Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vọng tưởng luân hồi

10 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 15401)
Vọng tưởng luân hồi
VỌNG TƯỞNG LUÂN HỒI
Nguyên tác The Samsaric Illusion
Tác giả: Agnes Jedrzejewska 
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

Thỉnh thoảng tôi thường nghe những phê bình một số cá nhân trình bày giáo lý Đạo Phật. Người ta quán sát một vị thầy Phật Giáo và thường nhìn rất thất vọng nếu họ nghe điều gì đấy không phù hợp với những định kiến trước đây của họ. Chúng ta hãy cố gắng để thẩm tra phản ứng thông thường này.

Một vọng tưởng căn bản vốn dĩ ở tâm điểm của mối quan hệ giữa cá nhân người giảng dạy giáo lýchính Quả Phật. Bài giảng mà vị nào đấy trình bày không phải của chính người đó. Nó là giáo huấn của Đức Phật mà điều ấy được người thuyết giảng chuyển tải trong khả năng cao nhất - tự học hỏi tối đa cũng như giảng dạy cho người khác.

Tôi không cảm thấy như thế mặc dù tôi là tác giả của bất cứ bài thuyết giảng nào tôi thực hiện. Tôi cảm thấy như một người lắng nghe chúng rất nhiều. Trong một bài thuyết giảng thật sự, duy người thuyết giảngGiáo Pháp thật sự, Giáo Pháp thuyết giảng. Tất cả mọi người, kể cả những vị thầy, là những học trò của Giáo Pháp. Ngay lúc tôi đang viết hay trình bày một bài thuyết giảng là một cơ hội để lắng nghe Đức Phật. Tôi đã thường hoàn toàn ngạc nhiên với những gì tôi đã nói trong bài giảng của tôi, giống như tôi không phải thật sự là tác giả.

Thật phải là thiện nghiệp một cách ngoại lệ để có thể được dạy bảo, một cách trực tiếp và cá nhân bởi một vị thầy như Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni. Người ta không còn có cơ hội quý báu này nữa. Nhưng điều ấy không có nghĩa là con người ngày nay là tách biệt với Giáo Pháp. Sự giảng dạy của Đức Phật tiếp tục được chuyển tải trong một sự đa dạng của những phương cách. Một cách như vậy là qua những người Tín Tâm[1].

Những người Tín Tâm không phải là những Đức Phật, mặc dù họ có thể lắng nghe Đức Phật một cách trực tiếp và bảo đảm sẽ đạt đến giác ngộ không sớm thì muộn. Những người như vậy là có thể thấy cuộc đời của chính họ, và của những người khác, trong một cung cách đặc biệt được ban cho họ bởi Đức Phật qua Niệm Phật. Tuy thế, bởi vì họ vẫn là những chúng sinh trong cõi luân hồi, họ không thể hành động trong một cung cách như một Đức Phật có thể làm. Đây là ý nghĩa của những gì ở trong cõi luân hồi. Họ sống những cuộc đời luân hồi, mặc dù tâm thức họ đã được chuyển hóa và chuẩn bị cho sự giải thoát tối hậu của họ. Để đạt đến Quả Phật, thông hiểu hầu hết giáo huấn là không đủ; vì mục tiêu này, chúng ta phải loại trừ tất cả si mê ám tối và vọng tưởng của chúng ta, và thay thế chúng với phước đức vô lậu hay công đức của Đức Phật. Chưa một người Tín Tâm nào đã từng có thể làm điều ấy và việc này tạo nên toàn bộ sự khác biệt.

Trong Tịnh Độ Tông, chúng ta tham dự trong công đức của Đức Phật bằng việc thực hành việc kêu gọi tên ngài hay Niệm Phật. Đức Phật chuyển hóa vọng tưởng của chúng ta và có thể làm cho chúng ta đạt đến một sự tương đồng với Tâm của Ngài, Tâm Phật. Sự chuyển hóa này là phương pháp duy nhất có thể làm cho chúng ta trở nên trưởng thành về tâm linh. Nhưng không là một Đức Phật chúng ta không có thể hành động như một vị Phật; chúng ta cũng không tiên liệu một khả năng như vậy trong khi vẫn là một con người.

Bất cứ thẩm quyền nào chúng ta sở hữu có thể ra mệnh lệnh, bất cứ vị thế xã hội hay tôn giáo nào chúng ta có thể nắm giữ, nhưng chúng ta chưa phải là những Đức Phật toàn giác. Chúng ta vẫn là đối tượng đối với những cảm xúc duyên nghiệpthường hành động như những người bình thường khi chúng ta bị tác động bởi những sự kiện trong đời sống. Chúng ta có những giới hạn của chúng ta (kể cả thân thể) do bởi những sự vướng mắc chấp trước bén rể lâu đời là những thứ đã ràng buộc chúng ta vào trong cõi luân hồi. Ngay cả nếu chúng ta biết tất cả những giáo huấn của Đức Phật một cách tuyệt hảo (là điều, trong thực tế, hoàn toàn không thể có với một tâm thức chưa hoàn toàn tịnh hóa), chúng ta vẫn mang chứa những vọng tưởng của kiếp nhân sinh vì vậy làm cho chúng ta không tương ứng, cả tinh thần lẫn thân thể, để hành động như một vị Phật toàn hảo.

Tổ Thân Loan thường tự thú rằng ngài thấy luân hồi hấp dẫn, mặc dù ngài nhận ra bản chất vọng tưởng của sự đam mê lôi cuốn nguy hiểm của nó. Ngài hoàn toàn thấu hiểu bản chất con ngườinhận ra sự cần thiết của việc xác định Giáo Pháp. Chỉ qua việc tiếp nhận một phương pháp cá nhân hướng đến Quả Phật, là người ta có thể chuyển hóa tâm thức của họ và lìa bỏ luân hồi lại phía sau. Nếu chúng ta không cảm thấy Giáo Pháp như kinh nghiệm đời sống của chính mình, thế thì luôn luôn sẽ có một khoảng cách giữa kiến thức Phật Phápchúng ta như chúng ta thật sự là. Nhận thức của chúng ta về giáo huấn sẽ vẫn là lý thuyết và nó không thể thật sự chuyển hóa chúng ta. Thân Loan nhấn mạnh rằng không chỉ đi theo giáo huấn chỉ như một lý thuyết, mà phải tiếp cận Đức Phật trong một cung cách rất cụ thể qua Niệm Phật.

Niệm Phật có thể làm cho chúng ta nhận ra vọng tưởng của luân hồi cũng như sự giả dối của chính chúng ta. Nó làm cho chúng ta nhận rachấp nhận khả năng chân thật của chúng ta cũng như những giới hạn của chúng ta.

Nếu chúng ta thật sự thực hành Niệm Phật, chúng ta do vậy tin tưởng rằng chúng ta đã cải thiện tình trạng của thế giới hay ngay cả đời sống của những người khác. Chúng ta liên tục bị lo âu với vấn đề chúng ta là ai và ai là Đức Phật. Đây là nhiệm vụ của cả cuộc đời của chúng ta và nó đòi hỏi tất cả mọi sự cống hiến của chúng ta. Thay vì lắng nghe Đức Phậtchánh niệm với chính mình, chúng ta chỉ cố gắng tác động đến những hoàn cảnh ngoại tại của chúng ta, chúng ta không được gì nhưng chỉ bối rối thất vọng. Sự bối rối này không phải được mang đến bởi Đức Phật hay bất cứ một vị thầy nào, mà bởi cung cách suy nghĩ luân hồi của kiếp người. Chúng ta, như những con người bình thường bị mê hoặc bởi luân hồi và những lôi cuốn vô tận của nó.

Chúng ta là những con người bởi vì chúng ta bị nhấn sâu trong luân hồi. Dĩ nhiên, chúng ta không vui sướng bởi khổ đau luân hồi, nhưng chúng ta đón nhận những khoái lạc luân hồi để để duy trì sự vướng mắc với những điều kiện của kiếp nhân sinh. Một trong những vọng tưởng căn bản nhất là tin tưởng rằng luân hồi thế nào đấy có thể được cải thiện để cung ứng cho chúng ta một đời sống không có rắc rối. Nhiều người đã hy sinh sự sống của họ cho một mục tiêu như vậy. Hầu hết mọi người bắt đầu lắng nghe Giáo Pháp chỉ để cải thiện nhiều thứ trong cuộc sống hơn là bất cứ sự khao khát nào để thấu hiểu cung cách mọi thứ thật sự là, bàn chất của thực tại. Nhận thức hướng đạo sai lệch này hướng để cải thiện những gì luôn luôn duy trì sự bất toàn hơn là cố gắng để đạt đến một quan điểm đúng đắn trong đời sống, chánh kiến.

Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử. Những con người hảo tâmthiện ý thường 'làm những việc đúng' và săn sóc người khác trong niềm tin rằng họ đang làm những việc thiện thông thường. Tuy thế, không có ánh sáng của Đức Phật soi rọi chúng ta, không ai có thể thấy tính vị kỷ nằm bên trong trái tim của nhiều nhà hoạt động vị thađạo đức. Thân Loan đã nhận ra thực tế nghiệt ngã này và nói: 'Đức Phật Di Đà phát nguyện của Ngài chỉ cho con, Thân Loan'. Trong Ánh Sáng của Niệm Phật, chúng ta có thể thấy rằng tất cả mọi nỗ lực của chúng ta, bất kể chúng là đúng hay sai, mãi mãi chỉ có một xu hướng - làm cho chúng ta cảm thấy khá hơn. Chúng ta muốn gia đình chúng ta đừng gây rắc rối cho chúng ta, hơn là nguyện ước một cách chân thành cho họ được cát tường. Nếu chúng ta thương mến ai đấy, chúng ta muốn người này phục vụ lợi ích riêng của chúng tachúng ta cảm thấy giận tức nếu họ không cho chúng ta những gì chúng ta mong đợi về họ. Chúng ta thích những vị thầy thực chứng Giáo Pháp làm cho đời sống của chúng ta dễ dàng hơn và chúng ta phiền hà các ngài vì những rắc rối của chúng ta. Chúng ta cố gắng phản đối Giáo Pháp như không đủ tốt cho chúng ta, lấy thì dụ về đời sống của những người khác cho việc đi đến một kết luận như vậy. Nhưng những gì chúng ta có thể biết về đời sống của một người khác? Chúng ta ngay cả không biết đời sống của chúng ta một cách đầy đủ nữa kia mà.

Trong cách này, chúng ta thích trụ lại như chúng ta là, nhưng chúng ta muốn sống cùng với những vị bồ tát những vị phụng sự lợi ích cá nhân của chúng ta. Chúng ta không muốn nghĩ một cách có ý thức trong một cung cách như vậy nhưng chúng ta rõ ràng xử sự như vậy. Để cải thiện mọi thứ chung quanh chúng ta thay vì thế chính chúng ta thật sự muốn nói là mong muốn người khác làm cho đời sống chúng ta khá hơn.

Rõ ràng rằng những con người thông thường của thế giới luân hồi hành động để hỗ trợ sinh tử, và rằng những ai với ngưỡng vọng cho sự Giác Ngộ muốn lìa luân hồi hoàn toàn - khuynh hướng của họ là hoàn toàn đối kháng. Tại sao thế giới của xã hội luân hồi sinh tử lại mong muốn những người tôn giáo chịu trách nhiệm và hữu dụng cho thế giới luân hồi? Không có lý do xác đáng cho một quan điểm như vậy. Hãy nhìn vào lịch sử của nhân loại: 1) Đức Phật Thích Ca từ bỏ gia đình để tìm con đường tâm linh của chính Ngài; điều này làm cho gia đình của Ngài băn khoăn, bối rối và từ một quan điểm xã hội nghiệt ngã, quyết định của Ngài có thể được thấy như là một hành động đáng phiền trách hay tội lỗi; 2) Chúa Giê-su tạo ra nhiều rắc rối cho những giới thẩm quyền trong thời của Ngài, vì thế họ quyết định giết Ngài; 3) Mô-ha-mét đã bị áp lực phải trốn thoát để tránh bị giết bởi chính những người của Ngài; 4) Thân Loan bị xem như một tội phạm bởi nhà cầm quyền Nhật Bản và bị lưu đày; 5) Đức Đạt Lai Lạt Ma được xem như là một cá nhân nguy hiểm bởi chính quyền Trung Cộng.

Con người luân hồi chỉ thấu hiểu tôn giáo, trong tất cả những hình thức của nó, như một món trang trí của cõi luân hồi; như một truyền thống xã hội hay văn hóa, điều gì đấy có thể làm cho con người nghĩ tốt hơn về chính họ. 'Tôn giáo làm cho con ngườicon người hơn.' Đây là một quan điểm hoàn toàn của thế giới luân hồi.

Nếu chúng ta thích là con người, chúng ta không thể là một vị Phật. Trước nhất chúng ta phải nhận ra con người là dễ sợ như thế nào, khốn khó như thế nào để là con người! Ngoại trừ chúng ta thực hành Niệm Phật bằng không chúng ta không có bất cứ một cơ hội nào để thấy nhân duyên chân thật của con người. Không có tuệ giác thẩm thấu vọng tưởng của chính mình, chúng ta không thể tác động đến việc chuyển hóa thành Phật của chúng ta.

Thân Loan bị bình phẩm bởi người Tây phương bởi vì ngài không thích hợp với ý tưởng của con người về một vị thánh. Ngài rời tu viện của ngài, ngài kết hôn hai lần và rời bỏ cả hai người vợ, và đôi khi bị xem là tội phạm - ngài đã làm những thứ 'dễ sợ' này. Ngài đã làm những gì ngài đã làm nhằm đề khám phá ra ngài thật sự là ai và nhằm đề đối diện với khuôn mặt rực sáng của Đức Phật, bất chấp là gì. Ngài không bao giờ tìm kiếm bất cứ tín đồ hay đệ tử nào. Ngài đã hiểu rằng không có lý do gì để theo đuổi bất cứ một chúng sinh bị ràng buộc với nghiệp chướng. Đức Phật là đối tượng duy nhất để đi theo và tôn thờ.

Nhận ra điều này nhằm đề lắng nghe Đức Phật Di Đà, ngài đã viết về Giáo Pháp, ngài cuối cùng đã rời vợ ngài, Enshinni. Ngài đã không viết về sự thực chứng tôn giáo của ngài vì lợi ích của nhân loại. Ngài làm việc ấy cho chính ngài. Ngài là học trò đầu tiên của những tác phẩm của ngài. Nếu người ta thấy hữu ích trong những tác phẩm ấy, đấy chỉ là do bởi năng lực khách quan của Giáo Pháp đã tỏa hương trong chúng. Không một ai trong những người Tín Tâm là một tư tưởng gia. Tất cả là những người lắng nghe. Giáo Pháp là về việc lắng nghe và thể hiện.

Chỉ những người thực hành Đạo Phật một cách kiên quyết về Niệm Phật mới có thể làm cho chúng ta lắng nghe về Giáo Pháp. Chỉ trong cách này chúng ta mới có thể nhận ra những gì chúng ta làm, chúng ta làm cho chính chúng ta. Chúng ta thuyết phục chính chúng ta rằng chúng ta hành động cho một người nào khác đó, cho nhân loại, cho hành tinh, cho Giáo Pháp, cho Đức Phật nhưng chúng ta đang thật sự đang tìm kiếm lợi ích cho chính mình. Giới hạn sâu sắc này được liên kết một cách mật thiết đến bản chất luân hồi của sự tồn tại chính chúng ta. Chúng ta dấn thân với những người khác và tất cả chúng ta liên hệ nội tại, nhưng nhìn vào những người khác chung quanh chúng ta, chúng ta chỉ thấy chính chúng ta mà thôi. Nhược điểm này trong tình trạng con người của chúng ta không cho phép chúng ta thấu hiểu một cách thích đáng những người khác, bất chấp họ là ai. Nếu chúng ta cố gắng để thấu hiểu giáo huấn của Thân Loan mà không thực hành Niệm Phậtthực chứng Tín Tâm, thế thì chúng ta chỉ lãng phí thời gian của mình mà thôi. Không có Tín Tâm, chúng ta chỉ có thể nhìn thế giới qua mắt kính mù quáng của nghiệp chướng và thiếu quan điểm về sự tồn tại tương hỗ lẫn nhau. Tuy nhiên qua Tín Tâm, chúng ta có thể đi đến thấu hiểu cung cách mọi thứ là vì chúng ta là, rồi thì chúng ta có thể nhìn thế giới qua con mắt của Phật.

Cuối cùng, trong việc dành quá nhiều thời giannăng lượng của chúng ta trong việc theo đuổi những mục tiêu vọng tưởng luân hồi, chúng ta thất bại trong việc tập trung đến một thứ thật sự quan trọng - tỉnh thức với tâm của Phật qua sự thực chứng Tín Tâm. Nhưng làm thế nào những người đó, những kẻ hoàn toàn nhiễm ô với luân hồi sinh tử và những hứa hẹn sai lầm của nó thậm chí có thể bắt đầu tin tưởng trong khả năng của một đời sống tự do khỏi những vọng tưởng điên đảo như vậy?

Nam mô A Di Đà Phật

Nguyên tác The Samsaric Illusion
Ẩn Tâm Lộ ngày 6/12/2011
http://www.nembutsu.info/agnes1.htm

[1] Shinjin (信心): trong phạm vi của Tịnh Độ Tông Nhật Bản, nó liên hệ đến một sự tỉnh thức và an trụ tâm tỉnh giác với hoạt động của Thệ Nguyện Nguyên Sơ của Đức Phật Di Đàbảo đảm cho một sự vãng sinh.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31675)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10534)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11232)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12760)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10813)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16669)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10823)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22974)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12029)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11500)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10691)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12341)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11200)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10026)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10334)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11924)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10702)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12378)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9817)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11276)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13848)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9583)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12635)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9706)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10467)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10572)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10335)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9910)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11061)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12021)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10148)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10788)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9543)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9902)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8774)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9500)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14529)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8783)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12560)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10429)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9089)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10563)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9338)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8811)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10522)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9197)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8369)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12034)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9699)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10220)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10231)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19146)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9419)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8990)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9022)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14763)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10101)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8356)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8954)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8976)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8745)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9373)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14604)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9042)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8778)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9051)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10537)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8647)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9994)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24290)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10179)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11032)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9006)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9474)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8006)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9272)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15350)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10342)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9585)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17449)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21406)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12169)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10234)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19243)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26052)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7982)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14810)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10637)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11356)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9537)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18684)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12367)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11889)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10759)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13346)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10002)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9276)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9394)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15906)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant