sinh tử, cầu mong con giải thoát tất cả chúng sinh.
Kelley Lynch và Douglas Penick
Các Giáo huấn Tinh tuý về
Giai đoạn Thành tựu trong bardo
Soi sáng Bóng tối của Tri giác mê lầm
được gọi là:
Kho tàng các Giáo huấn Siêu việt
về Tri giác của Trí tuệ Nguyên thủy
Con quỳ lạy và quy y tất cả những bậc dẫn dắt tâm linh vô song, là những bậc sở hữu lòng đại bi vô niệm, mãi mãi!

Trong sự bất khả phân của tánh Khônggiác tánh thoát khỏi sự che chướng, là ấn hiện thân sự chói lọi sâu thẳm của năm trạng thái viên mãn tự nhiên. Từ những trạng thái này, hàng triệu sự xuất hiện huyễn hóa muôn hình vạn trạng biểu lộ như một sự tán thán hỉ lạc. Với sự kính ngưỡng, con cúi đầu trước pháp giới sự phô diễn Không - Giác của các Bổn tôn từ hòa và phẫn nộ cùng quyến thuộc của các ngài.

Bởi tập quán sai lầm trong việc xem các ý niệm và những sự xuất hiện (hình tướng) là thật có, những vũ sư nam và nữ của ấn không thực thể, biến đổi liên tục như những bong bóng nước xuất hiện.

Nhằm chứng ngộ tánh nhất như của sự phô diễn đó nên những giáo huấn siêu việt này được trình bày.

Tulku Hung-Kar Dorje

Source: rongmotamhon

LỜI NÓI ĐẦU

Hiện thân vinh quang sự toàn thiện nguyên thủy của hai tích tập và sự thuần tịnh bổn nguyên của hai che chướng được biểu lộ như trạng thái toàn thiện nguyên sơ, Đức Phật nguyên thủy Samantabhadra (Phổ Hiền). Sự xuất hiện của quang minh chói lọi và lòng bi mẫn không chướng ngại này được phô diễn như các hiện thân giác ngộ lẫn trí tuệ nguyên thủy. Nó hiển lộ như vô số cảnh giới thanh tịnh vượt khỏi những giới hạn của thực tại. Trong sắp xếp hoàn hảo này của sự bất nhị, biểu thị của bậc bảo hộ nguyên sơ là sự hiện diện tự nhiên toàn khắp vai trò của trí tuệ nguyên thủy và sự phô diễn không thể nghĩ bàn của hoạt động giác ngộ kỳ diệu bao gồm toàn thể thực tại.

Đức Shakya Thupa (Đức Phật Thích ca Mâu ni), vị dẫn dắt thứ tư của tất cả chúng sinh đã xuất hiện trong cõi này như suối nguồn của Phật Pháp. Vì hạnh phúc của tất cả chúng sinh cũng như để điều phục những nhu cầu và khuynh hướng của họ bắt nguồn từ nhân và quả, thừa nguyên nhân với những đặc tính đã được giới thiệu. Vì lợi lạc của những người may mắn với căn cơ nhạy bén có khuynh hướng theo đuổi con đường của kết quả và để dẫn dắt họ tới những trạng thái tái sinh cao hơn và tới sự giải thoát thực sự, Kim Cương thừa (Mật thừa) đã được giới thiệu.

Dần dần, những giáo pháp này tìm ra con đường của chúng để đi vào xứ sở Tây Tạng, vốn đang bị che phủ bởi một màn vô minh. Như mặt trời, tám cỗ xe (thừa) lớn của các dòng truyền thừa thực hành Pháp đã xua tan bóng tối. Thời kỳ này được gọi là sự truyền bá ban đầu truyền thống Nyingma. Các giáo lý trình bày phương pháp truyền thụ trực tiếp của Đức Phật và các luận giảng vĩ đại viết về các giáo lý này được làm sáng tỏ trong thế gian qua những hiển lộ trong thân tướng con người của ba đấng Bồ Tát bảo trợ vĩ đại xuất hiện là Khenpo Shantirakshita, Loppon Padmasambhava, và Vua Pháp Trisong Deutsen.

Được dẫn dắt bởi ba bậc khai sáng lẫy lừng này, một trăm lẻ tám dịch giả và học giả trải qua những gian khổ để có thể đảm đương đầy đủ trách nhiệm truyền bá toàn hảo và trọn vẹn các giáo lý về sutra (Kinh điển) và tantra (Mật điển) trong xứ Tây Tạng. Nhờ những nỗ lựcthiện tâm vĩ đại của các ngài, toàn thể xứ sở này đã được gia hộ bằng những Pháp ngữ xác thực. Sự truyền bá của trường phái Cựu dịch thuộc Mật thừa, bao gồm các dòng truyền thừa như đại dương của sutra và tantra, đã tạo nên nền tảng chưa từng có của giáo lý viên mãn và toàn hảo ở Tây Tạng, cùng với tất cả các thừa được trình bày trong sự toàn vẹn của chúng. Các thừa này gồm có Thanh Văn thừa, Độc giác thừa (Duyên giác thừa) và Bồ Tát thừa của sự tiếp cận bằng nguyên nhân; ba thừa tantra ngoại gồm Kriya, Upa và Yoga tantra; và ba thừa nội gồm Mahayoga của giai đoạn phát triển, Anu yoga của giai đoạn thành tựu và giai đoạn giáo huấn trực chỉ Đại Viên mãn của Ati yoga. Như vậy, tất cả chín thừa của đạo Phật đã được củng cố vững chắcTây Tạng.

Trong phạm vi của ba trường phái tantra nội, hai dòng truyền thừa gồm kama (dòng truyền thừa truyền dạy) và terma (dòng truyền thừa khám phá) gồm như sau: Dòng kama nắm giữ dòng truyền tâm của các Đấng Chiến Thắng, dòng truyền thừa chỉ bày bằng biểu tượng của các vị vidyadhara (Trì minh vương) và dòng khẩu truyền của những bậc Thầy bình thường. Trong ba dòng truyền thống terma vĩ đại, dòng thứ nhất là dòng kế thừa tâm linh đã được tiên tri; dòng thứ hai là dòng được truyền pháp bởi sự khát khao giác ngộ; và dòng thứ ba là dấu ấn giao phó của các dakini.

Ba dòng sau nổi bật với truyền thống sâu xa của sự khám phá terma, đem theo cùng với nó những sự gia hộ cao cả không bị ô nhiễm. Nhờ lòng từ bi của Đức Padmasambhava, hiện thân của tất cả chư Phật, và nhờ Đức Yeshe Tsogyal, vị phối ngẫu của ngài về thân, ngữ và tâm, là bậc siêu việt trong tất cả các vị phối ngẫu của phạm vi năm bộ Phật, và cũng nhờ các vị vidyadhara thành tựu cao cả, mà dòng terma đã được củng cốTây Tạng, trước hết là nhằm mục đích hướng đến chúng sinh trong tương lai.

Qua dòng truyền thừa này, một trăm lẻ tám vị terton vĩ đại và thứ yếu hóa thânkhám phá các terma phù hợp với những nhu cầu của chúng sinh, khiến cho giáo lý chói ngời khắp mọi nơi như mặt trời mọc.

Theo các tiên tri của Tertom Nyima Drakpa thì: “Ở phía bắc xứ Ahchag, vào năm Tuất, một bậc Đạo Sư sẽ sinh ra từ giai cấp các ngakpa (hành giả cư sĩ Mật thừa), là tái sinh của ngài Lhalung Palgyi Dorje, có tên là Orgyen. Lỗ rốn của ngài sẽ được đánh dấu bởi một đám nốt ruồi. Vào năm con Mộc Thìn, trong xứ Ahchag, là một terton của chín mạn-đà-la về Bổn tôn, Ngài sẽ đem niềm vui lớn lao đến cho xứ tuyết Tây Tạng và sẽ giải trừ nỗi đau khổ trong phương bắc xứ Ahchag.”

Các tiên tri khác, cũng như các tiên đoán và tuyên bố đã được đưa ra bởi các Đạo sư lừng danh như Dzogchen Migyur Namkha’i Dorje, vị Dodrubchen tiền nhiệm, Ahphong Terton, Uza Khandro và nhiều vị khác.

Phù hợp với tất cả các tiên tri này, xuất phát từ sáu dòng họ lớn ở Tây Tạng, trong một dòng họ tên là Ahpho – là giai cấp lớn nhất trong mười tám giai cấp – một đứa bé được sinh ra là con của yogin Lhundrub Gonpo. Đây chính là một Đạo sư hóa thân cao cấp và sự tái sinh của ông đã được các bậc Thầy vĩ đại tiên đoán. Tên mẹ em bé là Padma Tso. Là hóa thân của một trong hai mươi lăm đệ tử thân thiết của Đức Padmasambhava, em là một lưu xuất của Đức Vajrapani (Kim Cương Thủ), và hóa thân của ngài Lhalung Palgyi Dorje. Về sau, em bé này được biết đến với danh hiệu là Padma Tumdrag Duddul Dorje Rolpa Tsal Orgyen Kusum Lingpa. Ngài đã học tập dưới chân của hơn một trăm bậc Thầy tâm linh đức hạnh, hấp thụ sự truyền dạy như đại dương của các dòng truyền thừa sutra, tantra, kama và terma, phát triển ba cấp độ trí tuệ.

Phù hợp với các tiên tri được đưa ra bởi các bậc Đạo sư vĩ đại trong quá khứ, Ngài Tumdrag Dorje bắt đầu khám phá các terma đất, terma tâm và các terma từ thị kiến thanh tịnh để đáp ứng các nhu cầu và khả năng của chúng sinh, phù hợp với các mức độ tiếp thu của họ: cao cấp, bình thường và phổ quát.

Trong tháng ba năm 1994, ngài đã du hành tới lục địa phía bắc mà tên của nó bắt đầu với âm thanh bản tánh vô sinh của chân lý: Ah-America. Đến nơi, ngài bắt đầu quay bánh xe Tối thượng thừa, ati yoga, vì lợi lạc của những người thọ nhận may mắn. Trong những phần của thừa ati yoga: phần tâm, phần không gian, và phần giáo huấn trực chỉ bí mật, ngài đã dạy tinh túy của phần giáo huấn trực chỉ.

Trong hai cấp độ thuộc phần giáo huấn trực chỉ, cấp độ thứ nhất, cái thấy về trekchod, sự cắt đứt một cách vững chắc, cho phép ta đi tới một kết luận dứt khoát về cái thấy sự thuần tịnh nguyên sơ, tâm của Pháp thân, hiện thân của thực tại tuyệt đối. Cấp độ thứ hai, con đường togal, vượt qua với sự hiện diện tự nhiên, cho phép ta chứng ngộ tịnh quang, tâm hiện diện tự nhiên của Báo thân, hiện thân của hỉ lạc.

Terton Orgyen Kusum Lingpa đã ban các giáo lý về tinh túy của trekchod, được rút ra từ các giáo huấn căn bản quý báu không thể nghĩ bàn về giáo lý cốt tuỷ để thành tựu trekchod. Trước tiên, các giáo huấn này được giới thiệu với thế gian bởi sự hóa thân làm người của Đức Vajrasattva (Kim Cương Tát Đỏa) tuyệt hảo. Vị Phật này đã xuất hiện như vị vua của tất cả các vidyadhara: Vidyadhara Garab Dorje vô song.

Garab Dorje đã ban các giáo huấn này như di chúc cuối cùng cho đệ tử chính của ngài là Jāmpl Shenyen (Manjushrimitra). Nhờ lòng từ bi của ngài, các giáo huấn dành cho những người thọ nhận may mắntri giác nhạy bén tốt nhất gọi là “Ba lời đánh vào điểm trọng yếu”, là những giáo huấn trực chỉ tự nhiên. Nếu chúng được hoàn toàn nhập tâm, thì chúng là, như có nói trong giáo lý cao cả của Shri Gyalpo, “tâm yếu tràn đầy ý nghĩa sâu xa. Là các giáo huấn tinh túy, đừng bao giờ xa lìa điểm then chốt của nghĩa. Đừng bao giờ tự cho phép mình xao nhãng những giáo huấn cốt tủy này.” Phù hợp với lời dạy này, tất các các đệ tử may mắn đã nhận lãnh những giáo huấn trực chỉ này, thay vì quảng cáo chúng thì nên khắc ghi chúng vào tâm khảm qua sự áp dụng thực tiễn.

Hơn nữa, đối với những ai có căn cơ trung bình, ngài Orgyen Kusum Lingpa đã ban cho các giáo huấn cốt tủy để đạt được giải thoát trong bardo. Như đã được nói rõ trong Dra Thal Gyur: “Những phân biệt tự nhiên về các thời kỳ chuyển tiếp gọi là các bardo có bốn chi: Bardo Đời Này, Bardo Vào Lúc Chết, Bardo Pháp tánh và Bardo Trở thành”.

Bardo Trạng thái Mộng và Bardo Thiền định gắn liền với Bardo Đời Này. Nếu ta phải định rõ sự khác biệt của sáu loại thì Bardo Trạng thái Mộng và Bardo Thiền định sẽ được xem như là bardo thứ năm và thứ sáu. Trong cả hai trường hợp, thời kỳ gọi là Bardo Đời Này là thời kỳ từ lúc sinh ra tới lúc chết. Trong khoảng thời gian đó ta phải hoàn thiện ba cấp độ của trí tuệ để cắt đứt mọi dấu vết hoài nghi.

Các giáo huấn trực chỉ này được áp dụng theo cách giống như con chim sẻ đi vào tổ, một hành động được thực hiện không chút ngại ngần nào. Nhờ sự thọ nhận các giáo huấn này và việc thực hành chúng một cách phù hợp, sự giải thoát có thể xảy ra trong Bardo Đời Này.

Các giáo lý về Bardo Trạng thái Mộng được gọi là “lấy giác tánh tịnh quang làm con đường”, là các giáo huấn trực chỉ rằng việc tự giải thoát mê lầm giống như một ngọn nến được đốt lên trong bóng tối.

Bardo Thiền định được gọi là “sự làm sáng tỏ về điều không xác thực”, giống như việc nhận lãnh mệnh lệnh được đóng dấu ấn của vua, hay giống như một đứa con lạc loài gặp được mẹ.

Các giáo lý về Bardo Vào Lúc Chết được gọi là các giáo huấn trực chỉ giống như sự hoàn toàn tinh lọc vàng hay sự chú tâm theo cách như một bé gái xinh xắn nhìn ngắm bóng mình trong gương.

Bardo Pháp tánhkinh nghiệm thành tựu xác tín vào bản tánh của những hình tượng tự-xuất hiện, giống như đứa con nhảy vào lòng mẹ một cách thoải mái.

Các giáo huấn trực chỉ về Bardo Trở thành thì tương tự như dòng nước được định hướng vào trong một ống dẫn nước tưới.

Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân, vì thế không nên nghi ngờ lòng từ bi vĩ đại của Đạo Sư, cội gốc của công đức này thật vĩ đại và không thể phủ nhận. Nhờ công lực của công đức này, cầu mong có được sự lợi lạctốt lành trong các cõi của thế giới.

Cuối cùng, tôi dâng lời cầu nguyện tha thiết rằng, những người có đức tin vững chắc có thể chạm mặt với các sự tự-xuất hiện như sự phô diễn của các Bổn tôn từ hòa và phẫn nộ, quả cầu kim cương của thực tại tuyệt dối, và trong đó một mạn-đà-la vô hạn được an trụ trong trạng thái tự do tuyệt đối.

Theo thỉnh cầu của hành giả Sangye Khandro và những người khác, bài tựa này được tôi, Thinley Norbu, viết ra đúng vào lúc tôi đang chuẩn bị khởi hành từ phía bắc Châu Mỹ đến xứ sở linh thiêng phía đông của rặng núi Himalaya, suối nguồn của giáo lý này và là nơi sinh của người thừa kế tất cả các Đấng Chiến thắng, đấng đã thành tựu tất cả những gì ý nghĩa: Đức Phật Thích-ca Mâu-ni.

ĐỀ TỰA CỦA NGƯỜI BIÊN TẬP BẢN ANH NGỮ


Hai cuộc hội thảo hình thành quyển sách này đã được Đức Orgyen Kusum Lingpa ban cho trong chuyến thăm viếng Hoa Kỳ lần đầu tiên của Ngài vào mùa xuân năm 1994. Các giáo lý Sáu bardo được thuyết giảng ở Tashi Choling tại Asland, bang Oregon và các giáo lý về Ba Lời Đánh vào Điểm Trọng Yếu được thuyết giảng ở Los Angeles, bang California.

Nếu không nhờ sự thỉnh mời tốt lành được gửi đi bởi Chagdud Rinpoche và Gyatrul Rinpoche thì chúng tôi sẽ không có cơ hội được gặp His Holiness Orgyen Kusum Lingpa. Vì thế, chúng tôi mãi mãi nhớ ơn hai ngài. Sangye Khandro và Richard Barron là những dịch giả rộng lượng và không mệt mỏi, đã có đủ dũng khí để nhảy thẳng vào một ngôn ngữ rất khó khăn. Nhiều người khác đã tham gia chuẩn bị để chuyến viếng thăm Hoa Kỳ lần đầu tiên của His Holiness Orgyen Kusum Lingpa có thể thực hiện, và mặc dầu chúng tôi không thể bắt đầu cảm ơn mọi người về lòng tốt của họ, chúng tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn đến Lingtrul Rinpoche, Tulku Thubten Lodro, Lama Chonam, Sondra Bennett, Leonard Cohen, Kay Henry, Richard Rutowski, Oliver Stone, Richard Wechsler, cũng như các tăng đoàn của Yeshe Nyingpo và Tổ chức Chagdud Gonpa.

Đối với quyển sách này, chúng tôi muốn cảm ơn Sangye Khandro trong việc duyệt lại các băng ghi âm về Sáu bardo cho chính xác và Tulku Thubten Lodro đã mở lòng từ bi xem lại những bài giảng về Ba Lời Đánh vào Điểm Trọng yếu. Thêm vào đó, Erik Drew và Richard Barron đã ngồi nhiều giờ để hiệu đínhsửa chữa, kiên nhẫn phiên dịch những câu hỏi của chúng tôi tới Orgyen Kusum Lingpa và những hiệu đính của ngài cho chúng tôi.

Cuối cùng, chúng tôi cảm kích sâu xa những nỗ lực của Richard Barron và Jeannie McSloy trong giai đoạn sau cùng của việc biên tập để xem xét lại những chỗ khó hiểu và giúp làm cho chúng rõ ràng hơn.

Đặc biệt nhất, chúng tôi muốn cảm ơn Đức Orgyen Kusum Lingpa, bậc đã dâng hiến cuộc đời mình để làm cho những giáo huấn quý báu như thế này có thể có mặt ở cả phương Tây và phương Đông.

Nhờ công đức này cầu mong tất cả đạt được toàn giác
Cầu mong công đức này đánh tan kẻ địch thù tà hạnh
Từ cơn phong ba của sinh, già, bệnh, chết
Từ đại dương của sinh tử, cầu mong con giải thoát tất cả chúng sinh.
Kelley Lynch và Douglas Penick
Các Giáo huấn Tinh tuý về
Giai đoạn Thành tựu trong bardo
Soi sáng Bóng tối của Tri giác mê lầm
được gọi là:
Kho tàng các Giáo huấn Siêu việt
về Tri giác của Trí tuệ Nguyên thủy
Con quỳ lạy và quy y tất cả những bậc dẫn dắt tâm linh vô song, là những bậc sở hữu lòng đại bi vô niệm, mãi mãi!


Trong sự bất khả phân của tánh Khônggiác tánh thoát khỏi sự che chướng, là ấn hiện thân sự chói lọi sâu thẳm của năm trạng thái viên mãn tự nhiên. Từ những trạng thái này, hàng triệu sự xuất hiện huyễn hóa muôn hình vạn trạng biểu lộ như một sự tán thán hỉ lạc. Với sự kính ngưỡng, con cúi đầu trước pháp giới sự phô diễn Không - Giác của các Bổn tôn từ hòa và phẫn nộ cùng quyến thuộc của các ngài.

Bởi tập quán sai lầm trong việc xem các ý niệm và những sự xuất hiện (hình tướng) là thật có, những vũ sư nam và nữ của ấn không thực thể, biến đổi liên tục như những bong bóng nước xuất hiện.

Nhằm chứng ngộ tánh nhất như của sự phô diễn đó nên những giáo huấn siêu việt này được trình bày.

Tulku Hung-Kar Dorje
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11542)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13532)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14121)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10296)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10765)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11315)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11268)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11419)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10160)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9955)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10688)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11310)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42182)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10474)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11846)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10006)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10450)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10611)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45733)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32102)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11314)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10692)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11315)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10617)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13453)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12363)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11013)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10606)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12305)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11156)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11834)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29240)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9202)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10531)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10222)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10570)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10904)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10798)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32117)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27373)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17773)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11850)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12274)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10436)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11695)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10417)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10769)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28053)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10140)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10272)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10636)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10761)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11219)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10390)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10688)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11462)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18239)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10514)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12838)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11748)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29165)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28574)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28272)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13313)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22760)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13430)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11556)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13799)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25693)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26055)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22291)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14478)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12058)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11790)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11688)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11483)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33161)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31829)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12013)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39607)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22468)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11954)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14212)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13343)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14302)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12057)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10387)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11223)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13290)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34502)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12608)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12216)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13526)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12617)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12961)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16288)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11730)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27372)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28418)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 13394)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant