Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bản nguyện niệm Phật

04 Tháng Năm 201100:00(Xem: 11341)
Bản nguyện niệm Phật

BẢN NGUYỆN NIỆM PHẬT
Cư sĩ Định Huệ dịch

blankTôi học Phật đến nay cũng đã lâu, tuy nhiên cũng đã từng đi trợ niệm người lâm chung! Lúc đối diện với người qua đời thường khiến cho người ta nhớ đến mấy câu thơ:

Ngã kiến tha nhân tử
Ngã tâm nhiệt như hỏa
Bất thị nhiệt tha nhân
Khán khán luân đáo ngã
Ta thấy người khác chết
Tâm ta như lửa đốt
Chẳng phải đốt người khác
Nhìn lại tới phiên ta.

Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật. Nhưng lúc bình thường người không có tín tâm niệm Phật thì một khi đến lúc lâm chung làm sao có tín tâm niệm Phật vãng sanh? Đến lúc ấy, thật rất cần thiện tri thức đến ‘khuyến tín’, đến ‘trợ niệm’! Hoặc thân trung ấm trong giây phút ấy được Phật A-di-đà cứu độ! (Nhưng lại không có bảo chứng!?)

Trong xã hội hiện tại có nhiều cái chết không lường trước được như động đất, lũ lụt, hỏa hoạn, tai nạn máy bay, tai nạn xe cộ, giặc cướp, bệnh hoạn… đâu biết ‘vô thường’ lúc nào tới gõ cửa, điều này ai cũng cảm biết! Một mai hơi thở không hít vào thì mọi việc đều chẳng phải do ta có thể khống chế! Có thể nào nhất định nhờ được người khác ‘trợ niệm’ chăng! Vì thế lúc bình thường cần phải chuẩn bị trước mới tốt, nghĩa là có tín tâm chân thật đối với bản nguyện danh hiệu Phật A-di-đà. Đây mới là việc trọng yếu hơn hết trong một đời người!

Chúng ta là người học Phật đều biết Đức Thích Tôn đã từng truyền dạy tám muôn bốn nghìn pháp môn tu hành, nhưng vì sao đến lúc lâm chung mọi người thường đều vì người chết mà niệm tụng Nam Mô A Di Đà Phật, rất ít khi niệm thánh hiệu của Phật và Bồ-tát khác? Muốn hiểu rõ sự sâu mầu ở trong ấy, trước tiên cần phải xem trong Bát-chu tán do đại sư Thiện Đạo, tương truyền là hóa thân của Phật A-di-đà, có nói: “Các pháp môn có đến tám vạn bốn nghìn đều vì mục đích diệt nghiệp nhân vô minh, như thanh kiếm bén chính là danh hiệu Di-đà, xưng một tiếng danh hiệu Di-đà thì các tội đều tiêu trừ”. Lại nói các pháp môn bất đồng đềutiệm giáo, phải trải qua muôn kiếp tu hành gian khổ mới ngộ Vô sanh”. Ngoài ra, chúng ta còn đối chiếu với lời của Liên Như thượng nhân: “Bỏ tâm tự lực của ‘tạp hạnh’, ‘tạp tu’ chỉ tin vào bản nguyện tha lực, nhất tâm cầu Phật A-di-đà cứu độ ta trong một đời này thoát khỏi luân hồi, vãng sanh thành Phật. Lúc phát khởi một niệm tín tâm, phải biết nhất định vãng sanh, nhất định được cứu độ! Từ nay về sau, hễ xưng danh hiệu Phật là vì muốn báo đáp ơn Phật mà hoan hỷ xưng niệm…” Qua đoạn văn trên, chúng ta biết các lời dạy của các vị Tổ sư trong tông Tịnh Độ đều là một mạch tương thông! Tóm lại ý nghĩa là: Hễ chẳng phải hạnh trực tiếp vãng sanh thì biến thành ‘tạp hạnh’, ‘tạp hạnh’ cũng chỉ cho tám muôn bốn nghìn pháp môn đều là một phương tiện giả lập! Từ lập trường của tông Tịnh Độ mà nói thì tám muôn bốn nghìn pháp mônphương tiện (pháp môn giả tạm) vào tông Tịnh Độ. Nếu không có các ‘đạo khó hành’ của ‘Thánh đạo môn’ để so sánh thì chẳng biết sự đặc biệt thù thắng của pháp môn hoằng nguyện là ‘đạo dễ hành’. Phàm phu thường có thói quen ‘ngã chấp’ nên đều thích lấy tự lực tu hành để thể chứng. Nhưng sự thật tám muôn bốn nghìn pháp môn khó hành, khó chứng, lại học cũng chẳng thành tựu, lúc ấy mới chịu buông bỏ thân tâm, quay đầu trở lại hướng vào trong biển đại nguyện Di-đà (đạo dễ hành). Phàm phu cực khổ tu hành ‘đạo khó hành’ mới biết mình làm không nổi, cũng không tu nổi; đương lúc tuyệt vọng, hồi tâm chuyển ý, mới biết chỉ có dựa vào sức bản nguyện của Phật A-di-đà mới được cứu độ (ví như bảng đen cần phải dùng phấn trắng để viết chữ thì mới thấy chữ rõ ràng). Cho nên ‘đạo khó hành’ cũng là ‘lót đường’, cũng là ‘mở đường’ cho ‘đạo dễ hành’.

Kỳ thật, mục đích tu trì tám muôn bốn nghìn pháp môn đều vì phá vọng chứng chân, diệt trừ nhân quả vô minh ‘tam tế lục thô’ từ vô thủy đến nay, nhưng phàm phu dùng tự lực tu hành lại không chứng nổi. Vì thế, Phật A-di-đà đại từ đại bi muốn hồi hướng bản nguyện do Ngài tu hành khổ hạnh khó hành từ nhiều kiếp mới được thành tựu ban cho chúng ta để diệt trừ nghiệp nhân nghiệp quả của vô minh, ban cho chúng ta bản nguyện danh hiệu phá tan tăm tối vô minh, viên mãn đại nguyện thành Phật. ‘Như một ngọn đèn đốt lên thì phá tan bóng tối của vạn năm’. “Một câu xưng niệm danh hiệu Phật trừ diệt được tất cả tội” biểu thị tội nghiệp từ vô thủy đến nay chẳng làm chướng ngại việc vãng sanh của người tu pháp niệm Phật. A-di-đà Phật có đủ sức đại công đức diệt trừ tội chướng cho chúng sanh, có đại nguyện lực đưa chúng ta vãng sanh thành Phật, vì thế Ngài mới có thể thành Phật! Thế nên, người có lòng tin nơi Phật thì một phen thấy Phật A-di-đà, một phen niệm danh hiệu Phật A-di-đà thì cảm nhận đã được cứu độ, đã được quyết định vãng sanh (việc này do Phật quyết định). Đương nhiên muốn có được sự cảm nhận này và lòng tin hoan hỷ thật sự được cứu độ thì cần phải hết sức tín nguyện thì mới có kết quả.

Cần phải nói rõ thêm, tám muôn bốn nghìn pháp môn đều là đạo khó hành, khó tiến tới mà dễ thoái lui, là ‘nhân hạnh’, là pháp tu chưa hoàn hảo. Danh hiệu Di-đà là ‘quả đức’, là quả giác ngộ đã hoàn thành! Tu trì tám muôn bốn nghìn pháp môn muốn thành Phật thì đều phải từ chứng quả vị A-la-hán trở lên mới tính, hoàn tất phải mất ba đại a-tăng-kỳ kiếp mới có thể tu thành Phật quả viên mãn! Nhưng người tu Tịnh Độ nhận lấy và thâm nhập một câu bản nguyện danh hiệu thì có thể vượt qua ba đại a-tăng-kỳ kiếp đi vãng sanh làm Phật, đây tức là hàm ý của câu “Một niệm vượt ba a-tăng-kỳ kiếp”. Đây thật là đại nguyện đại hạnh ‘biệt dị hoằng nguyện’ viên đốn, viên siêu!

Do đó đủ biết công đức (nhân hạnh) của tám vạn bốn nghìn pháp môn không thể nào sánh được với công đức của bản nguyện danh hiệu (quả đức). Do đó chúng ta nên vâng theo lời khuyên của Đại sư Thiện Đạo tu hành pháp môn có duyên với chúng ta, ít tốn công mà được nhiều lợi ích. Chỉ cần học cho tốt pháp môn tha lực bản nguyện niệm Phật, trước tiên cần phải bỏ tâm tự lực ‘tạp hạnh’ và ‘tạp tu’[1], chẳng những ‘tạp tu’ nghĩa là tự lực tu hành tám vạn bốn nghìn pháp môn cần phải xả bỏ mà ngay cả tâm tự lực niệm Phật[2] cũng phải xả bỏ! Chỉ hoàn toàn nương tựa vào bản nguyện danh hiệu của từ phụ A-di-đà mới có thể vãng sanh vào báo độ chân thật.

Phải biết danh hiệu này là do bản nguyện “Nếu chẳng được sanh thì ta không ở ngôi Chánh giác” mà thành tựu, là Nam-mô A-di-đà Phật ‘vãng sanh chánh giác, cơ pháp nhất thể thành tựu’, cho nên biết câu danh hiệu này là do Phật lực thành tựu, cũng là Phật lực hồi hướng cho chúng ta, cũng là pháp thể tuyệt đối tha lực cứu độ tất cả chúng sanh. Vì thế, nếu chẳng xả bỏ tự lực mà muốn thật sự có được tín tâm tha lực (tín tâm quyết định) vãng sanh báo độ thì không thể nào được! Vì ‘tín tâm quyết định’ chẳng phải là lấy tín tâm do tự lực của phàm phu phát khởi làm bản vị! Vì tâm của phàm phuvọng tâm sanh diệt, không có thật thể! Vọng tâm của phàm phu chỉ thành cái ‘nhân’ của luân hồi, chẳng thể nào biến thành cái ‘nhân’ vãng sanh Tịnh Độ! Nhưng một mai lãnh thọ đại bi cứu độ của Phật A-di-đà, tiếp nhận ‘pháp môn tha lực niệm Phật’[3]. Tâm phàm phu có được tín tâm tha lực (Phật và phàm phu đồng một thể) liền biến thành cái nhân chân thật vãng sanh! Đây là do sáu chữ danh hiệu Nam-mô A-di-đà Phật là ‘chân như’ từ trong Phật quả sanh khởi, có sức công đức chân thật tự nhiên vận dụng độ chúng sanh! Đây tức là công đức vô thượng của ‘danh hiệu độc vận’[4]. Đúng như đại sư Liên Trì nói: “Di-đà chính là vạn đức hồng danh, danh hiệu vừa xưng niệm thì vạn đức đều tròn đầy, chẳng cầu phước mà phước tự đầy đủ”.

Nhưng người tu hành nếu đem ‘tạp hạnh’, ‘tạp tín’ của tám muôn bốn nghìn pháp môn thêm vào trong công đức ‘bản nguyện danh hiệu’ thì biến thành ‘nghi hoặc Phật trí’ (chẳng dám toàn tin, toàn nương tựa bản nguyện Phật). Như vậy thì chẳng tương ưng với sức bản nguyện của Phật. Dùng tâm nghi ngờ này dù nỗ lực niệm Phật như thế nào đi nữa, cao nhất chỉ vãng sanh vào ‘hóa độ’, đợi đến chừng nào người này tiêu hết ‘tội nghi Phật’ thì mới được chuyển vào báo độ chân thật. Từ những phân tích kể trên, chúng ta mới biết vì sao pháp môn bản nguyện phải cực lực chủ trương xả bỏ tâm tự lực của ‘tạp hạnh’ và ‘tạp tu’? Vì phàm phu thời mạt pháp tu tám muôn bốn nghìn pháp môn khó thành tựu, chẳng thể thoát sanh tử, vẫn không có cách ra khỏi sanh tử luân hồi, cho nên cần phải xả bỏ! ‘Xả tạp nhập chuyên’ nương vào sức bản nguyện của Phật mà vượt qua biển cả sanh tử, đây mới là người sáng suốt ‘khế cơ’, ‘khế lý’, là người chắc chắn có nhiều phước báo!

Đạo lý ‘xả tạp nhập chuyên’ này cũng giống như ăn quýt trước tiên phải lột bỏ vỏ sau đó mới ăn múi ngọt. Tâm tự lực tu ‘tạp hạnh’ và ‘tạp tu’ là ‘vọng’, là ‘vỏ’, là cái nhân luân hồi vì thế cần phải xả bỏ. Bản nguyện danh hiệu là ‘chân như’ là ‘múi quýt’ cần phải đem hết thân tâm nhận lấy nghĩa là lấy quả địa giác làm tâm nhân địa của chúng ta. Muốn chứng nhập ‘chân’ trước tiên cần phải xả bỏ ‘vọng’!

Hiện nay người học Phật thường đem ‘học giải’ và ‘học hạnh’ hỗn hợp với nhau, cần phải biết nếu muốn ‘học giải’ thì phải như là đại sư Thiện Đạo nói: Tất cả giáo điển từ phàm tới thánh cho đến Phật quả đều phải học tức là nói giáo môn, giáo tướng, giáo pháp đều có thể học, đều nên nhận thức. Nhưng muốn thoát sanh tử thì cần phải chuyên tu một môn mà ‘học hạnh’. Nhưng ‘học hạnh’ như đại sư Thiện Đạo khuyên ‘cần phải ít tốn công mà được nhiều lợi ích’ tức là chỉ cho pháp môn bản nguyện niệm Phật, pháp niệm Phật vãng sanh thành Phật. Nhân vì thời kỳ mạt pháp, mạng người ngắn ngủi cũng không biết chết vào lúc nào, cho nên muốn giải quyết việc lớn sanh tử cho đến thành Phật thì cần phải chọn một pháp thích hợp với căn cơ của chính mình, pháp này phải ‘ít tốn công mà được nhiều lợi ích’, chọn pháp một đời có thể thành tựu mà tu mới thì có thể thỏa mãn đại nguyện thoát sanh tử cho đến thành Phật của chúng ta. Do đây đủ biết, chẳng nên đem sự ‘học giải’ cầu tri giải tất cả sự tướng sự lý lẫn lộn với pháp ‘học hạnh’ liễu thoát sanh tử mà luận, rồi cho rằng cần phải có tri giải rất nhiều tức là cần phải đồng thời ‘kiêm tu’ rất nhiều pháp mới có thể liễu thoát sanh tử. Đây là người chẳng biết ‘Di-đà bản nguyện’ là pháp đặc biệt. Ví như bạn muốn học trồng lúa đương nhiên phải biết thời tiết, đất đai, hạt giống, phân bón v.v… các điều đó thuộc về tri giải cần phải ‘học’, nhưng một người đang đói sắp chết, bạn lại đem lý thuyết trồng lúa nói cho người ấy nghe thì không được rồi! Không có cơm ăn, phải đợi hiểu rõ về tri thức trồng lúa. Như người này chỉ cần ăn một chén cơm thì có thể no bụng, điều đó mới xứng đáng với nỗi khổ tâm của người trồng lúa, thì đâu phải là đến nỗi chết đói? Chúng ta đang là người ở trong thời mạt pháp, là người tội nặng không biết phải bị chết lúc nào. Nếu thọ mạng dài lâu muốn học hiểu tất cả giáo pháp thì còn có thể được, nhưng muốn liễu thoát sanh tử thì lại giống như ‘ăn cơm’, chỉ cần một pháp (ăn cơm) thì giải quyết được ‘bệnh chết đói’ của ‘sanh tử’. Đương nhiên ‘ăn cơm trị bệnh đói’ không thể đánh đồng với công đức cứu độ của ‘danh hiệu bản nguyện của Phật’. Chỉ vì muốn cho người học dễ hiểu nên bất đắc dĩ phải lấy thí dụ trong sinh hoạt thường ngày để so sánh, nhờ đó mới biết được thâm ý Đức Phật trong kinh Vô Lượng Thọ muốn chúng ta ‘nhất hướng niệm Phật’.

Phải biết ‘ Học rộng vốn vì muốn thâm nhập giáo pháp, còn chuyên tu thì lập tức tổng trì tất cả giáo pháp’. Đương nhiên muốn hiểu nghĩa ‘tha lực niệm Phật vãng sanh’ thì có thể học ba kinh một luận[5] để biết, biết thô thiển cũng được! Nếu cho rằng nhất định phải học rộng các pháp thì tất cả bọn phàm phu ngu si không có hy vọng. Vì thế đừng ham tri giải mà bỏ phế thời gian ‘nhất hướng xưng danh’, cho nên cần phải tin sâu ‘phàm phu sanh tử tội ác nương bản nguyện Di-đà, dù niệm mười tiếng hay một tiếng đều được vãng sanh’ Giải hạnh như vậy mới là giải hạnh chân thật của người tu ‘bản nguyện niệm Phật’.

Tổ sư Ấn Quang cũng có nói: “Ở thế gian có người háo thắng cầu cao, thường nói đến tự lực, xem thường Phật lực mà họ chẳng biết từ lúc sanh ra cho đến lúc chết, không có một việc gì chẳng nhờ cậy sức của người khác, vậy mà họ chẳng lấy đó làm hổ thẹn, chứ đâu riêng gì một việc lớn liễu thoát sanh tử mà không chịu thừa nhận Phật lực. Sao lại táng tâm ngông cuồng đến thế! Hành giả Tịnh tông cần phải thống thiết răn dè”. Đồng thời Tổ sư Ấn Quang cũng chỉ rõ: “Xưa nay có nhiều người y cứ pháp môn thông đồ (Thánh đạo môn) để luận về pháp môn Tịnh Độ, do đó mà tự mình lầm, còn làm lầm người khác, rồi tự cho là hoằng pháp lợi sanh, loại người này nhiều không kể xiết! Điểm sai lầm bắt đầu từ chẳng chịu xét sự lớn nhỏ, khó dễ giữa Phật lựctự lực. Cố dẫn pháp môn thông đồ cậy tự lưc để bình luận pháp môn đặc biệt nương Phật lực, cho nên đưa đến sự sai lầm này. Nếu biết Phật lực bất khả tư nghị không thể dùng sức tu trì của phàm phu có đủ thứ trói buộc để bình luận thì tất cả tâm nghi hoặc bất tín ấy biến mất”. Từ những lời khai thị kể trên của tổ sư Ấn Quang mà biết ‘đoạn nghi sanh tín’ là quan trọng hơn hết đối với hành giả tu ‘bản nguyện thành Phật’. Hiện nay, nhiều người học Tịnh tông chưa thể nắm vững yếu chỉ của Tịnh tông là ‘tại đoạn nghi sanh tín, chứ chẳng tại công phu niệm Phật’, ‘tại tin sâu quyết định vãng sanh chứ chẳng tại phương pháp niệm Phật’. Vì thế, nghe pháp cốt sanh tín mà lại xả bỏ ‘đoạn nghi sanh tín’; trái lại chấp lấy tự lực niệm Phật phục đoạn phiền não. Dùng tâm tự lực tu pháp tha lực, dùng pháp thông đồ để tu pháp đặc biệt, thật là rất trái ngược với bản ý phát nguyện của Phật Di-đà, lại càng trái với bản hoài Phật lực bình đẳng từ bi cứu độ chúng sanh ở khắp mười phương. Hiện đời dù có được chút ít nhưng tổn thất thì rất lớn. Thật đáng tiếc thay!

Những điều phân tích ở trên cốt trông mong chúng ta đem hết sinh mạng hữu hạn vô thường này hướng vào trong biển bản nguyện của Phật A-di-đà để đạt đến vô lượng quang, vô lượng thọ thì mới thật sự không luống uổng một đời này.

Định Huệ dịch
(dịch từ bài tiểu luận của Huy Trân trong Hồi Quy Thiện Đạo Hoằng Nguyện Tịnh Độ Tư Tưởng)
(Tu viện Huệ Quang)

CHÚ THÍCH

[1] Người tạp hạnh, tạp tu là người tự lực kiêm tha lực, nhờ chư Phật Bồ-tát gia trì chỉ có chút cảm ứng là tạm thời tiêu tai, thoát nạn… giúp cho thêm phước thêm thọ, nhưng không thể thoát khỏi sanh tử luân hồi, thì làm sao có thể vãng sanh thành Phật? Vì thế nên cần phải xả bỏ!

[2] Người tự lực niệm Phật thường thường tự lực kiêm tha lực niệm Phật, sau đó hồi hướng Tịnh Độ, cầu lúc lâm chung Phật đến tiếp dẫn, hiện đời không bảo chứng, một đời không an tâm vì thế vẫn chẳng viên mãn.

[3] Pháp môn tha lực niệm Phậtpháp môn do A-di-đà Phật sáng lập dùng Phật lực (quang minhdanh hiệu) trực tiếp cứu độ chúng sanh cũng là pháp môn bản nguyện niệm Phật, hoằng nguyện niệm Phật. Ngày nay chúng ta tin được, niệm được thì được thành Phật độ chúng sanh, hoàn toàn là nhờ Phật lực giúp cho chúng ta thành tựu.

[4] Danh hiệu độc vận là bản nguyện danh hiệu của danh thể nhất trí, lý sự vô ngạitừ pháp thể trong bổn tánh chân như của Phật phát khởi để độ chúng sanh, có sức công đức chân thật đương nhiên sẽ độc tự vận tác cứu độ chúng sanh. Đó là ‘A-di-đà Phật là pháp giới thân vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh’. Sức công đức của danh hiệu này có năng lực khiến chúng ta tin, khiến chúng ta niệm Phật, khiến chúng ta vãng sanh thành Phật độ chúng sanh, đều là pháp nhĩ vận tác một cách tự nhiên, đều là do Phật lực mà được thành tựu.

[5] Ba kinh một luận: Ba kinh là 1.. Vô Lượng Thọ kinh 2. Phật thuyết A-di-đà kinh, 3. Quán Vô Lượng Thọ Phật kinh. Một luận là Vãng Sanh luận của bồ-tát Thế Thân.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25755)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37936)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19682)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18797)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14378)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20199)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9578)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14431)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35687)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10717)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19797)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23286)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13424)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10805)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20314)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10679)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 10034)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14941)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17766)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17696)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13246)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31256)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25884)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 14039)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17581)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 11041)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12359)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10523)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12342)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11835)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9673)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12412)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9257)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8538)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 10012)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9803)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12104)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14538)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9953)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11257)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8356)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 11040)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14193)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9969)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15288)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13155)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23180)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 24129)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12675)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15511)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17883)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15154)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16639)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16220)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17759)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11672)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11698)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17942)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10868)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10566)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11406)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12137)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11109)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36494)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 9018)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9736)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34804)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17348)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10289)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10529)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12248)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13721)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14749)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9212)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24954)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11706)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10377)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 16025)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15653)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14597)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13073)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12511)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14647)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18439)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9622)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18618)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18697)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19134)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18945)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11872)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13407)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 48038)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11123)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13620)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13106)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11158)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12635)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11096)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31889)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11744)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant