Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Năm Tỵ Kể Chuyện Rắn

13 Tháng Hai 201300:00(Xem: 15040)
Năm Tỵ Kể Chuyện Rắn
NĂM TỴ KỂ CHUYỆN RẮN

Năm Tỵ kể chuyện rắnTrong mười hai con giáp, rắn được xếp sau rồng; tuy nhiên cũng có thể nói ngược lại là rắn đứng trước rồng đến mười bậc trong vòng tròn mười hai địa chi. Và trong khi rồng là một ‘sinh vật’ chúng ta không thể nhìn thấy, ít nhất vào thời điểm này, và mang đầy màu sắc huyền thoại, thì rắn lại là một sinh vật có thực và hiện diện xung quanh ta.

Cũng trong khi rồng là ‘sinh vật’ chỉ tồn tại (nơi niềm tin) ở một vài xứ sở, chẳng hạn như ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật BảnViệt Nam, thì rắn tồn tại khắp nơi, trừ những nơi rắn không thể sống được do những điều kiện nào đó.

Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn; nhưng rắn thì có, với đầy đủ các cung bậc. Trong tiếng Sanskrit, rắn được gọi là nāga. Nhưng từ nāga trong tiếng Sanskrit và Pāli không chỉ có nghĩa là rắn, mà cũng có nghĩa là con voi. Mặc dù trong Phạn ngữ nāga có nghĩa là rắn nói chung, thì lắm lúc khi đề cập đến từ này người ta liền liên tưởng ngay đến một loại rắn chúa, rắn thần. Có một từ khác trong tiếng Sanskrit cũng chỉ cho rắn, đó là từ sarpa, nhưng rắn sarpa này thường ít mang màu sắc huyền bí hơn là rắn nāga. Trong niềm tin dân gian của người Ấn, trước thời kỳ Phật giáo, nāga là một loại rắn hổ mang bành có bảy đầu.

Như vậy, từ nāga vốn có nghĩa là rắn. Nhưng rồi khi từ này được truyền vào một vài quốc gia như Nhật Bản, Trung Quốc… thì thường được dịch là rồng (long), hơn là rắn (xà), nhất là trong những ngữ cảnh khi nāga được đề cập đến như là một sinh vật thiêng liêng. Điều này có lẽ do sự ‘tiếp biến’ văn hóa, nơi tín ngưỡng rồng phổ biến, và khi rồng được xem là một ‘sinh vật’ thiêng liênghình ảnh của nó cũng được dùng trang trí ở những nơi chốn trang nghiêm.

Giống như rồng (龍) là sinh vật huyền bí (một trong tứ linh) của Trung Quốc, rắn (nāga) được xem là một sinh vật linh thiêng trong đời sống văn hóatôn giáo Ấn Độ. Nāga được xếp vào một trong ‘bát bộ’, là á thần, bởi vì được cho là có những ‘thần lực’ nhất định. Bát bộ bao gồm: Deva (thiên), Nāga (rồng, rắn), Yaksa (thần dạ-xoa), Gandharva (càn-thát-bà: nhạc thần), Asura (thần a-tu-la), Garuda (ca-lâu-na: chim đại bàng), Kinnara (khẩn-na-la: nhạc thần của Đế Thích), Mahoraga (Ma-hầu-la-gia: thần đầu rắn mình người).

Nơi niềm tin của người Ấn, nguồn gốc của rắn được cho là có liên hệ với thần linh. Theo Varāha Purāa, một trong các thánh thư của Ấn giáo, con trai của Phạm vương (Brahma) là Kashyapa có bốn người vợ. Người vợ đầu sinh ra các Deva (thiên), người vợ thứ hai sinh ra Garuda (chim), người vợ thứ ba sinh ra Nāga (rắn), và người vợ thứ tư sinh ra Daitya (quỷ). Từ câu chuyện được đề cập ở trong cuốn sách này, rắn như vậy có những liên hệ ‘huyết thống’ với thần linh. Thêm nữa, theo vũ trụ luận của người Ấn, núi Meru là ngọn núi trung tâm của vũ trụ, và là nơi cư trú của Phạm thiên và những thần linh khác, và rắn (nāga) là sinh vật bảo vệ ngọn núi này bằng cách cuốn mình quanh ngọn núi.

Không biết có phải từ nguyên nhân này hay không mà rắn được tôn kínhthờ phụng như một vị thần ở trong Ấn giáo. Ở trong nhiều ngôi đền của Ấn giáo, người ta đã thờ phượng rắn như là một vị thần thực thụ. Và tại nhiều ngôi làng ở Ấn, người ta tôn trí trong nhà những tranh tượng rắn, và thậm chí dâng cúng trứng và sữa cho những tranh tượng rắn này. Người Ấn giáo cũng có lễ hội về rắn thần, tưởng niệm ngày sinh của rắn thần và ngày này được gọi là Nāga Panchami. Rắn cũng trở thành vật gần gũi và thân cận với các vị thần của Ấn giáo. Ví dụ như thần Shiva thường quấn một con rắn ở nơi cổ; còn sàng tọa của thần Krishna lại là một con rắn.

Rắn trong Ấn giáo cũng biểu tượng cho sự tự do, bởi vì nó là một sinh vật được cho là không thể thuần hóa. Nhưng điều này chưa hẳn đã đúng, bởi vì nhiều nơi trên nước Ấn, các đạo sĩ và ngay cả những thường dân, đã ‘thuần hóa’ được rắn. Họ có thể sai bảo rắn huýt gió hay điều khiển rắn múa theo điệu kèn hoặc sáo…. Không rõ là người ta có sử dụng ‘phép thuật’ hay nhưng bí quyết gì để bắt rắn phải phục tùng theo ý muốn của họ như vậy hay không, nhưng rõ ràng là rắn có thể bị thuần phục bởi con người. Người Ấn giáo cũng tin rằng rắn (thần) có thể đem đến tài sản, sức khỏe, hạnh phúc cho con người, và sẽ giúp con người khi họ gặp phải những khó khăn trong đời sống. Nhưng dù rắn thần được xem là sinh vật thiêng liêng, thì sinh vật này vẫn ở dưới sự điều khiển của hai vị thần Shiva và Krishna.

Nơi cư trú của nāga thường được cho là gắn liền với nước, chẳng hạn như dưới đáy sâu của đại dương, sông, hồ… Vì đời sống gắn liền nước, nên nāga cũng biểu trưng cho sự sinh sôi nảy nở. Và cũng vì là sinh vật gắn liền với nước, nên theo huyền thoại, nāga có thể tạo nên mưa gió.

Tuy nhiên rắn không phải luôn được coi là một sinh vật hiền thiện ở trong Ấn giáo, mà đôi khi cũng bị coi là một sinh vật nguy hiểm. Trong Mahabharata, một thánh điển quan trọng của Ấn giáo, rắn được miêu tả như là một sinh vật hung ác và có khuynh hướng làm hại kẻ khác. Rắn (nāga) cũng có kẻ thù không đội trời chung của nó, đó chính là chim Garuda. Cả Nāga và Garuda có cùng cha là Kashyapa, nhưng do vì sự bội bạc của Kadru, mẹ của Nāga, mà hai sinh vật này trở thành kẻ thù truyền kiếp của nhau.

Trong Phật giáo, rắn (nāga) xuất hiện khá thường xuyên trong kinh điển. Chúng ta có lẽ đều biết đến câu chuyện rắn thần Mucalinda (Muchalinda nāga) đã che mưa bão cho Đức Phật khi Ngài thiền định bên một gốc cây trong những ngày mưa gió. Chuyện kể rằng, vào tuần thứ sáu sau khi giác ngộ, khi Đức Phật đang thiền định bên gốc cây Mucalinda thì mưa to ập xuống và kéo dài trong bảy ngày liền. Ngay khi ấy, một con rắn chúa từ dưới đất bò lên đã che mưa gió cho Ngài bằng cách cuốn bảy vòng quanh mình Ngài và vươn đầu phồng to ra để che ở phía trên, với suy nghĩ: không để Đức Thế Tôn bị mưa lạnh. (Xem thêm Udana 2.1, kinh Mucalinda). Từ câu chuyện này, những người tạc tượng về sau đã tạc hình Đức Phật ở tư thế ngồi thiền, có một con rắn bảy đầu che ở bên trên. Rắn ở đây như là một sinh vật khôn ngoan, biết hộ trì những bậc thánh, và cũng có thể được cảm hóa.

Trong Buddhacarita sagraha sūtra, cũng có kể lại câu chuyện tương tự với câu chuyện trong Udana, nhưng ở đây có thêm một số tình tiết: sau khi Đức Phật giác ngộ bên cội bồ-đề ở Bodhgaya, có một con rắn (nāga) chúa màu đen bò đến đảnh lễ Đức Phật và sau đó thỉnh Ngài viếng thăm nơi cư trú của mình. Đức Phật chấp nhận lời thỉnh cầu và trú tại nơi của nāga suốt bảy ngày liền. Sau đó Đức Phật quy y cho rắn chúa, truyền cho nó Tam quyNgũ giới. Và rắn chúa này là sinh vật, không thuộc loài người, đầu tiên quy y Tam bảo. Sau đó một rắn chúa khác có tên là Mucilinda viếng thăm Đức Phật và đã che mưa bão cho Ngài trong suốt bảy ngày. Và sau bảy ngày thiền định của Đức Phật và khi mưa gió chấm dứt, rắn chúa này thỉnh mời Ngài đến trú xứ của mình và sau đó quy y Tam bảo.

Nhưng trong kinh điển Pāli, qua những ẩn dụ và những trường hợp cụ thể, rắn cũng cho thấy là một sinh vật có thể gây hại, không hoàn toàn thân thiện và huyền bí. Hẳn nhiên là với những loài rắn độc, nếu không thêm thắt những màu sắc huyền bí, chúng có thể tấn công và gây hại cho ta khi ta vô tình dẫm đạp, hay có hành động tấn công chúng. Kinh Tăng chi có đề cập đến trường hợp một Tỳ-kheo đã bị rắn cắn chết (Tăng chi bộ IV: 67). Và khi biết được vấn đề này, Đức Phật nói rằng nếu vị Tỳ-kheo ấy trải lòng từ đến loài rắn, thì đã không bị con rắn ấy cắn chết. Và lòng từ, theo bài kinh này, là phương cách ngăn chặn các loài rắn, cũng như những ác thú khác, làm hại.

Trong kinh sách, rắn cũng được đem ra làm ẩn dụ cho việc đọc, hiểu và thực hành kinh điển. Một người học giáo pháp với mục đích khoái khẩu biện luận, để chỉ trích người khác, không học pháp với mục đích tu tập cho việc giác ngộ giải thoát, thì người này được coi là bắt rắn ở lưng hay ở đuôi, có thể bị con rắn đó quay lại cắn. Tức muốn nói rằng, một người học pháp với mục đích như vậy thì chỉ tạo thêm khổ đau mà không được ích lợi gì. Còn người học pháp khôngmục đích khoái khẩu biện luận hay chỉ trích người khác, mà học pháp với mục đích áp dụng tu tập để đạt đến giác ngộ giải thoát, thì người này được cho là đang bắt rắn nơi cổ, không bị rắn gây hại (Xem Trung bộ, kinh Ví dụ con rắn, số 22).

Trong Phật giáo, rắn (nāga) đôi khi được mô tả như là một sinh vật có tâm hộ trì kinh sách. Theo truyền thống Phật giáo Đại thừa, kinh Bát-nhã (Prajñāpāramitā) mà Đức Phật thuyết trên núi Linh Thứu đã được nāga (thường được dịch là rồng, hơn là rắn) lưu giữ ở dưới Long cung (nāgarāja). Và về sau Bồ-tát Long Thọ (Nāgārjuna) đã xuống Long cung để mang những kinh sách này lên cho loài người.

Ấn Độ, một vài nơi chốn linh thiêng đôi khi được cho là nơi có nāga cư ngụ. Trong Đại đường tây vực ký, khi nói về Đại học Nalanda, ngài Huyền Trang cho rằng tại khu vực Đại học Nalanda tọa lạc, trước đó có một hồ nước và có một con rồng/rắn (nāga) chúa tên là Nalanda sống, nên ngôi tự viện được xây dựng ở đây đã được đặt tên theo tên con rồng/rắn này. Và về sau, ngôi tự viện này đã trở thành một trung tâm học thuật nổi tiếng của Phật giáo đó là Đại học Nalanda.

Xa hơn nữa, nāga cũng được phân chia thành năm ‘đẳng cấp’ tương ứng với năm đẳng cấp: Brahmin (tu sĩ), Kshatriya (chiến sĩ), Vaishya (thương nhân), Shudra (lao động chân tay), và Chandali (thành phần cùng đinh). Tuy nhiên, qua các tài liệu mà tôi đọc được, đã không thấy đề cập đến những loại rắn nào tương ứng với đẳng cấp Bà-la-môn, và những loài nào tương ứng với đẳng cấp Thủ-đà-la… Trong Tăng chi bộ (IV: 67) ta thấy có đề cập đến bốn loại rắn chúa, đó là: Virupakkha, Erapatha, Chabyaputta, và Gotamaka. Và trong Trường bộ, kinh Ðại hội (Maha-samaya Sutta, kinh số 20), Virupakkha được cho là ‘Chúa tể loài Nāga’, tức là vua của các loài rắn.

Như vậy, từ những gì được trình bày ở trên, ta thấy hình ảnh của rắn được con người thể hiện khá sinh động. Rắn vừa là một sinh vật ít nhiều gây cho con người sự sợ hãi bởi nòng độc của nó, nhưng cũng vừa là một sinh vật gắn liền với những huyền thoại, và lắm khi được gán cho là sinh vật biết tu luyện. Rắn đôi khi còn được phong ‘thần’ và trở thành rắn thần, và mỗi khi trở thành ‘thần’ thì hẳn nhiên sẽ trở thành đối tượng thờ bái của một số người.

Nghiệp Đức
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31305)
Tôi tin hy vọng rằng tất cả người dân Nepal nhân mùa lễ này hãy chuyển hóa những vụn vỡ để có thể làm cho mọi thứ trở nên nhẹ nhàng hơn trong cuộc sống giống như thông điệp của Đại lễ về giá trị con người.
(Xem: 10451)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11140)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12623)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10735)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16470)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10738)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22766)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 11910)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11413)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10585)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12251)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11096)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 9937)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10239)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11793)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10612)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12254)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9706)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11178)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13748)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9507)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12524)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9608)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10340)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10434)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10208)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9799)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 10982)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 11933)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10076)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10696)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9461)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9816)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8694)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9417)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14436)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8703)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12447)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10329)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 8981)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10472)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9237)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8709)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10419)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9068)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8286)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 11923)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9629)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10145)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10165)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 18967)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9335)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8912)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9493)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 8931)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14657)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10021)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8271)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8820)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8883)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8662)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9257)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14451)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 8956)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8673)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 8963)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10437)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8546)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9911)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24143)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10079)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 10947)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8911)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9382)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 7938)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9176)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15238)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10248)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9476)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17278)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21215)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12065)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10155)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19096)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 25831)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7902)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14664)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10554)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11267)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9436)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18484)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12260)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11793)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10610)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13244)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9898)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9193)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9298)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15721)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant