Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chữ hiếu trong đạo Phật qua kinh Vu Lan và kinh báo ân cha mẹ

09 Tháng Tám 201100:00(Xem: 13032)
Chữ hiếu trong đạo Phật qua kinh Vu Lan và kinh báo ân cha mẹ

CHỮ HIẾU TRONG ĐẠO PHẬT
QUA KINH VU LAN VÀ KINH BÁO ÂN CHA MẸ
Thích Viên Giác

Hiếu thảo với cha mẹ là một đức tính tốt đẹp được mọi người ca tụng, đức tính ấy được coi như một nền tảng cho mọi đức hạnh, là nhân tố quan trọng để xây dựng đời sống hạnh phúc cho cá nhân, gia đìnhxã hội.

Đối với đạo Phật, thực hành hiếu thảocon đường giải thoát của chánh pháp, là con đường của người Phật tử. Không hiếu thảo với cha mẹ thì không thể gọi là một người Phật tử chân chính được. Bởi vì người Phật tử thì phải thực hành các thiện pháp mà trong kinh "Nhẫn nhục" nói rằng: "Điều thiện tối caochí hiếu, điều ác cực ác là bất hiếu". Vì vậy, báo hiếubản chất của người Phật tử và đã trở thành truyền thống tốt đẹp của người Phật tử Việt Nam nói riêng, Á Đông nói chung.

Quan niệm về hiếu đạo của đạo Phật được thể hiện rõ nét qua hai cuốn kinh phổ biến là Kinh Vu Lan và Kinh Báo Ân Cha Mẹ, kinh mà không người Phật tử nào không biết, thường được đọc tụng vào dịp tháng bảy, lễ Vu Lan.

Trình bày về quan niệm hiếu của Phật Giáo, chúng tôi dựa vào hai cuốn kinh nay với mục đích:

1. Tìm hiểu chữ "Hiếu" trong đạo Phật.
2. Làm sáng tỏ ý nghĩa hiếu ở trong kinh và phương thức báo hiếu của kinh.
3. Qua đó thấy được sự dị đồng quan điểm hiếu của Phật Giáoquan điểm hiếu thông thường.

Trước hết, chúng tôi xin đề cập đến kinh VU-LAN-BỔN.

A. KINH VU-LAN-BỔN

I. NỘI DUNG KINH: gồm có 3 phần

1 . Nói về Ngài Mục Kiền Liên, một đệ tử xuất sắc của Đức Phật, sau khi đắc đạo, thấy mẹ của mình sống trong cảnh giới quỷ đói, thân hình tiều tụy khổ sở. Ngài sử dụng năng lực thần thông của mình, đưa bát cơm đến dâng cho mẹ. Mẹ Ngài được cơm, lòng tham khởi lên, tay trái che bát, tay phải bốc ăn, nhưng cơm chưa tới miệng đã hoá ra lửa, nên không ăn được. 

2 . Ngài Mục Kiền Liên xin Phật chỉ dạy phương pháp cứu mẹ ra khỏi cảnh khổ Ngạ quỷ. Đức Phật dạy rằng, phải nhờ đến uy lực của tập thể chúng tăng mới cứu được mẹ ông. Vào ngày rằm tháng bảy là ngày chư tăng tập trung tự tứ sau 3 tháng an cư kiết hạ thanh tịnh, hãy sắm sửa vật dụng cúng dường chư tăng, nhờ chư tăng chú nguyện, mẹ ông mới thoát được khổ. Ngài Mục Kiền liền vâng lời Phật dạy, thực hành phương pháp báo hiếu ấy, nên đã cứu được mẹ. 

3 . Ngài Mục Kiền Liên xin Phật cho phép các phật tử sau này được thực hành phương pháp báo hiếu cha mẹ bằng cách cúng dường Vu – Lan - Bồn để báo đáp ân cha mẹ. Đức Phật khen ngợi và chấp thuận. Từ đó, ngày rằm tháng bảy là ngày báo hiếu truyền thống của Phật Giáo. Ngài Mục Kiền Liên xin Phật cho phép các phật tử sau này được thực hành phương pháp báo hiếu cha mẹ bằng cách cúng dường Vu – Lan - Bồn để báo đáp ân cha mẹ. Đức Phật khen ngợi và chấp thuận. Từ đó, ngày rằm tháng bảy là ngày báo hiếu truyền thống cuả Phật Giáo.

II. Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP BÁO HIẾU TRONG KINH:

1 . Ý nghĩa bát cơm hóa lửa:

Mẹ ngài Mục Liên đang sống trong cảnh giới đói khát của Ngạ quỷ do nghiệp nhân tham lam bỏn xẻn, thì quả tương ứng với nhân tham là cảnh thiếu thốn. Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt nói: "Nếu người tham lam bỏn xẻn, không bao giờ biết bố thí do tánh keo kiệt bám víu vào tài sản của mình, nếu tái sanh làm người sẽ bị nghèo nàn thiếu thốn"…

Trong Phật giáo, hình ảnh ngọn lửa thường được dùng để ám chỉ sức mạnh của các thế lực tối tăm như lòng tham, sân, si… thường gọi là lửa tham, lửa sân, lửa si… Do nghiệp nhân tham lam bỏn xẻn, nên mẹ ngài Mục liên phải sống trong cảnh khốn khổ Ngạ quỷ. Do lòng tham lam vẫn còn chi phối mạnh mẽ tâm thức của bà, nên khi nhận bát cơm, bà đã vội vàng tay trái che bát, tay phải bốc ăn vì sợ kẻ khác cướp mất bát cơm của mình. Sự tham lam ích kỷ đó bùng lên quá mạnh, như một ngọn lửa bùng lên bao phủ tâm thức của bà làm cho bà thấy lửa ở trong bát cơm của mình, lửa ở đây là lửa của tâm thức chứ không phải lửa ở bên ngoài. Cho dù bát cơm không hóa lửa đi nữa bà cũng khó mà hưởng thụ được bát cơm một cách ngon lành, bởi lẽ với tâm lý tham lam bỏn xẻn, bà ăn trong vội vàng, lo lắng khiếp sợ, thì nuốt cơm cũng như nuốt đất mà thôi.

Mặt khác, như đã nói theo định luật chiêu cảm của nghiệp báo, khi dã tạo nghiệp đói, thì dù có cơm canh ngon lành vẫn thấy lửa như thường, cũng giống như một người đã tạo nghiệp ngu si, thì dù có gặp sách vở hay ho, họ cũng coi như giấy lộn mà thôi, bởi lẽ nghiệp nhânnghiệp quả phải tương đồng.

Ngài Mục Liên không cứu mẹ được, vì sức của một mình ngài không đủ chế ngựchuyển hoá được ngọn lửa tham của mẹ ngài, hay nói cách khác, thần thông không thể xoá được luật nhân quả. Ngọn lửa xuất hiện ở đâu thì phải diệt ở đó, mẹ ngài đã tạo ra ngọn lửa thì chính bà mới dập tắt được ngọn lửa đó.

2. Ý nghĩa chư tăng chú nguyện:

Đức Phật dạy phương pháp cứu mẹ cho ngài Mục Kiền Liên là phải nhờ vào sức mạnh tâm linh của chư tăng trong ngày Tự Tứ. Điều đó đã nói lên sức mạnh của tập thể bao giờ cũng thù thắng hơn sức mạnh của cá nhân, dù cá nhân đó vĩ đại như Đức Phật.

Sau ba tháng an cư kiết hạ, đến ngày rằm tháng bảy thì giải chế phải làm lễ Tự Tứ. Chữ " Tự Tứ" tiếng Pali gọi là PAVARANA nghĩa là tuỳ ý, tức là xin chư tăng tuỳ ý chỉ trích những lỗi lầm của mình do chư tăng thấy, nghe hay nghi để mình biết mà sám hối, nhờ sám hối nên thân khẩu ý được thanh tịnh thì công đức rất lớn. Đây là cách thức hạ mình cầu xin chỉ lỗi, tương tự như câu nói của Nho là KHIÊM SINH ĐỨC, có lẽ vì vậy mà phải nương nhờ ý lực chú nguyện của chư tăng trong ngày Tự Tứ chứ không phải những ngày khác.

Với tâm lực thanh tịnh, đầy đủ các đức tính từ bi an lạc, chư tăng hướng tâm mình vào cảnh giới khổ đau của Ngạ quỷ, luồng tâm từ của chư tăng hợp nhất tạo thành một nguồn năng lượng lớn có tác dụng làm dịu mát môi trường nóng bức của cảnh giới Ngạ quỷ, như một luồng gió mát thổi qua buổi trưa hè oi ả, làm cho thâm tâm của mẹ Ngài Mục Liên được nhẹ nhàng thanh thoátbình tĩnh hơn, do đó đã tạo điều kiện cho thiện tâm của bà phát khởi, chuyển hoá được nghiệp lực của chính bà, từ đó thay đổi được môi trường sống của bà. Không những mẹ ngài Mục Liên được giải thoát, mà tất cả những người sống trong môi trường đó cũng được thừa hưởng luồng gió mát từ tâm ấy, và nếu họ phát khởi thiện tâm thì có thể giải thoát như nhau. Thông thường sự tác động của ngoại cảnh có thể làm thay đổi tâm thức của con người, nhất là đối với những người chưa làm chủ được tâm thức của mình. Khi bị sống trong hoàn cảnh bức xúc áp chế, lòng người trở nên cọc cằn thô lỗ, độc ác ..v.v… Khi hoàn cảnh thay đổi thuận lợi dễ chịu, mát mẻ..v.v… tâm tư của con người được thoải mái, tỉnh táo hơn, và do đó dễ nhận chân ra điều hay lẽ phải. Cũng trên quy luật đó, khi nguồn năng lượng tâm từ chiếu toả vào cảnh giới nóng bức của Ngạ quỷ, tạm thời làm dịu mát và đình chỉ các nỗi đau đớn, đói khát của mẹ ngài Mục Kiền Liên và những ngạ quỷ khác, giây phút đó đã tạo ra cơ hội cho trí tuệ phát sinh và cứu được bản thân của bà.

Tóm lại, sự chú nguyện của chư tăng trong ngày Tự Tứ không phải xóa được luật nhân quả, không phải trực tiếp cứu rỗi tội lỗi của chúng sinh, mà điều đó chỉ có tác dụng trợ duyên, tạo những điều kiện thuận lợi cho chúng sinh phát khởi thiện tâm của chính mình. Thiện tâm của mỗi người mới có thể cứu được chính họ mà thôi.

B. KINH BÁO ÂN CHA MẸ

I. NỘI DUNG KINH : Gồm có 6 phần Gồm có 6 phần

1. Phần duyên khởi : Đức Phật trong lúc du hành gặp một đống xương khô, Ngài liền đảnh lễ sát đất. Đệ tử của Phật là ngài Anan ngạc nhiên hỏi Phật vì lý do gì mà lễ bái đống xương khô ấy. Đức Phật dạy rằng, đống xương khô này hoặc tổ tông kiếp trước, hoặc là cha mẹ nhiều đời của ta nên ta chí thành kính lễ.

2. Đức Phật dạy ân đức cha mẹ có 10 điều :

a . Ân giữ gìn mang thai trong 9 tháng .
b . Ân sinh sản khổ sở
c . Ân sinh rồi quên lo
d . Ân nuốt đắng nhổ ngọt
e . Ân nhường khô nằm ướt
g . A? bú mớm nuôi nấng
h . Ân tắm rửa chăm sóc
i . Ân xa cách thương nhớ
k. Ân vì con làm ác
l. Ân thương mến trọn đời.

3. Đức Phật dạy về sự bất hiếu của con cái :

Ăn nói hỗn hào với cha mẹ, xấc xược với anh em chú bác bà con ..v.v.

Không tuân theo lời dạy của cha mẹ, thầy bạn và các bậc trưởng thượng trong gia tộc.

Theo bạn bè xấu ác, từ bỏ gia đình đi hoang, gây tạo tội lỗi làm cho cha mẹ, bà con buồn khổ.

Không lo học tập, xao lãng nghề nghiệp, không tạo dựng được một đời sống vững chắc, làm cha mẹ lo lắng.

Không phụng sự cha mẹ về vật chất, không an ủi về mặt tinh thần, coi thường cha mẹ, coi trọng vợ con.

4. Đức Phật dạy ân đức cha mẹ khó đền đáp dù con cái báo hiếu bằng các cách như:

Vai trái cõng cha, vai phải cõng mẹ, cắt da đến xương, nghiền xương thấu tuỷ, máu đổ thịt rơi cũng không đáp được công ơn cha mẹ

Giả như có ai gặp lúc đói khát, phá hoại thân thể, cung phụng cha mẹ cũng không đáp được công ơn cha mẹ.

cha mẹ mà trăm kiếp nghìn đời, đâm tròng con mắt, cắt hết tâm can, trăm nghìn dao sắc xuất nhập toàn thân cũng không trả nổi công ơn cha mẹ.

Dù vì cha mẹ, đốt thân làm đèn cúng dường chư Phật cũng không đáp được công ơn cha mẹ.

5. Đức Phật dạy về phương pháp báo hiếu :

Ngoài việc cung phụng cha mẹ về mặt vật chấtan ủi tinh thần mà ai cũng biết, chúng ta phải:

Khuyến hoá cha mẹ thực hành thiện pháp .

Phải vì cha mẹthực hành tịnh giới, bố thí, làm các việc lợi ích cho mọi người.

Phải truyền bá tư tưởng hiếu đạo này cho nhiều người được lợi ích.

6. Phần kết thúclưu thông:

Đức Phật khích lệ tinh thần báo hiếu.

Đại chúng phát nguyện vâng lời phật dạy.

Đặt tên kinh là Kinh Báo Ân Cha Mẹ.

II. Ý NGHĨA BÁO HIẾUPHƯƠNG PHÁP BÁO HIẾU TRONG KINH BÁO ÂN CHA MẸ :

1. Ý nghĩa về duyên khởi của kinh :

Duyên khởi của kinh bắt đầu bằng hình ảnh một đống xương khô, là một hình ảnh tạo ấn tượng mạnh cho người đọc, hình ảnh ấy nói lên quan niệm về hiếu đạo một cách rộng rãibáo trước một phương pháp báo hiếu đặc biệt của Phật giáo, khác với những quan niệm báo hiếu thông thường.

Đối với đạo Phật tất cả chúng sinh đều nằm trong vòng sinh tử luân hồi bất tận. Trong ITIVUTTAKA nói rằng: "Đống xương tàn của một người xuyên qua nhiều kiếp sống trong một chu kỳ, có thể vòi vọi như một ngọn núi". Sự sinh tử tử sinh lặp lại nhiều lần đã để lại trên những chặng đường luân hồi biết bao là xương thịt của mỗi chúng sinh. Căn cứ vào vòng luân hồi lẩn quẩn đó, Đức phật dạy rằng:" Ta thấy tất cả chúng sinh không ai không phải là cha mẹ của nhau, hoặc ở trong quá khứ, hoặc ở hiện tại, hoặc ở tương lai". Cho nên nhìn thấy một đống xương mà liên tưởng đến xương người thân của mình là điều không có gì lạ đối với giáo lý Phật Giáo.

Theo định luật luân hồiduyên khởi, thì quan niệm về cha mẹ không còn hạn hẹp trong phạm vi gia đình bé nhỏ nữa. Với tầm nhìn sâu rộng giữa không gian vô tậnthời gian vô cùng thì tất cả chúng sinh đã từng làm cha mẹ, bà con quyến thuộc của nhau. Với sự tồn tại chằng chịt tương hệ duyên sinh, Phật Giáo không những đề cao công ơn của cha mẹ mà còn mở rộng phạm vi nhớ ơn và báo ân quốc gia xã hội và tất cả chúng sinh. Mặc dù khái niệm về cha mẹ rộng rãi như vậy nhưng trong kinh chỉ đề cập đến cha mẹ hiện tại của chúng ta, đối tượng mà tất cả những người con hiếu thảo phải đền đáp thâm ân.

2. Ý nghĩa về công ơn cha mẹ của kinh :

Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái, hy sinh cuộc đời mình cho con cái về mặt tinh thần con cái là niềm vui, là niềm hy vọng của cha mẹ, nên khi nói đến cha mẹ là nói đến công ơn. Ca dao Việt Nam có nói: "Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra". Trong các kinh điển Phật Giáo Nam TôngBắc Tông đều đề cao công ơn cha mẹ. Kinh Tăng Chi Phật dạy:" Có hai hạng người, này các Tỳ kheo, ta nói không thể trả ơn được đó là mẹ và cha". Hoặc trong Kinh Đại Tập dạy: "Ở thời không có Phật, thờ kính cha mẹ tức thờ kính Phật". Cha mẹ ở đây đồng nghĩa với Phật, điều đó cho thấy Phật giáo đề cao hiếu đạo tới mức nào.

Chúng ta cũng biết có một số cha mẹ không ngó ngàng gì tới con cái, thậm chí ghét bỏ con cái, nhưng đó chỉ là trường hợp cá biệt. Phần lớn cha mẹ luôn thương yêu con cái, tình thương đó được biểu hiện ra bên ngoài một cách rõ rệt, đó là sự hy sinh tất cả cho con. Tình thương chân chính nào cũng được biểu hiện bằng sự hy sinh. Kinh báo ân cha mẹ đề cập đến sự hy sinh cho con cái và lòng thương của cha mẹ hướng về con cái, vui cái vui của con, buồn cái buồn của con. Trong 10 điều ân đức của cha mẹ đã cho thấy rõ tình thương bao la đó. Những lời kinh hết sức cảm độngchinh phục lòng người như: "Nhổ ngọt không tiếc nuối, nuốt đắng không phiền hà… Miễn sao con no ấm, đói khát mẹ nào từ" (điều 4)

"Mẹ nằm chỗ ướt át, nâng con chỗ ấm khô, đôi vú lo đói khát, hai tay che gió sương, yêu thương quên ngủ nghỉ, sủng ái hết giá lạnh, chỉ mong con yên ổn, mẹ hiền không cầu an" (điều 5)

"Mẹ hiền ân hơn đất, cha nghiêm đức quá trời, che chở ân cao dày, cha mẹ nào tính toán, không hiềm không mắt mũi, không ghét què chân tay, sinh con từ bụng mẹ, con đổi dạ thương ai" (điều 6)

"Con đi đường xa cách, lòng mẹ bóng theo hình, ngày đêm không hả dạ, tối sớm nào tạm quên, khóc như vượn nhớ con, thương nhớ nát can trường … ( điều 8)

" Mẹ già hơn trăm tuổi, còn thương con tám mươi, ân ái có đoạn chăng chỉ hơi thở cuối cùng" (điều 10)

Sự hy sinh cho con cái mà trong kinh đã đề cập, chỉ là những biểu hiện có giới hạn xuất phát từ lòng thương yêu vô hạn. Chính vì lòng thương yêu của cha mẹ đối với con cái là vô hạn, nên chúng ta không thể đáp đền nổi. Cho dù người con thực hành các công đức lớn lao như trong kinh đã đề cập thì cũng không trả được ân đức của cha mẹ. Bởi vì người con có làm gì đi nữa, lòng của người con đối với cha mẹ không thể sánh được lòng của cha mẹ đối với con cái, đúng như ca dao nước ta có câu: "Mẹ thương con biển hồ lai láng, con thương mẹ tính tháng tính ngày". Vì vậy, khi đề cập đến công ơn cha mẹ, các kinh đều cho rằng khó đền đáp nổi, là dựa vào tâm thức của người con đối với cha mẹgiới hạn. Điều đó là một quy luật tâm lý muôn đời.

3. Phương pháp báo hiếu trong kinh:

Ngoài những phương pháp báo hiếu cung phụng vật chấtan ủi tinh thần cho cha mẹ mà ai cũng biết, Kinh Báo Ân đề cập đến cách thức báo hiếu đặc biệt của Phật Giáogiới thiệu chánh pháp để cha cha mẹ đoạn trừ gốc rễ của đau khổ, có ba phương pháp được đề cập:

a. Khuyến cáo cha mẹ thực hành chánh pháp :

Trong Kinh Tăng Chi Đức Phật dạy: "Những ai đền ơn cha mẹ bằng cách nuôi dưỡng, dâng cúng của cải vật chất tiền bạc, thì không bao giờ đủ để đáp đền ân cha mẹ. Nhưng này các Tỳ kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin Tam bảo, thì khuyến khích cho có lòng tin Tam bảo, đối với cha mẹ sống tà giới, thì khuyến khích vào chánh giới, đối với cha mẹ sinh khởi lòng tham, thì khuyến khích bố thí, đối với cha mẹ tà kiến thì khuyến khích vào chánh kiến, cho đến như vậy, này các Tỳ kheo, là làm đủ và đáp đền đủ cho cha và mẹ".

Theo đạo Phật sự đau khổ thật sự chính là vô minh, lòng tham sân si đó là tác nhân gây đau khổ triền miên từ đời này đến đời khác. Chỉ có chánh pháp, chỉ có trí tuệ mới giúp cho cha mẹ loại trừ gốc rễ đau khổ.

Báo hiếu cho cha mẹ bằng vật chất và tình cảm thông thường chưa phải là biện pháp hoàn hảo, bởi lẽ có khi vì lý do vật chất, có thể làm cho cha mẹ của mình tăng thêm tội lỗi, tăng thêm lòng tham như người xưa thường nói: "Lòng tham của con người vô đáy". Vật chất hay những cảm giác lạc thọ của vật chất chỉ tạo thêm sự thèm khát và không bao giờ thoả mãn, sự đau khổ do đó không bao giờ chấm dứt được.

Người Phật tử thấy được bề sâu của lý nhân quả nghiệp báo cho nên khuyến khích cha mẹ thực hành thiện pháp, tạo cơ hôi cho cha mẹ phát khởi thêm thiện tâm để chuyển báo nghiệp nhân xấu ác, xây dựng cho cha mẹ mình một cuộc sống bảo đảm hạnh phúc lâu dài trong hiện tại và cả tương lai.

b. Vì cha mẹ thực hành tịnh giới, bố thí và các công tác lợi ích cho con ngườixã hội:

Sự thực hành thiện pháp của con người như giữ gìn nếp sống đạo đức, mở rộng lòng bố thí, tích cực làm các điều thiện giúp ích mọi người. Trước hết đó như là một phương cách làm gương mẫu để tạo cho cha mẹ được ảnh hưởng thiện duyên của con làm tăng cườngcủng cố thiện tâm của cha mẹ. Mình khuyến cáo cha mẹ thực hành thiện phápbản thân mình không thực hành thiện pháp thì sự khuyến cáo của mình sẽ mất tác dụng. Hơn nữa, khi thực hành thiện pháp, người con luôn hồi hướng công đức cho cha mẹsử dụng năng lực thiện tâm của mình hướng về cha mẹ, nó có tác dụng hỗ trợ làm cho cha mẹ tăng trưởng thiện tâm.

Mặt khác, mối quan hệ tương ứng giữa tâm lý của cha mẹ và con cái, rất tế nhịđặc biệt. Luồng tâm thức giao cảm giữa cha mẹ và con cái rất dễ dàng ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Cho nên hành vi đạo đức của con rất dễ tác động đến lòng cha mẹ, như đã nói, con cái là niềm vui, là sự hy vọng của cha mẹ, con cái rất được cha mẹ chiều chuộng và làm theo ý thích của con. Tâm lý tuỳ thuận con cái là mảnh đất tốt để những người con gieo hạt giống thiện pháp cho cha mẹ bằng chính hành vi ngôn ngữ của mình.

c. Truyền bá tư tưởng hiếu đạo cho mọi người :

Truyền bá tư tưởng hiếu đạo cho mọi người là một phương pháp bổ sung cần thiết cho các phương pháp trên. Tác dụng của nó trước hết là tăng cường sức mạnh hiếu tâm của chính bản thân mình, được thường xuyên có mặt, tâm lý hiếu cũng như các tâm lý khác đều phát sinh và tồn tạiđiều kiện, vì vậy nếu chúng ta không tạo điều kiện hâm nóng thường xuyên bằng những điều kiện thích hợp, lâu ngày tâm lý hiếu bị phai nhạt, có thể nói: "Xa mặt cách lòng". Như vậy truyền bá tư tưởng hiếu đạo, có tác dụng trước hết là củng cố sức mạnh hiếu tâm của người con thường xuyên.

Mặt khác, như đã nói đạo Phật quan niệm tất cả chúng sinhcha mẹ của mình ngoài việc báo đáp thâm ân cha mẹ của mình hiện nay, người Phật tử còn có nhiệm vụ báo hiếu cho cha mẹ nhiều đời của mình bằng phương thức gián tiếp. Truyền bá tư tưởng hiếu đạo để cho những người con học tập và thực hành phương pháp báo hiếu đúng chánh pháp, đem đến lợi ích cho tất cả những người cha, người mẹ khác trong xã hội. Từ đó xây dựng một nền tảng đạo đức cơ bản cho xã hội con người, tâm hiếu là một tâm lý có tính văn minh, văn hoá. Truyền bá đạo hiếu sẽ tạo nên một truyền thống văn hoá tốt đẹp, để xã hộiđiều kiện xây dựng hạnh phúc cho con người.

III. KẾT LUẬN :

Ngày rằm tháng bảy, ngày báo hiếu cha mẹ, đã trở thành truyền thống tốt đẹp của Phật giáo, bắt nguồn từ vị đệ tử ưu tú của Phật, ngài Mục Kiền Liên. Phương pháp báo hiếu như đã trình bày trong kinh Vu Lan,chủ yếu dựa vào năng lực tâm linh thanh tịnh của chư tăng trong ngày tự tứ, năng lực ấy tác động vào tâm thức người cha người mẹ đang đau khổ. Qua ảnh hưởng của năng lực đạo đức ấy mà cha mẹ hiện tại hay quá khứ được siêu thoáthạnh phúc. Điều đó còn mang ý nghĩa rằng sự hiện hửu của đạo đức sẽ cải tạo được sự lầm lỗi và hoàn cảnh khốn đốn của con người; tạo cho con người một niềm tin và sức sống của chính bản thân mình, xây dựng được cuộc sống an vui.

Để bổ túc cho phương thức báo hiếu của kinh Vu Lan, kinh Báo ân cha mẹ thêm rằng phương pháp báo hiếu cha mẹhiệu quảtoàn diện nhất là phải khuyến cáo cha mẹ thực hành chánh pháp, cởi bỏ sự trói buộc của lòng tham, sân, si… vốn đã gây nhiều đau khổ cho cha mẹ mình. Chỉ có chánh pháp mới đem đến an lạchạnh phúc lâu dài,như vậy mới gọi là đền đáp thâm ân của cha mẹ.

Qua tư tưởng hiếu đạo của kinh Vu Lan và kinh Báo ân cha mẹ, chúng ta đã thấy tinh thần hiếu đạo là một trong những pháp môn tu tập của người Phật tử. Pháp môn ấy đem lại đạo đứchạnh phúc cho con ngườixã hội.

Người Phật tử ý thức được tầm ảnh hưởng lớn lao của đạo đức hiếu hạnh ấy,cho nên luôn tìm cách tạo điều kiện cho tư tưởnghành vi đạo đức ấy được lan rộng; tác động ngày càng mạnh vào đời sống xã hội đang suy giảm đạo đức như ngày nay. Thay đổi cuộc sống khốn khổ do lòng Tham, sân, si tạo nên,trong đó có cha mẹ mình.

Đó chính là cách báo hiếu tốt đẹp mà bản ý của kinh đã đề cập.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25736)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37931)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19666)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18778)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14342)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20176)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9560)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14419)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35671)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10710)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19781)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23267)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13416)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10796)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20305)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10663)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 10018)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14930)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17744)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17674)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13241)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31242)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25856)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 14019)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17568)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 11031)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12346)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10514)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12333)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11823)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9665)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12399)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9251)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8530)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 10002)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9790)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12086)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14515)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9943)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11244)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8351)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 11017)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14169)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9963)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15276)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13147)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23151)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 24104)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12638)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15498)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17858)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15138)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16618)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16210)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17747)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11650)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11675)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17923)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10846)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10560)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11387)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12127)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11095)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36482)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 9011)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9732)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34794)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17337)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10272)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10516)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12244)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13705)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14740)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9201)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24934)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11699)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10367)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 16010)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15640)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14591)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13064)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12501)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14628)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18419)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9610)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18597)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18677)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19106)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18936)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11866)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13383)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 48033)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11109)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13605)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13102)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11131)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12619)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11080)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31865)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11735)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant