Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Truyền tin qua gió hay pháp môn Thiên lý truyền tâm

14 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 16234)
Truyền tin qua gió hay pháp môn Thiên lý truyền tâm
Truyền tin qua GIÓ 
HAY PHÁP MÔN THIÊN LÝ TRUYỀN TÂM (1)
Alexandra David Neél – Huỳnh Ngọc Chiến dịch

Những đạo sư huyền thuật Tây Tạng thường trầm lặng ít nói, trong số họ cũng có những người nhận môn đồ, nhưng giảng dạy bằng phương pháp tâm truyền chứ ít khi dùng đến ngôn ngữ. Việc mô tả những phương pháp giáo huấn kỳ lạ đó không phải là chủ đề của bài viết này. Chỉ cần biết rằng những môn đồ của các bậc đạo sư huyền thuật đó rất ít khi gặp được sư phụ. Thời gian giữa những lần gặp gỡ kéo dài hay mau đều tùy thuộc vào sự tiến bộ của môn đồ, hoặc khi có những vấn đề về tâm linh cần đến sư phụ khai thị. Khoảng thời gian giữa những lần tiếp xúc của hai thầy trò kéo dài vài tháng, có khi vài năm. Mặc dù xa cáchít khi gặp nhau, nhưng thầy trò - đặc biệt là đối với những vị có công phu đạo hạnh cao - vẫn có một phương pháp liên lạc với nhau mỗi khi cần thiết.

Thiên lý truyền tâm hay khả năng viễn cảm là một trong những pháp môn thần bí của người Tây Tạng. Dường như khắp nơi trên những núi non cao ngất của “Xứ Tuyết” này đều được phủ đầy bởi hiện tượng thiên lý truyền tâm, giống như vai trò mà ngành điện tín vô tuyến đã thực hiện từ lâu ở phương Tây. Trong khi ở đất nước phương Tây, những thiết bị máy móc truyền tin có xu hướng thiên về đại chúng, thì ở nơi đây, sự truyền đạt những thông điệp tế vi theo cánh gió(2) lại thuộc thẩm quyền của một thiểu số tu sĩ đã thụ pháp.

Khả năng thiên lý truyền tâm không phải là điều xa lạ với phương Tây. Những tổ chức nghiên cứu tâm linh đã nhiều lần ghi nhận các hiện tượng thiên lý truyền tâm. Tuy nhiên, phần lớn các hiện tượng này đều xảy xa ngẫu nhiên và người trong cuộc lại hoàn toàn chẳng hay biết gì cả.

Kinh nghiệm cho thấy khi cố gắng thực hiện phương pháp thiên lý truyền tâm một cách có chủ ý thì kết quả lại rất đáng ngờ, vì chúng không thể lặp lại thông điệp chính xác như mong đợi.

Đối với người Tây Tạng thì vấn đề này lại khác. Họ cho rằng thiên lý truyền tâm là một bộ môn khoa học, và cũng như mọi bộ môn khoa học khác, nó có thể được giảng dạy bởi những người đã được giáo huấn bài bản, đầy đủ và thấy mình có đủ khả năng thực hiện.

Người ta cũng chỉ ra thêm những phương pháp khác nữa đều nhằm mục đích đạt đến khả năng thiên lý truyền tâm, nhưng quan điểm của các tu sĩ bậc thầy trong pháp môn này lại không nhất trí với nhau về quan điểm cho rằng nguồn gốc của hiện tượng này là sự tập trung tư tưởng cao độ đến mức xuất thần.

Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng một cách mãnh liệt vào một đối tượng duy nhất, từ đó quyết định sự thành công của hiện tượng này.

Vai trò của “trạm thu sóng” có ý thức - vốn luôn sẵn sàng cảm ứng với những dao động sóng thiên lý truyền tâm cực kỳ vi tế - khó khăn chẳng kém gì vai trò của “trạm phát sóng”. Trước tiên, người muốn trở thành “trạm thu sóng” phải có khả năng tương thông với trạm phát sóng mà từ đó nó muốn nhận những thông điệp gởi đến.

 Tập trung tư tưởng vào một đối tượng duy nhất, đến mức mọi đối tượng khác đều biến khỏi phạm vi nhận thức, đó là một trong những cột trụ trong việc luyện tâm của những tu sĩ Lạt ma. Mặt khác, việc luyện tâm cũng bao gồm các phương pháp giúp phát triển khả năng nhận thức những dòng năng lượng khác luôn xô đẩy vũ trụ chuyển động theo mọi hướng.

Dựa trên sự kiện này, một số người khẳng định rằng công phu thiên lý truyền tâm cũng như viêm công, hay nhiều năng lực hữu ích khác, chỉ là những kết quả tùy sinh từ việc luyện tâm, do đó thật là vô bổ nếu xem nó là pháp môn riêng biệt để khổ luyện.

Một số người lại nhìn nhận sự việc theo cách khác. Họ công nhận rằng những năng lực thần thông đạt được từ việc luyện tâm cho phép thực hiện khả năng thiên lý truyền tâm cùng nhiều công phu huyền bí khác; nhưng họ thêm rằng, những người dầu không đạt đến quả vị cao siêu trong Mật pháp hoặc không khao khát cầu pháp vẫn có thể luyện thành công bất kỳ pháp môn tùy sinh nào.

Nói chung thì các đạo sư Mật tông tán đồng điều này ở một mức độ nào đó, và có một số đạo sư chuyên dạy cho môn đồ pháp môn thiên lý truyền tâm.

Một số nhà ẩn tu, dù không luyện tập bài bản theo hệ thống, vẫn có thể đón nhận được những thông điệp khai thị của các đạo sư truyền đi bằng pháp môn thiên lý truyền tâm. Điều này được xem là do lòng tôn kính sâu xa của họ đối với sư phụ. Chỉ có một số ít mới đạt được khả năng truyền đi thông điệp một cách tự nhiên.

Về phương pháp luyện tập của pháp môn thiên lý truyền tâm, có thể phác thảo sơ qua những nét chính như sau:

Trước tiên, hành giả cần phải thực hành những bài tập tập trung tư tưởng vào một đối tượng duy nhất đến mức xuất thần, để hợp nhất cùng đối tượng.

Song song với điều đó, cần phải luyện tập những bài tập bổ sung về tập trung tư tưởng là “hư tâm”, nghĩa là vất bỏ tất cả sự vật ra khỏi tâm trí, để cõi lòng lặng lẽ tịch nhiên tuyệt đối.

Tiếp theo đó hành giả phải quán tưởng và phân tích những tác động đa dạng của các cảm xúc tâm sinh lý nảy sinh một cách đột ngột khó hiểu, cùng những trạng thái tinh thần đặc biệt như vui buồn, sợ hãi, thêm vào đó là những kỷ niệm bất chợt về người, về sự vật, về những biến cố dường như chẳng liên quan gì với tư tưởng hoặc hành động của những người hiện ra trong hoài niệm.

Sau khi đã tập luyện như thế được vài năm thì hành giả mới được phép tham thiền với người thầy.

Hai thầy trò sẽ ngồi thiền trong một căn phòng kín, lờ mờ sáng và cực kỳ yên tĩnh để cùng tập trung tư tưởng vào một đối tượng chung. Cuối buổi hành công, người môn đồ sẽ thông báo cho vị Lạt ma biết những tư tưởng, cảm xúc hoặc những nhận thức khách quan nảy sinh trong các giai đoạn tham thiền. Hai thầy trò sẽ đem những điều này ra đối chiếu với nhau để tìm hiểu những điểm tương đồng hay khác biệt giữa hai người.

Giai đoạn tiếp theo, vị thầy sẽ không cho biết môn đồ biết đối tượng cần quán tưởng, mà để cho môn sinh - trong nỗ lực giữ cho lòng rỗng rang yên tĩnh không cho tư tưởng khởi sinh trong tâm trí - quan sát những tư tưởng, tình cảm cùng những nhận thức xa lạ bất ngờ xuất hiện. Cũng như giai đoạn trước, người môn đồ sẽ thông báo cho vị Lạt ma biết những tư tưởng, hoặc hình ảnh nảy sinh trong quá trình tham thiền, và đem chúng ra để đối chiếu với những gì mà vị sư phụ đã gợi ý cho mình bằng phương thức tâm truyền.

Đến lúc này, vị sư phụ sẽ để môn đồ ở cách mình trong một cự ly không quá xa và truyền lệnh chính xác đến môn đồ. Nếu người môn đồ hiểu được thông điệp này thì anh ta sẽ trả lời lại sư phụ hoặc thực hiện nội dung của mệnh lệnh. Công phu này được lặp lại với khoảng cách giữa hai thầy trò tăng lên dần theo thời gian. Sau khi đã ngồi thiền trong cùng một căn phòng, hai thầy trò sẽ chuyển sang ngồi thiền trong hai căn phòng khác nhau của cùng một tu viện, hoặc vị môn đồ sẽ quay về với thảo am hay thạch động của mình, rồi chuyển xa dần khỏi chỗ ở của sư phụ thêm nhiều cây số.

Tây Tạng, người ta tin rằng các đạo sưpháp lực thượng thừa có thể đọc được tư tưởng của người khác theo ý muốn. Đối với các đạo sư này thì môn đồ của họ không cần phải gởi thông điệp tư tưởng đến sư phụ bằng phương pháp thiên lý truyền tâm, vì sư phụ đã đọc được tư tưởng của họ trước cả khi họ tham thiền để thực hiện điều này.

Dù điều này đúng hay sai đi nữa thì khi được gán cho vinh dự là một doubtchén, nghĩa là một pháp sư pháp lực thượng thừa, thì vị pháp sư đó phải hành xử ra vẻ như ông ta thực có những thần thông mà người ta gán cho ông. Vì lý do này mà môn đồ của họ khi khởi đầu đạo nghiệp đều luyện tập pháp môn thiên lý truyền tâm bằng cách gởi những thông điệp cho nhau.

Một nhóm khoảng hai ba người kết hợp với nhau để luyện tập pháp môn này dưới sự hướng dẫn của vị Lạt ma sư phụ, và quá trình luyện tập cũng na ná như những gì đã được mô tả.

Những môn sinh lão luyện hơn thì tự kiểm tra sự tiến bộ của mình bằng cách gởi đi những thông điệp bất ngờ, nằm ngoài những bài tập dự kiến, vào thời điểm mà người nhận đang rất bận rộn và hoàn toàn không nghĩ đến việc đón nhận thông điệp.

Họ cũng cố gắng khơi dậy, bằng phương pháp thiên lý truyền tâm, tư tưởng và hành động đối với những người mà họ chưa bao giờ luyện tập chung. Một vài người lại cố gắng khơi dậy hành động nơi loài vật.

Luyện tập phương pháp này phải tốn rất nhiều năm tháng. Thật khó lòng phỏng đoán chính xác có bao nhiêu người đã khổ luyện thành công môn này. Hơn thế nữa, sẽ sai lầm khi tưởng rằng có đông đảo môn sinh theo học pháp môn thần bí này, như ta thường thấy tại các tu viện lớn. Trong một thung lũng hoang tịch như thế này, thì số lượng năm sáu môn đồ sống quanh thảo am của một vị ẩn tu cũng được xem là đông rồi. Ngần đó đã là con số tối đa hiếm khi đạt tới. Cách xa nơi đây, tại một hang núi khác ta có thể bắt gặp thêm một vài môn đồ sống trong những thảo am sơ sài, ở quanh nơi ẩn tu của sư phụ họ cách chừng vài cây số. Qua đó, ta có thể hiểu được nhiều bài luyện tập môn thiên lý truyền tâm đã được một số ít hành giả thực hiện tại những địa điểm khác nhau.

Mặc cho những thành tựu mà các hành giả đã đạt được khi khổ luyện môn thiên lý truyền tâm, các bậc chân sư Mật tông khả kính nhất vẫn không hề khuyến khích điều này. Đối với các vị đó thì việc thành tựu những năng lực siêu nhiên cũng chẳng khác gì trò chơi của trẻ con, hoàn toàn chẳng đáng quan tâm.

Có vẻ như trên thực tế những bậc đại ẩn tu có thể tùy ý truyền thông tư tưởng cho môn sinh bằng pháp môn thiên lý truyền tâm, và người ta còn nói rằng các vị đó còn có thể truyền thông tư tưởng cho bất kỳ loài hữu tình nào; nhưng như đã nói, những năng lực siêu nhiên đó chỉ là những kết quả tùy sinh của tri kiến thâm huyền về những quy luật tâm lý và sự hoàn thiện tâm linh.

Khi đã đạt đến giác ngộ thì không còn sự phân biệt giữa tangười, giữa chủ khách, giữa năngsở mà tất cả đều viên dung nhất thể, cho nên pháp môn thiên lý truyền tâm được thực hiện dễ dàng. Dù trong pháp môn này có một phần sự thật và một phần tưởng tượng, song tôi thấy khôn ngoan nhất là đừng nên bàn gì về chúng.

Từ những quan sát đã thực hiện suốt nhiều năm tháng, tôi có thể kết luận rằng, pháp môn thiên lý truyền tâm cũng như nhiều pháp môn thần bí khác dường như đã tìm được ở Tây Tạng một vùng đất thuận lợi để phát triển, hơn bất kỳ nơi nào trên thế giới. Nói một cách chính xác thì những điều kiện thuận lợi đó là gì? Trả lời dứt khoát câu hỏi này là một hành động liều lĩnh, trong khi bản chất của những hiện tượng tâm linh siêu nhiên này vẫn còn là điều huyền ẩn.

Có thể là do các hiện tượng tâm linh phải đối mặt với ảnh hưởng địa lý của lãnh thổ cao ngất trời này. Có thể là do sự tịch lặng mênh mông bao trùm lên toàn xứ sở. Nếu tôi dám tự cho phép mình sử dụng cách diễn tả lạ lùng thì đó là sự tịch lặng diệu kỳ mà ta có thể nghe bàng bạc vang trên những tiếng cuồng nộ thét gầm của thác ghềnh, sông suối. Cũng có thể là các năng lực tâm linh hiển thị dễ dàng nhờ sự vắng bóng của những cụm dân cư đông đúc, vì những hoạt động tinh thần tại những nơi này sẽ tạo ra vô số cơn lốc năng lượng tinh thần làm rối loạn những làn sóng tế vi của hiện tượng tâm linh.

Cho dù là vì nguyên nhân gì đi nữa thì sự truyền thông tư tưởng bằng pháp môn thiên lý truyền tâm, một cách vô tình hay cố ý, vẫn không phải là chuyện hiếm xảy ra tại Tây Tạng.

 Bản thân tôi cũng đã từng nhận những thông điệp thiên lý truyền tâm của vị Lạt ma mà tôi có nhiều quan hệ. Có thể số lượng thông điệp nhiều hơn tôi tưởng. Nhưng tôi chỉ giữ lại, xem như là những tư liệu quan sát quý giá, một số ít thông điệp mà nhiều ngày sau hoặc nhiều tháng sau, vị Lạt ma hỏi tôi về kết quả của chúng mà thôi.

Bên cạnh các phương pháp truyền thông tư tưởng mang sắc thái liên quan đến yếu tố tâm linh, tuy không hẳn là phương pháp thiên lý truyền tâm nhưng liên quan đến tính đồng nhất tư tưởng giữa sư phụmôn đồ, tôi xin kể lại hai câu chuyện bất ngờ mang sắc thái hoàn toàn khác.

Một trong hai câu chuyện này xảy ra tại lưu vực sông Dainchine, trong cuộc hành trình của tôi đến Lhassa. Vị Lạt ma, tác giả của những thông điệp mà tôi thấy giống như hiện tượng thiên lý truyền tâm, sống tại tu viện Tcheudzong.

Yongden và tôi đã trải một đêm ngoài trời, trong một cái hố tự nhiên do những cơn mưa liên tục xói lở đất tạo nên, nhưng giờ đây đã khô và rắn lại nhờ sương giá. Vì không có chất đốt để nhóm lửa pha trà bơ cho bữa điểm tâm quen thuộc, chúng tôi phải lên đường sớm để tìm chỗ lưu trú thường ngày. Đến trưa, chúng tôi bắt gặp một vị Lạt ma vẻ mặt khả kính đang ngồi trên tấm thảm lót yên ngựa3, sát bên vệ đường. Ông ta vừa dùng cơm xong. Cùng với ông còn có ba tu sĩ trẻ (trapa) vẻ mặt thông minh sáng sủa, tựa hồ là môn đồ chứ không phải là những kẻ tùy tùng. Bên cạnh nhóm người này là bốn con ngựa dàm cương đang cố gặm đám cỏ khô.

Những lữ khách này đã dùng củi nhóm lửa, và một ấm trà vẫn còn đang bốc khói trên than hồng.

Chúng tôi, trong bộ quần áo cải trang thành những kẻ hành hương khất thực, lễ phép chào hỏi vị Lạt ma theo nghi thức. Khi nhìn thấy bình trà, có lẽ sự thèm muốn uống trà hiện ra trên gương mặt chúng tôi. Vị Lạt ma lẩm bẩm: “Nyingdjé” (Thật tội nghiệp!), rồi cất cao giọng mời chúng tôi ngồi, bảo chúng tôi đưa bát để rót trà và cho bánh tsampa.

Một trapa liền rót phần trà còn lại vào bát chúng tôi và đặt một đĩa bánh tsampa bên cạnh chúng tôi, rồi đi đến giúp những người trong đoàn thắng yên cương ngựa để chuẩn bị lên đường. Một con ngựa bất ngờ lồng lên bỏ chạy vì sợ hãi. Đây cũng là một biến cố thường xảy ra. Một trapa khác liền cầm dây chạy theo để bắt nó lại.

Vị Lạt ma không phải là người hay nói, ông chỉ lặng lẽ ngồi yên, đưa mắt theo dõi con ngựa đang tung vó chạy băng qua cánh đồng trơ trụi. Chúng tôi tiếp tục ngồi ăn trong yên lặng. Tôi đảo mắt nhìn quanh và nhìn thấy một bình gỗ chứa đầy sữa. Tôi đoán vị Lạt ma đã nhận bình sữa này từ một trang trại mà tôi nhìn thấy trên đường đi, ở cách đây không xa.

Tôi nói thầm vào tai Yongden:

- Khi nào vị Lạt ma kia đi rồi, con hãy đến trang trại kia xin một ít sữa.

Mặc dù tôi nói rất khẽ, nhưng dường như vị Lạt ma kia hiểu được lời tôi nói. Ông đưa mắt nhìn tôi rất lâu với vẻ dò xét, rồi hạ thấp giọng lẩm bẩm: “Nyingdjé” và ngoảnh mặt đi.

Con ngựa không bỏ chạy xa, mà tựa hồ như đang hứng chí chơi đùa nên cứ nhảy nhót lung tung, khiến vị trapa kia không sao đến gần được. Cuối cùng thì nó cũng đứng yên để vị tu sĩ trẻ quàng sợi dây quanh cổ dắt về.

Vị Lạt ma vẫn ngồi bất động, đưa mắt đăm đăm nhìn người môn đồ đang dắt ngựa. Người này đột nhiên ngừng lại, đứng yên một lúc, thái độ có vẻ chăm chú, rồi dắt con ngựa buộc sau một tảng đá. Sau đó anh ta quày quả đi bộ về phía trang trại. Một lúc sau tôi thấy anh ta quay trở lại chỗ buộc ngựa, tay cầm một “vật gì đó” không rõ.

Khi anh ta đến gần, tôi mới nhận ra “vật gì đó” chính là một bình gỗ đầy sữa. Anh ta không đặt bình sữa trước mặt tôi, mà đưa mắt nhìn vị Lạt ma như muốn hỏi: “Sư phụ muốn con làm gì đây? Con phải làm gì với bình sữa này?”

Trước những câu hỏi được lặng lẽ đặt ra, vị Lạt ma chỉ khẽ gật đầu xác nhận và ra lệnh cho người môn đồ đưa bình sữa cho tôi.

Câu chuyện thứ hai tôi sắp kể đây không xảy ra tại Tây Tạng, mà tại biên giới tỉnh Cam TúcTứ Xuyên của Trung Quốc.

Tại vùng biên của khu rừng mênh mông trải dài giữa Tangan và ngọn đèo Kunka, có sáu người xin gia nhập vào đoàn chúng tôi. Vùng này nổi tiếng là khu vực hoành hành của thổ phỉ Tây Tạng, cho nên mỗi khi đi qua đây, khách đi đường thường phải kết hợp với nhau thành từng nhóm đông đảo và vũ trang đầy đủ.

Năm trong số sáu người bạn đồng hành mới của chúng tôithương nhân Trung Quốc, người còn lại là một phù thủy (ngagspa) đạo Bön. Ông ta vạm vỡ, to lớn, mái tóc dài bó trong một tấm vải đỏ tạo thành một dải băng dài.

Vì luôn tận dụng mọi cơ hội để tìm hiểu về giáo lý và các nghi thức tôn giáo, nên tôi mời vị lữ khách cô đơn kia dùng cơm, với hy vọng được nghe ông ta phiếm đàm về những đề tài tôi đang quan tâm. Tôi được biết ông ta đang trên đường đến với vị sư phụ - một pháp sư đạo Bön đang thực hiện đại nghi lễ thần bí doubthab trên một ngọn núi gần đây. Mục đích của nghi lễ này là hàng phục một ác thần, và bắt y phá hoại một trong những bộ lạc nhỏ trong vùng.

Sau vô số thủ thuật ngoại giao, tôi mới bày tỏ ý muốn được yết kiến sư phụ ông ta, song vị môn đồ thẳng thừng tuyên bố không thể được. Sư phụ ông ta tuyệt đối không thể bị quấy rầy trong trọn tháng âm lịch này, vì phải dành trọn thời gian để tiến hành nghi lễ.

Tôi biết có nài nỉ cũng vô ích, nên định bụng sẽ theo dõi vị ngagspa này khi ông ta rời đoàn chúng tôi, sau khi vượt qua ngọn đèo. Nếu kín đáo tiếp cận vị pháp sư kia một cách bất ngờ thì không chừng tôi có thể nhìn thấy được đàn tràng thần bí này cùng những thứ pháp khí khác dùng trong nghi lễ.

Tôi thấy kế hoạch có vẻ ổn thỏa nên dặn dò những người tùy tùng kín đáo bám sát vị ngagspa kia, đừng để ông lén lút bỏ đi.

Hình như những người tùy tùng của tôi nói chuyện với nhau quá lớn về chuyện này, khiến vị ngagspa biết được ý đồ của tôi đối với đạo sư (gourou) của ông ta, nên lên tiếng cảnh báo tôi có cố gắng làm cũng chỉ hoài công vô ích.

 Tôi trả lời rằng tôi không hề có ý đồ xấu, mà chỉ mong muốn được trò chuyện thân mật với vị pháp sư để học hỏi thêm. Tôi dặn dò những người tùy tùng phải bám riết viên ngagspa kia chặt chẽ hơn nữa.

Người bạn đồng hành của chúng tôi hiểu rằng ông ta bị ép buộc để trở thành một tù nhân, nhưng vì thấy điều đó cũng chẳng gây hại gì và nhất là được ăn uống thỏa thích - một điều mà người Tây Tạng rất xem trọng - nên ông tham gia chuyến lữ hành với tâm trạng vô cùng vui vẻ.

- Đừng lo tôi bỏ trốn - ông ta bảo tôi - bà có thể cho người trói tôi lại nếu bà muốn. Tôi chẳng cần đi trước để báo cho sư phụ tôi biết bà đang đến, vì người đã được thông báo trước rồi. Gnais loung gi téng la lén tang tsa (Tôi đã gởi cho người một thông điệp bằng pháp môn thiên lý truyền tâm rồi).

Các ngagspa thường là những kẻ ba hoa khoác lác rằng họ có những năng lực siêu phàm, nên tôi cũng chẳng quan tâm chi đến những lời ông ta nói.

Thế nhưng lần này tôi đã lầm.

Sau khi vượt qua ngọn đèo, chúng tôi tiến vào một thảo nguyên. Trên vùng thảo nguyên bao la như thế này thì bọn cướp không còn đáng sợ nữa, vì chúng khó tìm ra được chỗ để phục kích.

Những thương nhân Trung Quốc, suốt mấy ngày qua khi còn ở trong rừng, cả ngày lẫn đêm đều không dám rời đoàn người của chúng tôi nửa bước, giờ đây đã lấy lại sự tự tin và vội vã chuẩn bị lừa ngựa để từ biệt. Tôi vẫn có ý định theo dõi vị ngagspa khi ông ta bỏ đi, thì một đoàn kỵ mã khoảng sáu người đột nhiên xuất hiện trên một mô đất và phi nước đại về phía chúng tôi.

Khi đến gần, họ liền xuống ngựa chào hỏi và tặng cho tôi mấy cái khăn khadag(4) và một ít bơ. Sau khi kết thúc nghi thức tặng quà, một tu sĩ lớn tuổi bảo tôi rằng vị đại pháp sư đạo Bön cho đem lễ vật này đến tặng tôi để xin tôi từ bỏ ý định tiếp cận ông ta. Ông ta không được tiếp xúc bất kỳ ai, ngoại trừ một trong những đệ tử đã thụ pháp, không một ai được đến gần nơi ông ta đang triển khai đàn tràng huyền thuật.

Tôi buộc lòng phải từ bỏ kế hoạch của mình. Dường như vị ngagspa kia đã thực sự gởi đi một thông điệp cho sư phụ ông ta bằng phương pháp thiên lý truyền tâm. Tôi hiểu có ôm khư khư ý định cũng chẳng ích gì.

Mặc dù người môn đồ đã cho tôi thấy bằng chứng về những năng lực phi thường, tôi vẫn ngờ rằng chính vị sư phụ kia mới là người dùng huyền lực để ngăn không cho tôi đến gần ông, song những người dân núi vạm vỡ đeo súng bao quanh tôi đang đứng sờ sờ ra đấy, tôi không thể cho là họ những ảo ảnh không có thực. Họ tỏ ra rất mực lễ độ, không hề có biểu hiện ác ý gì với tôi, nhưng thái độ của họ chắc chắn sẽ thay đổi, nếu như tính ương bướng của tôi đe dọa đến sự thành công của một đại nghi lễ đang thu hút sự quan tâm của toàn bộ lạc.

Tôi cũng đưa cho vị ngagspa một tấm vải khadag và một ít tiền để cúng dường cho sư phụ ông ta. Tôi chúc mừng cho những người Tây Tạng kia đã may mắn có được một viên pháp sư thượng thừa, rồi chúng tôi thân mật giã từ.

Dường như hiện tượng thiên lý truyền tâm bằng hình ảnh cũng tồn tại đối với người Tây Tạng. Nếu như tin vào hành trạng của những vị Lạt ma nổi tiếng, được truyền khẩu giữa những người Tây Tạng, ta sẽ thấy có nhiều câu chuyện điển hình của loại này. Song trong những hành trạng đó, sự thật và hư cấu trộn lẫn với nhau chặt chẽ đến mức thà nghi ngờ còn hơn là tin hẳn những câu chuyện dị thường được kể lại trong đó.

Trong thời đại chúng ta, vẫn có những người khẳng định đã từng ghi nhận những ảnh tượng được truyền đi bằng phương pháp thiên lý truyền tâm.

Những hiện tượng này hoàn toàn khác với giấc mơ. Đôi khi những ảnh tượng đột nhiên xuất hiện trong quá trình thiền định, nhưng đôi khi lại xảy ra khi người nhận đang bận rộn với công việc thường ngày.

Một vị Lạt ma tsipa (nhà chiêm tinh) kể cho tôi nghe rằng, một hôm ông đang ngồi dùng bữa thì chợt thấy người bạn đồng tu là một Lạt ma gyud (vị Lạt ma tốt nghiệp khoa huyền thuật), mà đã nhiều năm qua ông chưa hề gặp lại. Người bạn đồng tu này đứng ngay trước cửa cùng với một trapa trẻ tuổi, đeo một túi vải trên vai, điệu bộ giống như đang chuẩn bị lên đường. Người thanh niên quỳ xuống đảnh lễ vị Lạt ma để giã từ, vị Lạt ma mỉm cười nói vài câu gì đó rồi đưa tay chỉ về hướng Bắc. Vị trapa ngoảnh mặt về hướng đó và quỳ xuống đảnh lễ ba lần. Khi đứng lên, vị trapa cầm cái áo choàng zen, đã bị tụt xuống khi đảnh lễ, khoác lại lên vai. Vị Lạt ma tsipa thấy một vạt áo zen đã bị rách. Sau đó ảnh tượng kia biến mất.

Vài tuần sau, chính người thanh niên kia tìm đến, cho biết vị Lạt ma gyud đã gởi anh ta đến đây để xin học về khoa chiêm tinh.

Vị trapa kia kể lại rằng vào lúc lâm hành, khi đang quỳ xuống đảnh lễ sư phụ - là vị Lạt ma gyud - thì anh ta nghe sư phụ dặn dò: “Giờ đây, con sắp có thêm một sư phụ mới. Con nên đảnh lễ ngài đi”, rồi đưa tay chỉ về hướng bắc, là nơi ở của vị Lạt ma tsipa.

Vị Lạt ma tsipa thấy một vạt áo zen của người môn đồ bị rách, giống như ảnh tượng ông đã thấy trước đó.

Tôi hỏi có phải vị Lạt ma gyud muốn thông báo cho người bạn đồng tu biết mình sắp gởi một đồ đệ đến hay không, nhưng vị Lạt ma tsipa này không trả lời, bởi vì biến cố này vừa mới xảy ra, kể từ khi xảy ra, ông ta chưa có dịp trả lời cho bạn.

Tôi phải nói rằng, người Tây Tạng thường tỏ ra ít nhiệt tình trong việc tìm hiểu những hiện tượng tâm linh, và thái độ này của họ cũng chẳng hề cản trở các công trình nghiên cứu. Đối với họ thì những hiện tượng đó tuy khác thường, nhưng cũng không phải là cái gì quá đỗi dị thường, đến mức khiến những người chứng kiến hay nghe kể lại phải vội vã tìm hiểu một cách nghiêm túc. Trên thực tế, đầu óc họ không bị xáo trộn vì những khái niệm chặt chẽ về quy luật tự nhiên, hay về những điều khả thi hoặc bất khả thi, như người phương Tây.

Phần lớn người Tây Tạng, kẻ trí thức cũng như người thất học, mặc nhiên chấp nhận rằng tất cả đều khả thi đối với những ai biết thích nghi, và do đó, những hiện tượng dị thường, mà họ chứng kiến, chỉ khơi dậy trong họ cảm giác ngưỡng mộ đối với người khéo tạo ra chúng mà thôi. 

 

(1) Bản dịch được thực hiện theo nguyên bản tiếng Pháp Mystiques et Magicciens du Tibet, NXB. PLON, 1929, các trang 236-248. Những ghi chú là của người dịch, trừ ghi chú có ghi (T.g) là của nguyên tác.

(2) Nguyên là chữ rlung, (đọc là lung) vừa có nghĩa là “không khí” vừa có nghĩa là “gió”, đôi khi còn có nghĩa là “hơi thở” nữa. Ta có thể hiểu “rlung gi teng la theo nghĩa “nương theo cánh gió” hoặc “truyền qua không khí”… (T.g).

(3) Người Tây Tạng cưỡi ngựa trên yên gỗ có lót thảm (T.g).

(4) Một loại khăn vải mà người Tây Tạng dùng tặng nhau để bày tỏ thiện chí và lòng tôn trọng (T.g).

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11446)
Thông Bạch Phật Đản 2016 - Phật Lịch 2560 của Chánh Văn Phòng HĐCM GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 10533)
Phật Đản là ngày sinh của Đức Phật. Theo như trong kinh Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”,
(Xem: 10808)
‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo.
(Xem: 9878)
Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như ...
(Xem: 9551)
“Thị hiện Đản sanh”, là cụm từ được chỉ chung cho tất cả các bậc Thánh nhân, chư Phật, Bồ Tát khởi lên ý niệm tự phát nguyện...
(Xem: 12908)
Dòng đời cứ cuồn cuộn hay lặng lẽ mãi miết trôi, và mọi cảm nhận tiếp thụ của con người vẫn cứ lan chảy bất tận theo thời gian.
(Xem: 13320)
Phương cách tốt nhất giúp ta tỉnh giác khi hành Thiền là ta biết giữ hơi thở trong tâm.
(Xem: 13471)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 19847)
Thân thị Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời cần phất thức, Vật sử nhá trần ai.
(Xem: 12545)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 13266)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 13558)
Không biết tự bao giờ, mùa xuân được lấy làm biểu tượng của tâm hồn an lạcthanh tịnh.
(Xem: 13027)
Ngày xuân năm nay, chúng tôi sẽ đem đạo lý khuyến khích nhắc nhở tất cả Phật tử tinh tấn tu hành.
(Xem: 12380)
Nhân Tết con khỉ - Bính Thân, nên xin nói tản mạn về con khỉ, có liên hệ đến những ý tưởngquan niệm trong đạo Phật.
(Xem: 18586)
Hai bài kệ dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học, được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực...
(Xem: 10695)
Thiền Tôngpháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy.
(Xem: 12412)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi...
(Xem: 11005)
Năm cũ đã hết với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11206)
Cảm ơn Xin cảm ơn Trời đất bốn mùa thay nhau chuyển đổi Xuân sinh, hạ trưởng Thu liễm, đông tàn
(Xem: 14709)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát,
(Xem: 22616)
Bài này được viết vào khoảng tháng 11 năm 1991, có trong tác phẩm “Sân Trước Cành Mai,” xuất bản năm 1994.
(Xem: 11594)
Tết đã gần kề. Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam có cái chung nhưng cũng có những nét khác nhau tùy theo phong tục tập quán của từng vùng, miền.
(Xem: 10181)
Trong mùa xuân, thiên nhiên tự làm mới lại, con người cũng tự làm mới lại thân tâm mình, mọi vật đều cố gắng chuyển hóa thành mới, trong sạch, thanh tịnh.
(Xem: 34554)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 17751)
Ngày hết Tết đến nhìn thấy còn những người đau khổ chung quanh thì lòng mình không thể dửng dưng...
(Xem: 32714)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22123)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 11223)
Ngoài kia, từng cánh én đang tung tăng chao lượn, dòng người thì tấp nập ngược xuôi trong tà áo mới, trên gương mặt ai nấy hân hoan rạng ngời
(Xem: 17598)
Tình yêu như bát bún riêu. Bao nhiêu sợi bún bấy nhiêu sợi tình.
(Xem: 17168)
Khách thập phương rảo bước quanh sân chùa, ngắm nhìn cảnh vật, cội mai già, nụ mai còn hàm tiếu.
(Xem: 10704)
Cụm từ trên không biết có tự bao giờ…? Thế nhưng từ lâu cho đến tận ngày hôm nay, thật sự đã đi sâu thẳm vào
(Xem: 10864)
Khi cây mai vàng chưa kịp đưa hương Và bờ cỏ đương đổi màu hoang tái Bóng chiều nghiêng cánh én còn ái ngại Vẫn nghe lòng vời vợi bước xuân phương
(Xem: 9602)
Vẫn mang chiếc áo lỳ năm tháng cũ Vẫn chiều nay, Bên khung cửa hôm nào Ta nhấp nháp chung trà hương viễn xứ
(Xem: 10615)
Cành mai năm trước, cành đào bây giờ vẫn một sắc hương, cội mai già nỉ non bung ra từng hé nụ, hoa đào đón gió tưng bừng khoe sắc hương.
(Xem: 10610)
Hãy nhìn lại thật gần, thật kỹ, những gì đang có trong lòng bàn tay. Mùa xuân không ở đâu xa. Mùa xuân ở nơi ấy.
(Xem: 10565)
Tâm giống như con khỉ (kapicitta) là một thuật ngữ, đôi khi Đức Phật dùng để diễn tả các hành-vi lo-lắng, khuấy-động,
(Xem: 12484)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 12418)
Tôi không có tham vọng viết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882)
(Xem: 9990)
Năm mới, chúng ta đón chào một mùa xuân mới được nhiều phước lộc, và học thay đổi cách sống mới để làm đời mình thêm tươi vui, hạnh phúc.
(Xem: 13226)
Hiện nay, ở một số chùa có trưng bày tượng ba con khỉ trong sân chùa. Nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc cũng như...
(Xem: 9734)
Thay đổi cuộc đời trong Năm mới chính là Làm mới chính mình, nuôi dưỡng suối nguồn hạnh phúc.
(Xem: 9130)
Thành đạo còn gọi là Đắc Đạo, chứng đạo, đạt đạo, thành tựu đạo quả.
(Xem: 11826)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 13487)
Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác. Bất cứ làm điều gì, các ông phải làm với chánh niệm.
(Xem: 12075)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ.
(Xem: 11300)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11614)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10340)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10261)
“Từ Thị Di Lặc” nghĩa là : người mang chủng tánh Từ Bi, rộng đức bao dung, hòa ái, êm dịu, luôn đem lại sự an lành hạnh phúc cho mọi người và cho cả cuộc đời.
(Xem: 10911)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 28234)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 10814)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 7415)
Lúc gần đây, khi tôi vào trang mạng của Dzogchen Ponlop Rinpoche đọc một bài viết có tựa đề là "Đạo Phật Là Một Tôn Giáo, Có Đúng Không?", tôi đã ngạc nhiên vì một số ý-kiến của người-đọc ở phần bên dưới bài viết
(Xem: 9339)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 11775)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11672)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 11109)
Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng.
(Xem: 10320)
Thiền quán là nhìn một cách tĩnh lặng. Nhìn sự vật “như nó là”, không suy luận, không biện giải, không phê phán…
(Xem: 10272)
Ba viên ngọc quý Phật, Pháp, Tăng mà ai cũng có đầy đủ đều không ngoài Bản Tâm Tự Tánh mình.
(Xem: 13812)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 14969)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10507)
Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay một quan niệm thuộc về tri thức.
(Xem: 11909)
Phải chăng trường đời là nơi tranh danh đoạt lợi, hay chính là do mầm tham ái ở tại lòng mình mới là động cơ sinh ra mọi sự?
(Xem: 10894)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10533)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10662)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9912)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10675)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 9304)
Hãy nghe ĐỨC PHẬT định nghĩa về thiền : « Ở đây nầy các Tỳ Kheo, vị tỳ kheo đi đến khu rừng dưới một gốc cây hay đi đến chỗ nhà trống và ngồi kiết già lưng thẳng...
(Xem: 10008)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10195)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10525)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10614)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10537)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10116)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9839)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13549)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16329)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13483)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 11566)
Tôi đã nhận được một món quà tặng quan trọng nhất từ bố tôi: đó là niềm tin về tôn giáo. Suốt đời tôi, tôi sẽ nhớ ơn bố tôi. Vì, bố là vị Bồ Tát của tôi.
(Xem: 11131)
Năm nay, Vu Lan khởi sắc một cách khác thường. Từ ngày 14 âm lịch đến rằm, lượng số người đi lễ như trẩy hội. Một số con đường chính đều bị tắt nghẽn giao thông.
(Xem: 11100)
Đạo Phật dạy về tầm quan trọng của sự kính trọng bố mẹ, và sự báo đáp công ơn bố mẹ.
(Xem: 12196)
Vu lan lại đến.Hiếu hạnh của con trẻ lại được nhắc đến. Nhưng đâu đó cũng thấy hiện lên các tiêu đề nói về việc con giết cha, hãm hiếp mẹ, những nghịch hạnh không ai có thể chấp nhận.
(Xem: 15360)
Tôi thấy tôi mất mẹ, mất cả môt bầu trời…
(Xem: 10621)
"Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền. Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên…Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối…"
(Xem: 11706)
Mẹ ơi tháng Bảy về rồi Là mùa hiếu hạnh tuyệt vời lên ngôi Nhớ ơn mẹ đã một đời Tảo tần mưa nắng tô bồi đời con
(Xem: 10626)
Mùa thu với tháng bảy mưa ngâu, với trăng thu diệu vợi, quê hương Việt nam chúng ta với biết bao vẻ đẹp êm đềm qua ánh trăng rằm tháng bảy Vu lan.
(Xem: 11093)
Sau khi đắc quả A-La-Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên vận thần thông đi khắp các cõi tìm người mẹ đã khuất.
(Xem: 10032)
Lễ hội Vu lan bồn hay còn được gọi một cách phổ biếnlễ hội Cô hồn là một sự kiện quan trọng ở Trung Quốc vì nó được nối kết với việc thờ cúng tổ tiên.
(Xem: 10408)
Từ hơn mười năm qua, cũng có thể là xa hơn chút nữa, ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu hằng năm, đặc biệt là lễ cài hoa hồng, đã có sức lan tỏa mạnh mẻ ra ngoài khỏi khuôn viên những mái chùa Phật giáo
(Xem: 11418)
Theo truyền thuyết nhà Phật, Bà mẹ Mục Kiền Liên Là người không mộ đạo Báng bổ cả người hiền.
(Xem: 11017)
Tháng bảy mùa Vu Lan trời buồn âm u mưa sùi sụt trắng xóa con đê quê mẹ. Tháng bảy mùa Vu Lan mây buồn giăng giăng kín lối con về quê mẹ…
(Xem: 12937)
Rằm tháng 7 - đại lễ Vu Lan, tưởng niệm gương đại hiếu của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên) đối với mẹ trong cảnh khổ ngạ quỷ;
(Xem: 24396)
Lòng thương của cha mẹ sẽ pha thêm màu xanh cho bầu trời, tô thêm màu biếc cho đại dương; và gia đình này, trái đất này, với bàn tay chăm sóc của cha mẹ, sẽ là hành tinh xanh, mỹ miều, tươi mát hơn bao giờ.
(Xem: 12619)
Ta còn một dòng sông, dòng sông xưa uốn khúc những nỗi niềm cay cực với bóng mẹ lênh đênh tất tả chuyến đò đời.
(Xem: 10304)
Kinh Vu Lan hiện được dịch ra tiếng Việt và được phổ thơ để các Phật tử dễ đọc tụng và dễ nhớ
(Xem: 28686)
Mùa Vu Lan lại về với người con Phật, mang nhiều ý nghĩa thâm diệu, vừa siêu nhiên của lãnh vực tâm linh, vừa hiện thực với văn hóa nhân gian...
(Xem: 19360)
Cách đây hơn 10 năm tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Hoa Kỳ, các thành viên của Liên Hiệp Quốc đã đồng thuận mỗi năm lấy ngày Vesak của Đức Phật làm ngày Phật Đản của thế giới.
(Xem: 10954)
Cách đây hơn 26 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tại xứ Ấn Độ cổ xưa, cội nguồn của nền văn minh sông Hằng. Sự kiện trọng đại Đức Thế Tôn thị hiện vào cõi đời này thật là hy hữu.
(Xem: 23357)
Gần hai trăm nghìn người không phân biệt Tôn giáo, Quốc tịch, Chính đảng, ngày 10/05/2015 tại Đài Bắc Quốc tế Phật Quang hội tổ chức thiên Tăng, vạn Chúng Khánh chúc Phật đản, nhất tâm Thập nguyện báo Mẫu ân,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant