Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vu Lan Huế

07 Tháng Tám 201100:00(Xem: 9750)
Vu Lan Huế

VU LAN HUẾ
Thái Kim Lan

Khi mưa ngâu tháng bảy bất ngờ trở về làm xao động cả bầu trời mệt mỏi đang chìm lỉm trong lòng sông Hương nơi khúc quành chùa Linh Mụ, Huế bỗng rùng mình chợt tỉnh cơn mê mùa hạ

blankMưa trút xuống bên tê Bãng Lãng Nguyệt Biều, lùa mây từ triền núi Trường Sơn mờ mịt quyện đồi Hà Khê, theo gió chới với trên hàng cau bên ni sông làng Xuân Hòa, sau đó không lâu, màu xanh từ đồi Thọ Cương đến vườn Kim Long, Linh Mụ, Hương Hồ, Văn Thánh bập bềnh trong màn nước, cả vùng không gian sông núi choáng ngợp trong màu hồ thủy. Từ bên ni bờ sông nhìn vọng qua màn mưa về phía núi, đỉnh Kim Phụng chập chờn lung linh như đầu một con rồng thần thoại đang dùng ảo thuật biến những luồng khí nóng xích tử ngùn ngụt như những con rắn lửa đang bóp nghẹt cỏ cây chết đứng thành những trận mưa rào sung mãn. Từ bến sông mưa tạt vào mái hiên từng làn hơi nước mát mẻ như những đợt sóng, mong manh thoáng gió hắt vào da thịt đang còn hừng hực nắng tháng năm tháng sáu. Sự va chạm gây một nỗi sửng sốt ngưng thần, đưa cảm xúc vào trong một bước ngoặt, nghe như có tiếng trở về của hoa lá ngoài sân! 

Mưa Ngâu thường hay kéo dài từ chiều đến quá khuya, sướt mướt như nỗi lòng của Chức Nữ nhớ Ngưu Lang trong những mùa trăng khuyết, ào ạt trên lá chuối lá lá vải lá giáng châu trong vườn cây, sầm sập trên mái nhà, nhưng âm vang nước chảy lại gây một cảm giác thoa dịu lạ lùng và giấc ngủ đầu tiên đến êm ả sau mấy tháng hè ngộp thở…

blankBuổi sáng sau cơn mưa, khí trời trong vắt như “vũ trụ choàng áo mới" (1), trong suốt đến nỗi có thể nhìn rõ được từng ngọn lá của cây nhãn cổ thụ nơi bến đò Long Thọ bên kia sông. Sự yên tĩnh trở nên nhẹ hửng, lững lờ trôi theo dòng sông trong nắng sớm. Chén nước trà ban mai uống đã thôi không vội vàngthong thả từng ngụm từng ngụm trong hơi đất mát rượi thoảng bên hiên. Có thể ngồi yên rồi đó! Định thần trong một giây! Hết bồn chồn cánh quạt tre phần phật! Nút áo “cổ kiềng" (2) trên cùng đã được cài cùng một lúc với thoáng gai mình chợt lạnh, nghe chân bước không gấp trên lối mòn ra ngõ nhìn sông hay lững thững quanh vườn tỉ tê thăm hoa lá. Thế rồi, giữa nhịp bước đi và dừng lại, nơi một khoảnh khắc bất định như không phải giờ của đồng hồ, có thể ngày hôm ấy hay hôm sau hay mai kia, với một chút bất ngờ có thể làm nở nụ cười toại nguyện, từ dòng sông vọng về tiếng réo rắt của một cung đàn kim cổ, âm thanh dội qua bờ bên kia rồi quay lại trên đầu những dợn sóng lăn tăn, đuổi theo con thuyền đang thong thả tay chèo ngược dòng Hương Giang lên điện Hòn Chén. Con thuyền lướt trên vùng nước bàng bạc màu xanh lục thủy trông khác ngày thường, không còn xuôi ngược tảo tần như mọi khi, mà thong dong như một gã tài tử lỏng buông tay khấu, với những chuỗi phướn xanh đỏ đủ màu phất phơ trước gió và cạp điều thắt lưng, lọng vàng sáng chói, trông ngoạn mục giữa cảnh đất trời u mặc sau cơn mưa. Cũng trong không gian mộc mạc không lời của trời mây cây cỏ trong đáy nước, âm giai nhị hồ, nguyệt cầm, sáo trúc, kèn và trống chầu văn chỏi lên những tấu khúc lạ lẫm như của những tay chơi ngoại cuộc hào hoa, kích động một thớ giây thần kinh nào đó trong cơ thể, lóe sáng trong tim một ánh vui như màu hồng sen cánh gián của hoa đông lan đang lấp ló trong khóm lá xanh bết bùn của trận mưa ngâu trước ngõ. Nhịp chân của ai đó trên đường đi bỗng dừng lại nửa giây, như để đưa đà vọt lên cao trong một vũ điệu giật gân, cùng lúc với cái ngảnh đầu nhìn ra sông thu nhận con thuyền trẩy hội đang chuyển động trong võng mô.

Hình như hàng năm, nghi lễ không gianthời gian vẫn là những vết xe quay tròn một chu kỳ, chỉ có cơn mưa, dù đã nghìn năm cổ độ, cũng như tiếng đàn vọng từ bách thiên vạn kiếp tuy đến đúng hẹn mà vẫn đột ngột, bất ngờ gây cảm, đánh nhẹ trên phím đàn bỏ quên ngày tháng, nhắc nhở lòng người rằng, từ đây cho đến khi mảnh trăng thượng tuần mới mẻ xuất hiện cùng với sao hôm là Huế đang ở trong thượng tuần tháng bảy, mùa Vu Lan đang đến! Mỗi năm và mấy mươi năm sau, vẫn mưa ngoài ngõ, vẫn tiếng đàn réo rắt trên sông vào một chiều bãng lãng với con trăng thượng tuần treo nơi đầu núi, Vu Lan Huế!

Vu Lan Huế đã đến trong tuổi thơ của tôi như thế, trong bầu trời tháng bảy của vùng đất Linh Mụ cùng với bóng dáng thân thiết vào ra của bà và của mẹ trên các lối đi về. 

blank
Cùng với tiếng mưa và âm vang của đàn sáo trên sông, câu chuyện cổ tích ban đêm không còn khúc khích với “con trâu cười con cọp đến rụng hết cả hàm răng”, với “nắm xôi Bờm cười”, với “bắt cô trói cột” hay “trâu cột ghét trâu ăn”… Áp đầu vào ngực của bà, nghe giọng kể chuyện trầm đều dần dà đượm vẻ huyền bí mủi lòng với hồn ma Cúc Hoa thương con hiện về bắt chí cho con bên mộ trong truyện Phạm Công Cúc Hoa, hay ấm áp sùng thượng cảm kích với tấm lòng chí hiếu của Mục Kiền Liên nguyện đi cứu mẹ từ hỏa ngục. Trong cơn mộng mị, chiếc thuyền ngũ sắc trôi bồng bềnh giữa tiếng hoà tấu ngũ âm theo với giòng mưa, đong đưa như một chiếc võng, có thể “trôi” trên đất liền và “đi” bộ trên sông! Vũ trụ không còn hạn hẹp mà mở ra với nhiều tầng thế giới. Nhân gianđịa ngục chỉ cách nhau một nét chập chờn giữa ánh trăng và bóng lá, không thế giới nào thực hơn thế giới nào…

Mấy nghìn năm thuở trước thời Đức Phật mà như mới hôm qua… Mấy tầng thế giới như vừa xích lại gần nhau… bằng tấm lòng THƯƠNG MẸ của Mục Kiền Liên Bồ Tát, một trong những đệ tử gần gũi nhất của Đức Phật, có thiên khiếu nhìn thấu suốt mấy cõi trời, bằng con mắt có thể vén màn vô minh đã nhìn được mẹ đang bị trừng phạt trong chốn A tì. Mục Kiền Liên đi tìm mẹ, một “vong nhân” vì đã sống thiếu lòng nhân ái nên bị đày đọa trong chốn địa ngục tối tăm. Mục Kiền Liên đi vào điạ ngục cũng không khác chi một Orphée (3) của thần thoại Hy Lạp đi tìm người yêu trong cõi chết hay một nghệ sĩ ôm đàn lang thang muôn kiếp qua nhiều cõi ngân hà để một ngày vào độ trăng rằm chay đàn cứu độ những kẻ đọa đày trở lại làm người trên thế gian. Cũng thế, chiếc bồn tên gọi là Vu Lan Bồn – cái chậu chứa đựng những định lực tu chứng thâm hậu nhất của những đệ tử Đức Phật có thể giúp chuyển nghiệp ác của một ngạ quỉ sang nghiệp lành của một con người – có mãnh lực cũng chẳng khác chi tiếng sáo của Orphee dẫn đường cho Euride trở lại thế gian hay tiếng trống chầu văn của nghệ nhân trên điện Hòn Chén đưa người đồng xuất thần nhập cốt. Vạn vật hoà đồng trong một vũ trụ không có phân ranh, “ở vào chốn không vang đi vào chón không phương… để chơi bên miền không mối, ra vào chỗ không bờ cõi …” (Trang Tử, Nam Hoa kinh, bản dịch của Nguyễn Hiến Lê, nxb Văn hoá, 1994, chương XI, “Tại Hựu”, tr. 260 

Thế giới Vu Lan đã mở ra trong trí tưởng trẻ thơ của tôi từ những mảnh cảm thức trực quan như thế, nhưng cũng từ đó, không cần giải thích thêm, đứa trẻ đã sốngVu Lan, đã hiểu được qua Vu Lan chữ HIẾU gắn liền với chữ THƯƠNG, không hạn hẹp mà rộng mở cho vô lượng chúng sinh: “tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”. Không cần mở trang sách giáo khoa thư vỡ lòng “tháng giêng là tháng ăn chơi...” cho đến tháng bảy ngày rằm… Vu Lan cũng đã được cảm nhận như là một ngày lễ hội tôn giáo trong năm rất gần gũi với con người, gần gũi như tình mẹ thương con, con thương mẹ, như mưa ngoài sông, như trăng lên đầu ngõ, như tiếng nhạc lạ lùng trên sóng nước. Nhưng Vu Lan cũng đồng thời là CƠ HỘI SIÊU THOÁT của con người trên thế gian có thể vượt giới hạn của mình trên bước đường chuyển hoá để giải phóng cho mình và cho người. Bằng hạnh lực của chính mình con người có thể “xá tội vong nhân”, - “xá tội” chứ không “rửa tội” – vong nhân vô lượngmê lầm phải ở chốn ngục tì vô minh trở lại thành người nơi thế gian. Ý nghĩa của ngày Vu Lan rộng lớn bao trùm cả vũ trụ nhân sinh, tưởng như sẽ không thấu hiểu hết được đối với những trí óc còn non nớt thơ sinh hay ngu muội, nhưng có lẽ sự diệu kỳ của bước chuyển hóa “xá tội đổi nghiệp”, đổi nghiệp “bát cơm lửa” thành nghiệp “bát cơm lành” không nằm trên bờ luận lý phân chia, mà ở nơi một tiếng đàn đang rơi xuống mặt nước sông Hương, bỗng hoá nên đơn giản!

Vu Lan Huế đơn giảnhồn nhiên như con thuyền ngược giòng Hương Giang qua chùa Linh Mụ trầm tư quán tưởng rồi bỗng ca nhạc vang lừng xanh đỏ thẳng tay chèo đến điện Hòn Chén nhảy múa lên đồng, đến nỗi cái nhìn của người Phật tử chân chính, của quí ôn (ông – tiếng địa phương) quí thầy lắm khi trở nên nghiêm khắc đối với hiện tượng gần như lạc hướng này. 

Sau mấy tháng kiết hạ giữ giớichiêm nghiệm quán tưởng, rằm tháng bảy là ngày trăng tròn đầu tiên được xem là ngày giác ngộ giải phóng cho tất cả chúng sinh từ con người giới hạnh cho đến những con người tha hóa, từ con người đang sống trên thế gian cho đến những hồn ma bóng quế trong chốn ngục tù tối tăm. Ngày rằm tháng bảy là ngày tự tứ đầu tiên Phật trở lại giảng kinh và cũng là ngày Mục Kiền Liên theo lời Phật mang “bồn Vu Lan“ đi quanh đảnh lễ những vị A La Hán xin nhờ trợ lực cứu mẹ ra khỏi đọa đày. Với TÌNH THƯƠNG MẸ Mục Kiền Liên đã thực hiện cơ hội giải phóng giác ngộ thành Phật mở rộng đến những cõi âm ti, đem từ bi và hi vọng đến những nơi vô vọng nhất của con người. Cái chết không còn là một đe dọa sợ hãi và những vong linh có thể hoá kiếp trở lại trên thế gian. Cho nên Vu Lan là ngày hội của chúng sinh đồng đẳng!

Cho nên lòng người náo nức niềm vui hoá kiếp sinh linh, náo nức như chính mình cũng đang hoá kiếp, khi nghĩ rằng những người khuất mặt đang chờ ngày cửa ngục được mở rộng để trở lại nhân gian, nhân gian như nơi chốn làm người đang là vị Phật sẽ thành !

Tôi đã sống những ngày náo nức như thế từ khi mảnh trăng thượng tuần lơ lửng trên đỉnh núi Kim Phụng mỗi ngày một tròn thêm. Có một sự chờ đợi nôn nao, như người bên ni sông chờ người bên tê sông khi chợt nhận ra chiếc thuyền thấp thoáng trong tầm nhìn. Tôi đã thấy sự háo hức của bà của mẹ, của các mợ, các dì, các cô, những người đã làm mẹ nên biết thương mẹ đậm đà, nhớ mẹ từng giây, trong những ngày từ mồng chín dến mười lăm. Họ hẹn nhau đi từng đoàn đến các chùa lạy Phật. Huế có bao nhiêu chùa thì họ đi đến bấy nhiêu, cầu nguyệnđảnh lễ Phật hầu như không mệt mỏi. Đối với họ - và về sau cũng đối với tôi - mỗi lần cúi lạy là một lần gần thêm với mẹ đã xa cách nghìn trùng, mỗi lần đem cơm cho những kẻ khốn cùng là một cơ hội chuyển chén than thành cơm trắng ngọt ngào ở nơi cõi xa nào đó chưa hề bước tới. Huế tưng bừng nơi từng gốc cây cổ thụ với các buổi cúng cơm cho vong nhân khuất mặt, những buổi cúng thị thực ngoài trời cho cả thiên thần quỉ vật. Vu Lan là một ngày lễ thánh thiện nhân ái nhất trong năm với tấm lòng tự nguyện từ bi hỉ xả cho muôn loài. 

Tôi vẫn còn nhớ nụ cười tươi rói của mợ Luân hàng năm khi kể cho tôi nghe mợ đã đi lạy Phật nơi mấy mươi chùa, và Linh Mụ sẽ là ngôi chùa cuối cùng dành cho ngày mười bốn mười lăm. Tiếng cười trong sáng bỗng trầm xuống pha lẫn chút tinh ma cấm kỵ khi mợ báo tin đã thuê thuyền vào đêm mười bốn để chị em cùng nhau lên điện Hòn Chén coi lên đồng – mà đừng “ mét” ôn Linh Mụ (Hòa thượng Đôn Hậu trụ trì chùa Linh Mụ) không thôi sợ ôn la – sáng hôm sau sẽ về lễ Phật tại chùa Linh Mụ.

Hàng năm và hàng năm đó là hành trình Vu Lan Huế. Vu Lan Huế bắt đầu bằng một nẻo đường tâm cảm huyền bí, bằng con thuyền ngược bến Linh Mụ lên điện Hòn Chén để sống những buổi lễ hoá thân như một hình thức thoát xác, chuyển hoá bằng những phút xuất thần, bằng tiếng nhạc om thòm ma quái giựt gân, một nghi lễ “chuyển bờ” từ địa ngục lên đến nhân gian, từ nhân gian lên đến cõi trời. Trong tuổi thơ, chiếc thuyền với cung đàn réo rắt đã trở nên một linh cảm về những thế giới ngoài tầm giới hạn của ba chiều không gian…

Mấy mươi năm sau trở lại Huế, đã là một Phật tử thuần thành học Phật nhiều năm, tình cờ vào dịp Vu Lan, cùng với con tôi lại ngược dòng Hương Giang – lần này trốn ôngTừ Đàm – chúng tôi đi thuyền lên điện Hòn Chén để xem lễ rước Cha rước Mẹ như mọi năm. Ấn tượng của các buổi lên đồng không còn huyền bí mê hoặc như trong thời thơ ấu, có một lúc tôi đã nghĩ điện Hòn Chén không thuộc vào ngày lễ Vu Lan đầy ý nghĩa nhân bảngiác ngộ, nếu không có cơn mưa chợt đến trong đêm. Tiếng mưa trên sông và sóng vỗ mạn thuyền nơi bến Hòn Chén hoang vu gây một âm vang kỳ diệu như tiếng chân của những người trở lại cõi trần. Từ thuyền nhìn ra thấy sông nước mênh mông một màu đen huyền hoặc, những bong bóng nhảy múa sáng lấp lánh của muôn nghìn giọt mưa vỡ ra trên sông, bỗng hiển hiện trong tâm lời kinh “tất cả pháp hữu vi, như mộng huyễn bào ảnh, như sương như điển chớp”. Sáng sớm hôm sau thuyền về bến Linh Mụ khi trăng khuya chưa tàn và hồi chuông công phu buổi sáng vừa điểm. Không khí như ở nơi Niết Bàn sau những ngày quanh co trên những nẻo đường từ những cõi mộng huyển bào ảnh – với những ngụm trà ướp sói thong thả từng ngụm từng ngụm ấm và thơm, không một lời…

Trở về nhà tôi đọc cho con nghe lời của Phật trong buổi giảng cho Mục Kiền Liên :
 “Này các tỳ kheo, thượng đế cư ngụ trong những gia đình nào có con cái kính yêu cha mẹ. Nhhững hiền triết bậc nhất cư ngụ ở trong những gia đình nào có con cái kính yêu cha mẹ. Những thần linh bậc nhất cư ngụ nơi những gia đình có con cái kính yêu cha mẹ. Những người đáng tôn thờ cư ngụ trong những gia đình có con cái kính thương cha mẹ.

Này các tỳ kheo, “thượng đế” là danh xưng của mẹ và cha; này các tỳ kheo, những vị “hiền phụ bậc nhất”, đó là danh xưng của mẹ và cha, những “vị thánh bậc nhất”, đó là danh xưng của cha và mẹ; những “người đáng cầu khẩn tôn thờ”, đó là danh xưng của cha và mẹ. Nhưng vì lý do gì? Bởi vì, này các tỳ kheo, bởi vì cha mẹ đã làm rất nhiều cho các con. Cha mẹ là người sinh thành, là người dưỡng dục nuôi nấng, là người hướng dẫn con cái vào đời.

Kệ rằng : 
Thượng đế là mẹ cha 

Thầy đời là mẹ cha 

Mẹ cha nên thờ kính 

Mẹ cha thương muôn loài 

Hiền giả kính cha mẹ 
Dâng cúng nước và cơm 

Áo mặc và giường nằm 

Tắm rửa và xoa bóp 

Săn sóc đến tay chân 

Kẻ nào dưỡng mẹ cha 
Ở đây được ngợi ca 

Của những kẻ hiền giả 

Ở đó được hưởng phúc 

Của trời dành ban cho

(Kinh Anguttara-Nikaya, quyển IV, trang 70, bản dịch từ tiếng Phạn của Nyanatiloka, dịch từ bản Đức ngữ)

Tôi đã cùng đọc kinh với con trong khu vườn Linh Mụ, khi ngoài sông thấp thoáng con thuyền tài tử chở chiếc đàn Orphée xuôi dòng Thuận An… 

Ghi chú: 

(1) Lấy ý từ bài thơ của Hòa Thượng Mãn Giác
Ô hay xuân đến bao giờ nhỉ 

Nghe tiếng hoa khai bỗng giật mình 

Sáng nay thức dậy choàng thay áo 

Vũ trụ muôn đời vẫn mới tinh 

(2) Cổ kiềng: cổ áo của một loại áo ngắn như kiểu áo bà ba trong Nam, cổ áo ôm sát cổ và được may viềng nẹp như cái kiềng, người Huế gọi là áo cổ kiềng

(3) Orphée hay Orpheus: nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, là một nghệ sĩ có giọng ca và đàn ly cầm rất hay, con của nàng thơ Kalliope va Apoll, Orphée có thể dùng tiếng đàn và lời ca mê hoặc ngay cả những con thú hoang dại cũng như sỏi đá và cây cỏ. Nhờ giọng ca, Ophée thuyết phục được những vị thần ở dưới điạ ngục cho phép Eurydike người vợ thân yêu đã chết trở lại cõi trần với chàng. Trên đường đưa vợ từ địa ngục trở về, khổ thay chàng đã quên lời dặn của các vị thần không được quay sang nhìn Eurydike, không nhịn được lòng nhớ mong chàng quay sang nhìn nàng và Eurydike phải quay về địa ngục.

Thái Kim Lan
(Phật Tử Việt Nam)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31587)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10514)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11209)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12728)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10797)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16624)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10800)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22935)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12003)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11481)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10669)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12319)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11185)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10001)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10321)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11898)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10689)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12356)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9792)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11244)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13825)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9572)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12611)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9685)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10443)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10538)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10305)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9888)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11044)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12000)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10133)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10775)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9532)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9887)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8760)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9487)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14507)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8768)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12540)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10408)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9063)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10551)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9323)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8781)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10495)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9174)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8348)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12009)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9690)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10207)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10221)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19116)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9393)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8965)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9573)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9011)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14730)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10073)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8341)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8936)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8959)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8730)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9360)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14577)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9028)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8753)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9027)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10514)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8630)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9982)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24258)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10155)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11010)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8990)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9457)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7997)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9241)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15332)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10327)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9560)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17430)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21366)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12147)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10225)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19215)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26015)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7968)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14750)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10619)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11340)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9526)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18637)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12339)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11864)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10729)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13325)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9971)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9259)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9364)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15872)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant