Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tình Mẹ Trong Phật Giáo

22 Tháng Tám 201300:00(Xem: 13961)
Tình Mẹ Trong Phật Giáo

TÌNH MẸ TRONG PHẬT GIÁO


Karen Villanueva
Nguyên Hiệp dịch

tinhmautuPhật giáo ngập đầy những hình tượngẩn dụ về tình thương tối thượng giống như tình thương lý tưởng của một người mẹ dành cho con của mình. Trong triết học Phật giáo, không có tình thương nào lớn hơn tình thương của một người mẹ dành cho con của mình, và cũng không có sự hy sinh nào lớn hơn việc một người mẹ xả thân cho việc sinh nở một người con. 

Thiên chức làm mẹ như vậy được kính trọng vì những bài học của nó về tình thương và sự hy sinh. Tuy nhiên, thiên chức làm mẹ cũng bị phê bình bởi sự chấp thủ vào con cái, do vì ngang qua sự chấp thủ này mà người ta nếm trải khổ đau. Bài viết này xem xét tình thương của một người mẹ được lý tưởng hóa trong nhiều bản kinh Phật và những bài viết khác như là một tấm gương của tình thương phổ quát, Trung đạo, và con đường Bồ-tát. Bài viết cũng thảo luận về vai trò của thiên chức làm mẹ trong những nền văn hóa chịu ảnh hưởng tinh thần gia trưởng cũng như văn hóa Phật giáo, đặc biệt ở Trung Hoa truyền thống.

Theo triết học Phật giáo, mọi người vốn có khả năng chuyển hóagiác ngộ. Mặc dù không có khái niệm tội lỗi, nhưng lại có khái niệm về sám hối. Ngược lại trong văn hóa phương Tây, hầu hết mọi người được dạy rằng họ là những người có tội từ lúc mới chào đời. Đối với phụ nữ trong xã hội Thiên Chúa giáo, tội lỗi này đã được truyền thừa từ người mẹ đầu tiên, Eve, người đã dám tìm kiếm tri thức. Trong tư tưởng Phật giáo, không có một sự áp đặt chống lại phụ nữ như vậy. Tuy nhiên, những nền văn hóa chịu ảnh hưởng tư tưởng gia trưởng của phương Đông cũng đã điều chỉnh triết học Phật giáo cho thích hợp với tập quán của họ. Nhưng, bất chấp những cấu trúc gia trưởng, thiên chức làm mẹ và những gì chúng ta học được từ mẹ chúng ta, tình yêu thương và sự chăm sóc của mẹ dành cho chúng ta là những đứa con, lý tưởng Bồ-tát, là một đại lộ đưa đi đến sự an bình.

Tình thương phổ quát

Trạng thái thương yêu phổ quát và không điều kiện dành cho tất cả chúng sanh được gọi là mettā, tâm từ. Mục đích của mettā là mong ước mọi người được hạnh phúc. Nó không có điều kiện. Nhưng trước khi trải lòng thương đến với người khác, ta phải yêu thương chính mình. Đức Phật dạy rằng nếu bạn có thể giữ được tâm yêu thương dù trong thoáng chốc, bạn cũng có thể đạt được Niết-bàn, chân lý tối thượng (Dharmasiri, n.d.: 43).

Phát triển một tâm thức đầy ắp lòng từ bi giúp bạn thoát khỏi khổ đau của tự kỷ và chấp thủ. Để hoàn thiện điều này, Đức Phật khuyến khích những đệ tử của Ngài hãy nỗ lực phát triển một tâm thức đầy đủ từ-bi-hỷ-xả (Bodhi, 1995: 43:l). Bốn phẩm chất này được gọi là Bốn Phạm trú (Brahma-vihāra), hay Bốn vô lượng tâm, trong đó điều đầu tiên là tâm từ (mettā).

Tâm vô lượng thứ hai, tâm bi (karuṇā), là ước muốn chấm dứt khổ đau của người khác. Người mẹ lý tưởng của Phật giáo hiện thân mẫu người hy sinhtình thương vô ngã đối với con mình. Theo một Phật tử và cũng là một tác gia, Sharon Salzberg (1995):

“Chính tâm bi gỡ bỏ đi thanh chắn nặng nề, mở ra cánh cửa đưa đến tự do, [và] khiến trái tim chật hẹp mở rộng ra khắp thế giới. Tâm bi đưa điều nặng nề xơ cứng ra khỏi trái tim; nó trao đôi cánh cho những người đang bám chặt vào vùng đất tự ngã” (trang đầu sách).

Chúng ta có thể mường tượng tâm bi hiện thân như một người mẹ từ tâm mà mỗi suy nghĩ và hành động của bà đều mang mục đích chữa trị cho đứa con bị bệnh của mình. Chính người mẹ với lòng từ bi nói với những đứa con thơ dại của mình rằng đời sống giống như những lớp sóng trên đại dương, chỉ là một phần của tổng thể. Mỗi cơn sóng tràn bờ và rồi sẽ quay trở lại đại dương nơi nó xuất phát.

Lòng từ bi cũng là sự hiểu biếtchấp nhận. Nó phá bỏ đi những thanh chắn nhị nguyên được tạo ra bởi văn hóa gia trưởng. Lòng từ bi là mong muốn tất cả chúng sanh được thoát khỏi khổ đau. Sự hiểu biếtchấp nhận này là mô tả tình thương không điều kiện của một người mẹ dành cho đứa con của mình. Nếu chúng ta có thể yêu thương nhau như một người mẹ yêu thương con mình thì chúng ta sẽ biết rõ lòng từ bi.

Vui với sự may mắn và điều tốt lành của người khác được gọi là muditā, tán thán hay hoan hỷ, Vô lượng tâm thứ ba. Đây là một trạng thái xả kỷ, vắng mặt hoàn toàn sự đố kỵ hay ghen tị. Muditā là một khái niệm xa lạ đối với những xã hội phương Tây. Muditā nhấn mạnh rằng chúng ta không xem những nguồn vui như là số lượng có hạn. Chẳng hạn như một người mẹ luôn có đủ tình thương dành cho tất cả những đứa con của mình, nhưng cũng có đủ niềm vui để bày tỏ đối với sự thành công của người khác.

Tứ vô lượng tâm thứ tư là xả (upekṣā), là một trạng thái của tình thương, lòng từ bi, và sự hoan hỷ đối với hạnh phúclợi ích của người khác. Xả không phải là sự thờ ơ lãnh đạm. Là một người mẹ, xả là sự nhận thức rằng mặc dù bạn yêu thương tất cả con cái của mình một cách bình đẳng, tính khí của chúng đòi hỏi bạn cư xử với chúng khác nhau. Ví dụ, một đứa trẻ thường hay bị ốm thì đòi hỏi có nhiều sự quan tâm hơn đối với sức khỏe của nó, trong khi đứa khác giỏi ở trường thì đòi hỏi nhiều tự do hơn để tự khám phá, trong khi đứa thứ ba cần được khuyến khích nhiều hơn để làm giảm đi sự thiếu tự tin của nó. Một người mẹ yêu thương tất cả con mình trong khi nhận thấy rõ những nhu cầu cá nhân của chúng.

Trong những mối quan hệ của chúng ta đối với nhau, xả là nhận thấy rằng những mối quan hệ của chúng ta thường được xây dựng trên cảm tính: một lời khen hay ca ngợi có thể tạo nên một người bạn, trong khi một lời nói khó chịu hay phê bình tạo nên một kẻ thù. Xả là khả năng nhìn vượt thoát khỏi cảm tính và thiện cẩn, và nhận thấy rằng tất cả chúng ta mong muốn chúng ta và những người thương của chúng ta có được hạnh phúc. Mỗi khi chúng ta có được sự hiểu biết này chúng ta có thể xem tất cả chúng sanh theo cùng cách.

Xả cũng có nghĩa là sự cân bằng. Mục đích của Vô lượng tâm này là để cân bằng tình yêu thươnglòng từ bi của chúng ta đối với tất cả chúng sanh, và cân bằng những trạng thái cảm xúc chẳng hạn như hân hoan và nản chí, hoan hỷ và sầu lo. Nó đưa đến việc buông thoát mối sầu lo và sợ hãi về đời sống, về cái chết, và tin vào luật nhân quả, nghiệp báo.

Đối xử với tất cả chúng sanh bình đẳng là quan trọng trong ánh sáng của niềm tin Phật giáo vào việc tái sanh. Đức Phật dạy rằng rất khó để tìm ra một chúng sanh mà đó không phải là cha, mẹ anh chị hay con cháu của bạn trong một kiếp sống trước nào đó (Dharmasiri, n.d.: 45). Salzberg cho rằng ở trong vòng luân hồi vô tận, chúng ta đã từng có tất cả những điều này: thương, ghét, sợ hãi, giết hại, làm tổn thương, cưỡng bức, cứu giúp, phục vụ (1995: 185). Trong triết học Phật giáo, không có việc tách rời giữa các chúng sanh, không người nào là hạ đẳng hay thượng đẳng đối với người khác. Mỗi và mọi đời sống là tương quan và nối kết với nhau. Vị Đại sư của triết học Phật giáo, Nagarjuna (Long Thọ), đã nói:

“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”.

Trung đạo

Phật giáocon đường Trung đạo. Trước và từ thời điểm đản sanh của Đức Phật Thích Ca, nhiều nhà tầm cầu tâm linh đã hướng đến hoặc chủ nghĩa khổ hạnh hoặc chủ nghĩa khoái lạc như là một phương cách đạt đến giác ngộ. Sau khi đã thực hành theo cả hai cách thức và không tìm thấy được kết quả, Đức Phật khuyên chúng ta tự khám phá con đường rời bỏ những thái cực. Như Tỳ-kheo Narada nhấn mạnh:

“Như một người mẹ không tạo nên sự phân biệt giữa mình và đứa con duy nhất của mình và bảo vệ nó cho dù nguy hại bản thân, cũng như vậy người hành hương tâm linh thực hành theo con đường Trung đạo này phát khởi lòng tư bi thì đồng nhất bản thân với tất cả” (1988: 326).

Phật giáo dạy rằng bằng việc thực hành con đường Trung đạo này chúng ta có thể chấm dứt khổ đau và luân hồi sanh tửtìm thấy được sự giác ngộ.

Con đường Trung đạo bao gồm tám nguyên tắc sống mà được gọi là Bát Chánh đạo: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệmChánh định. Những tư duy về tình thươnghiểu biết được trao cho tất cả chúng sanh là những tư duy đúng. Đức Phật dạy chúng ta rằng tình thươnghiểu biết có khả năng chấm dứt khổ đau của tất cả chúng sanh (Nhat Hanh, 1991:33). Hiểu rằng trong đời sống có những khổ đau, mà nguyên nhân của khổ đau này là khát ái và tham chấp, và rằng con đường để chấm dứt khổ đau này là con đường Trung đạo - Bát Chánh đạo, là bản chất của trí tuệhiểu biết đúng đắn (Rahula, 1978: 49).

Vai trò của thiên chức làm mẹ

Trong một vài quốc gia phần lớn theo Phật giáo như Sri Lanka, phụ nữ thường được gọi là matugama, một từ Pāli mà nó có nghĩa là “mẹ công chúng”, hay “xã hội của những người mẹ” (Narada, 1988: 311). Trong những nền văn hóa chịu ảnh hưởng chế độ gia trưởng như vậy, một trong ít cách thức mà một phụ nữ có thể có được một vị trí cao quý là thiên chức làm mẹ. Trong suốt thời đại của Đức Phật Thích Ca, người ta mong muốn rằng một phụ nữ có thể sinh nở và làm mẹ, mười đứa con là con số lý tưởng (Murcott, 1991: 75). Thiên chức làm mẹ được xem như là “một chiếc thang tiện ích đi lên cõi trời”. Bằng việc làm tròn thiên chức làm mẹ, một phụ nữ được tái sanh về những cảnh giới cao (Narada, 1988: 311).

Tuy nhiên, một phụ nữ có thể có được sự tôn kính cao qua việc trở thành một người mẹ. Trong cuốn The First Buddhist Women: Translations and Commentaries on the Therigatha Susan, Murcott trích dẫn Brahman Vaisista khi khẳng định:

“Người thầy cao quý hơn vị trợ giáo mười lần, người cha cao quý hơn người thầy 100 lần, và người mẹ cao quý hơn người cha 1.000 lần” (1991: 77).

Lama Tsering Everest dạy rằng trong truyền thống Đại thừa, không có hành động nào cao quý và đáng kính hơn việc gánh chịu đau đớn để cho một chúng sanh khác được sanh làm người và có cơ may đạt được giác ngộ (Mandell, 1995: 57).

Một người mẹ như vậy là hiện thân của trí tuệ, lòng tự trọng, sức mạnh, niềm tự hào, lòng từ bi, danh dự, quan tâm, lắng nghe, tử tế, hợp lý, tha thứthương yêu. Tình thương của người mẹ lý tưởng có thể xem như một hình mẫu dành cho tất cả mọi tình thương:

“Nếu chúng ta suy ngẫm về lòng thương yêu của mẹ chúng ta đối với chúng ta, lòng yêu thương của chúng ta dành cho mẹ sẽ tăng trưởng. Trước khi chúng ta chào đời, chúng ta được bảo bọc và được nâng niu ôm ấp trong bào thai mẹ… Sự hiện diện của chúng ta ở đó không chỉ là một gánh nặng vật lý to lớn đối với mẹ, mà cũng là một trách nhiệm tước đi sự tự do trong hành động của mẹ… Vào lúc sinh, chúng ta gây nên đau đớn cho mẹ, tuy thế mẹ quên đi điều này vào lúc ấyvui mừng như thể bà tìm thấy một viên ngọc quý. Chúng ta không kiểm soát được những chức năng vật lý của chúng ta, tuy thế mẹ không cảm thấy khiếp sợ đối với việc nôn mửa hay đại tiện của chúng ta và chăm sóc chúng ta một cách từ ái… Không có sự chăm sóc thường xuyên của mẹ chúng ta sẽ không thể hiện hữu lúc này” (Murcott, 1991: 77).

Tình thương của một người mẹ là phẩm hạnh, nhưng không phải người phụ nữ nào cũng có thể sinh ra một vị Phật. Bà phải là một người mẹ hiền thiện. Một người mẹ sinh ra một vị Phật là “đặc biệt trong mọi cách” (Paul, 1985: 63). Trong việc chuẩn bị cho việc hạ sinh Đức Phật Thích Ca, Hoàng hậu Maya, mẹ của Ngài, nguyện với Vua Suddhodana là chồng của bà rằng, bà sẽ không làm hại bất kỳ sinh vật sống nào cũng không trộm cắp, sử dụng các chất gây nghiện, nói lời phù phiếm, phỉ báng, nói dối, ghen tị, cũng không có cái nhìn sai quấy. Sự thật, bà sống một đời thanh bạch, “thân tình với tất cả”, và “thực hành 11 phẩm hạnh đạo đức” (Paul, 1985: 63). Hoàng hậu Maya qua đời sau khi hạ sanh thái tử một vài ngày và sanh về cõi trời Tusita.

Kinh Báo ân cha mẹ liệt kê ra mười ân hay sự hy sinh mà người mẹ dành cho con của mình:

Thứ nhất là bảo bọc và chăm sóc thai nhi.

Thứ hai là sinh sản khổ sở.

Thứ ba là quên hết mọi đau đớn sau khi sinh con.

Thứ tư là ăn đắng nuốt cay và dành ngon ngọt cho con.

Thứ năm là dành cho con chỗ khô ráo còn mình nằm chỗ ướt.

Thứ sáu là cho bú mớm và nuôi nấng.

Thứ bảy là tắm rửa, giặt giũ cho con.

Thứ tám là luôn thương nhớ con khi con đi xa.

Thứ chín là săn sóchy sinh vì con (vì con mà có thể phạm phải điều ác).

Thứ mười là thương yêu con suốt đời.

Diana Paul phê bình hình ảnh người phụ nữ trong Phật giáo Đại thừa, biện luận rằng “thiên chức làm mẹ biểu trưng cho sự khổ, đau đớn, trói buộc và lệ thuộc” (1985: 61). Đối với Paul, trong Phật giáo Đại thừa, “Thiên chức làm mẹ rơi vào lĩnh vực trần tục, không phải thiêng liêng”, và mục đíchgiải thoát khỏi khổ đau và những xiềng xích khác của chức năng làm mẹ (61). Vì vậy, Paul khẳng định, “Người mẹ không thể thoát khỏi khổ đau hay thoát khỏi những trói buộc của đời sống bởi vì sự trói buộc của bà đối với con cái” (66). Thêm nữa, như được nhìn thấy trong kinh Báo ân cha mẹ, một phụ nữ có thể bị trói buộcgiới hạn sâu sắc bởi vai trò người mẹ và mối liên hệ của bà đối với con cái (Paul, 1985: 65).

Thiên chức làm mẹ trong Phật giáo Trung Hoa truyền thống

Khi Phật giáo được truyền báthịnh hành ở những quốc gia khác, nó bị biến đổi bởi những ngữ cảnh văn hóa khác nhau mà ở đó nó hiện diện. Trung Hoa đáp ứng như một ví dụ chính xác bởi vì triết học Khổng giáo tồn tại trước đó và việc nhấn mạnh vào việc hiếu kính cha mẹ. Tác gia và cũng là sử gia về các tôn giáo Á châu, Alan Cole (1998) ghi nhận rằng ở Trung Hoa truyền thống, hiểu kính được biểu thị qua mối quan hệ cha con(2). Phật giáo ở Trung Hoa thì đặc biệt nhấn mạnh vào mối liên hệ giữa mẹ và con, mà sự hy sinh của một người mẹ cho con là một món nợ cần phải báo đáp. Việc báo ân này bao gồm việc dâng cúng cho những chùa viện địa phương vì những phục vụ thường xuyên và việc tụng đọc kinh kệ, một việc thực hành tạo nên phước đức và giúp hóa giải tội lỗi (Cole, 1998:3)... Lời cẩn báo là nếu con cái bỏ rơi cha mẹ, họ sẽ nhận lấy số phận không may (Cole, 1998: 207).

Phật giáo Trung Hoa truyền thống người ta nghĩ rằng phụ nữ về bản chấtnhiễm ô trong khi đàn ông thì ít ô nhiễm hơn. Bất kỳ điều thiện lành nào mà một phụ nữ có được đều đến từ việc nuôi dạy con cái (Cole, 1998: 10). Do đó, người vợ của con trai được xem như là một mối đe dọa cho lòng hiếu kính của người con trai khi cô có thể khiến cho chàng ta lơ là bổn phận và lấy tình yêu của chồng làm của riêng mình (Cole, 1998: 76). Trong kinh Báo ân cha mẹ, “tình mẹ” được công nhậnan toànnâng đỡ gia đình (Cole, 1998: 132), trong khi người con dâu có thể gây nên những phiền toái.

Thanh tịnhô nhiễm cũng được thể hiện nơi thân hình của người mẹ. Phần trên của người mẹ, mà nó bao gồm mặt và ngực, được xem là tốt, khi chúng là những nguồn nuôi dưỡng. Phần dưới của bà, vì khả năng sinh sản và máu huyết, được xem là chất ghê tởm ở trong vũ trụ (Cole, 1998: 230)…

Tuy nhiên, người mẹ cũng được biết đến như là “từ mẫu” (Cole, 1998: 29) và, do đó, không có tình thương nào mãnh liệt hơn một người mẹ dành cho con mình (Cole, 1998: 139). Trong kinh Báo ân cha mẹ, người con được khuyên quay trở về với tình thương này (Cole, 1998: 149)…

Trong khi trong những truyền thống Phật giáo khác người mẹ được đề cao vì những đặc điểm như trí tuệ, lòng từ bi, thì ở Trung Hoa, với ngoại lệ khái niệm Quan Âm, người nữ không có sự phát triển tâm linh cao (Cole, 1998: 227). Tuy nhiên, một người con được khuyên nên theo những chỉ dẫn của một người mẹ để có được sự bảo hộ của thần linh và có được số phận tốt (Cole, 1998: 269, n. 37)…

Con đường Bồ-tát

Một vị Bồ-tát mong muốn làm lợi íchhạnh phúc cho cõi đời. Cùng cách với một người mẹ yêu thương đứa con duy nhất của mình, một vị Bồ-tát thương yêu tất cả chúng sanh. Bồ-tát biết khổ đau mà đời sống sẽ gặp phải: đau đớn ưu sầu khi mất những người thương yêu, sự tàn phá của tuổi già, tật bệnh và cái chết…

Cho dù nam hay nữ, một vị Bồ-tát trở về nắm lấy vị trí của mình trên chiếc thang cuộc đời và trợ giúp những người mà mình có thể giúp đỡ. Phải có sự can đảm lớn lao để thực hiện thệ nguyện của Bồ-tát. “Tôi nguyện giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sanh, và tôi nguyện không vào Niết-bàn vô dư y mãi cho đến khi tôi cứu giúp chúng sanh cuối cùng đạt được Niết-bàn” (Dharmasiri, n.d.: 92).

Trong kinh Kalama, Đức Phật khuyên rằng người ta không nên theo Ngài ở nơi lời nói mà nên làm mọi nỗ lực để hoàn thiện bản thân. Đây là nguyên tắc hướng dẫn của Bồ-tát. Hoàn thiện chính mình là để nói rằng Đức Phật nhắc nhở về mối quan hệ và tương tác của chúng ta với tất cả đời sống. Con đường này bao gồm ba giai đoạn chính: những thực hành tín ngưỡng ban đầu; phát khởi tư tưởng giác ngộ; và thực hành các Ba-la-mật (Dharmasiri, n.d.: 89). Điều quan trọng nhất trong những Ba-la-mật này là trí tuệ Bát-nhã (Prajnaparamita), là “Mẹ của tất cả chư Phật”. Các Ba-la-mật là năng lượng của Mẹ Trí tuệ Bát-nhã hiển lộ một cách tự nhiên qua người thực hành chân thành (Boucher, 1997: 61).

Kinh Đại Bát-nhã được xem là một bản kinh nền tảng của Phật giáo Đại thừa và là lần chuyển Pháp luân thứ hai. Bản kinh tán dương trí tuệ viên mãn, Prajnaparamita (Boucher, 1997: 64). “Mẹ của tất cả chư Phật” sinh ra chư Phật và chư Bồ-tát thông qua trí tuệ của mình. Học giả Phật giáo, Joanna Macy (1991), gọi người mẹ này là “Mẹ của chư Như Lai”, “Mẹ của chư Bồ-tát”, “những chỉ dẫn của chư Như Laithế gian này” (109). Như vậy, trí tuệ được ca ngợi như hình ảnh của người mẹ…

Trí tuệ Bát-nhã bằng tình thương khai mở cho chúng ta thấy cuộc đời như nó thật sự là, không bằng sự áp đặt, ghì chặt chúng ta trong lòng mẹ, mà thông qua trí tuệ và cái nhìn thấu rõ của mẹ (Macy, 1991: 111). Đức Phật dạy rằng tất cả chúng sanh chịu khổ và do đó cần đến lòng từ bi của chúng ta. Bồ-tát vượt thoát khỏi nỗi khổ đau khủng khiếp này để giải thoát chúng ta như những người mẹ. Như những người mẹ, Bồ-tát thương yêu chúng ta như con của họ, đặc biệt là một đứa bé sơ sinh. Với lòng từ bi và tình thương tự nhiên, không yêu cầu thứ gì đền đáp, Bồ-tát hy sinh cuộc đời của họ để giải thoát khổ đau con người. Tình thương này là trọng tâm của lòng từ bi…

Kết luận

Như Walpola Rahula, một Tăng sĩ và cũng là sử gia nhận xét, “Tình thương của một người mẹ dành cho con của mình thì không kể là Phật tử hay con chiên: nó là tình thương người mẹ” (1978: 6). Tình thương người mẹ không chỉ riêng của Phật giáo. Hình ảnh của một người mẹ cho con bú là một trong những hình ảnh có sức thuyết phục mạnh mẽ nhất của tình thương con người (Davidson and Harrington, 2002: 71). An bình thật sự nằm bên trong mỗi chúng ta, cho dù ta là người Phật giáo, người Thiên Chúa giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo hay bất kỳ sự thực hành tâm linh hay tôn giáo nào khác trên thế giới, và nó có thể được tìm thấy bằng sự tái nối kết với sức mạnh của tình thương của mẹ chúng ta, không phải là chức năng làm mẹ bị đọa đày của chế độ gia trưởng mà là sự yêu thương thoát khỏi tội lỗi đã chăm sóc chúng ta khi ta là những đứa trẻ. Chia sẻ tình yêu thương này với cuộc đời như một người mẹ chia sẻ tình thương với con cái của mình là một đại lộ đưa đến hòa bình và có thể là món quà lớn nhất của ta dành cho người khác. 

Nguồn: Journal of the Association for Research on Mothering, Volume 7, Number 1, tr. 68-77.

 

Tài liệu trích dẫn
Bodhi, Bhikku. (Trans). 1995. The Middle Length Discourses of the Buddha: A New Translation of the Majj.hima Nikaya. Orig. trans. Bhikku Nanamoli. Boston: Wisdom Publications.
Boucher, Sandy. 1997. Opening the Lotus: A Woman’s Guide to Buddhism. Boston: Beacon Press.
Cole, Alan. 1998. Mothers and Sons in Chinese Buddhism. Stanford: Stanford University Press.
Davidson, Richard J. and Anne Harrington. 2002. Visions of Compassion: Western Scientists and Tibetan Buddhists Examine Human Nature. New York: Oxford University Press.
Dharmasiri, Gunapala. n.d. Fundamentals of Buddhist Ethics. USA: Golden Leaves.
Harderwijk, Rudy. “The Four Immeasurables.” Online: www.vajaguru.com/ fourimmeasurables.htm.
Hixon, Lex. 1993. Mother of the Buddhas: Meditation on the Prajnaparamita Sutra. Wheaton: Quest Books.
Macy, Joanna. 1991. World as Lower, World as Self: Berkeley: Parallax Press.
Mandell, J. 1995. “Buddhism and Mothering.” in K. L. Tsomo, ed. Buddhism Through American Women’s Eyes. Ithaca, NY: Snow Lion Publications.
Murcott, Susan. 1991. The First Buddhist Women: Translations and Commentaries on the Therigatha. Berkeley: Parallax Press.
Nagarjuna. n.d. “A Mother’s Love.” Quotation on Internet Address: pub88.ezboard.com/~ediacademyfrm34.showMessage?topicID=31.topic.
Narada. 1988. The Buddha and His Teachings. Kuala Lumpur: Buddhist Missionary Society.
Nhat Hanh, Thich. 1991. Walking in the Footsteps of the Buddha: Old Path, White Clouds. Berkeley: Parallax Press.
Nicholson, Upasika Terri (Trans.). n.d. “The Buddha Speaks the Sutra about the Deep Kindness of Parents and the Difficulty in Repaying It.” Chinese Trans. Master Kumarajiva. Internet Address: web.singnet.com.sg/ -alankhoo/Parents.htm.
Paul, Diana Y. 1985. Women in Buddhism: Images of the Feminine in the Mahayana Tradition. London: University of California Press.
Rahula, Walpola. 1978. What the Buddha Taught. Taiwan: The Corporate Body of the Buddha Educational Foundation.
Salzberg, Sharon. 1997. A Heart as Wide as the World: Living with Mindfuulness, Wisdom, and Compassion. Boston: Shambhala Publications.
Salzberg, Sharon. 1995. Loving-kindness: The Revolutionary y Art of Happiness. Boston: Shambhala Publications. 
 Karen Villanueva- Nguyên Hiệp dịch
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18565)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16101)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29915)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25497)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21632)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17836)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20843)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26364)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33375)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52198)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22902)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23426)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39685)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21811)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22402)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6871)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22745)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69851)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44056)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23112)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35069)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44120)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42942)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44442)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24930)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24399)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39259)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39271)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17279)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18073)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19290)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35716)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24255)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19615)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20428)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18330)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 19029)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18957)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17491)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19351)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30863)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19212)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20551)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19574)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19782)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29852)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17854)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19428)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19898)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58809)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24427)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23545)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39796)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26744)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40792)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22898)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22959)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21618)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18641)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22614)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21100)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19237)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20947)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20348)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30578)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20209)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17484)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16619)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16881)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14980)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14852)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22886)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16072)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16238)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15289)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26167)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17226)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15827)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19801)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17696)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14714)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14776)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19158)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15153)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33082)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17512)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19153)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21841)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23052)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16645)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16521)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16567)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 23015)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26423)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12764)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29540)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27747)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25960)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18482)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
(Xem: 15601)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant