Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Cái Chết Của Một Hành Giả

09 Tháng Bảy 201422:07(Xem: 11631)
Cái Chết Của Một Hành Giả

CÁI CHẾT CỦA MỘT HÀNH GIẢ
Những Ngày Cuối cùng của Thân phụ Thầy Khenpo Gawang

Khenpo Gawang


Một vài người đã yêu cầu tôi chia sẻ phần đời sau cùng của cha tôi.

khenpo_gawang

(Hình bên: Cha, Mẹ, Khenpo Gawang, và Chị)

Cha tôi, Dechen Chogyal, đã mất ngày 15 tháng Hai, 2011. Tháng Mười Hai năm 2010, cha tôi ở trong ẩn thất cùng mẹ tôi và chị tôi. Vào lúc đó, ông rất yếu và nói ông cảm thấy cuộc đời ông sắp chấm dứt. Mặc dù bắt đầu thấy khá hơn, từ địa điểm nhập thất ông di chuyển tới lều chăn trâu yak của gia đình ở trên núi cao.

Ông nói với người con trai trưởng là muốn gia đình chuẩn bị khắc vào đá cho ông ba quyển Kinh là Thời Hiền kiếp, Kinh Đại Giải thoát, và Kinh Vô Lượng Thọ. Con trai ông đã tiếp xúc với một tu viện để xin khắc ba quyển Kinh này và các viên đá được đặt ở một vị trí vô cùng đặc biệt mà Patrul Rinpoche đã gia hộ.

Sau đó cha tôi bắt đầu làm và nung những pho tượng nhỏ từ đất sét làm đồ gốm ở địa phương, người Tây Tạng gọi chúng là tsatsa. Thường thì cha tôi ngủ nhiều hoặc nghỉ ngơi trên giường trong khi tụng thần chú và quay kinh luân (bánh xe cầu nguyện). Bây giờ ông thức dậy lúc 5,30 giờ sáng và làm các pho tượng nhỏ suốt ngày. Từ cuối tháng Mười hai cho tới đầu tháng Giêng, cha tôi làm những pho tượng nhỏ này. Trong khi làm tượng, với vẻ vô tư, vui đùa, ông nói với những người láng giềng và các vị khách là ông sắp chết.

Vào đầu tháng Giêng, ông bắt đầu ăn những gì ông muốn. Ông yêu cầu cháu trai, cháu gái và cũng là những người hàng xóm của ông mang sữa và sữa chua lại cho ông. Họ sợ những món này không tốt cho ông nhưng ông nói: “Bây giờ sức khỏe và đời ta sắp hết, vì thế thật tốt khi ăn những gì ta muốn và hãy vui vẻ lên.” Cha tôi ngâm mình trong những con suối nóng ở địa phương, điều đó khiến ông rất yếu. Theo yêu cầu của những người khác trong gia đình, ông di chuyển về nhà của trưởng nam với hy vọng là anh ấy sẽ tìm được cách chữa trị.

Cha tôi biết là chẳng bao lâu nữa ông sẽ chết. Tôi gọi điện thoại trò chuyện với ông vào ngày 13 tháng Hai, khuyên ông đi bệnh viện. Ông nói: “Không, không, ba không muốn đi bệnh viện. Ba đang hỏi ý kiến một bác sĩ địa phương và đang bàn về thuốc của ông ấy. Nếu thuốc này chữa được thì nó sẽ giúp ba trường thọnếu không thì đời ba sẽ chấm dứt.” Khi bác sĩ đến, ông cho thuốc uống trong ba ngày. Sau này anh tôi kể lại là ba nói: “Bây giờ ba còn ba ngày để sống.”

Anh tôi nói lúc đầu khi ông đến thị trấn, một vài người trong gia đình tỏ ý muốn mua thuốc cho ông. Ông nhắc họ những lời của Đạo sưđại Liên Hoa Sanh, là bậc Thầy mà ông vô cùng kính ngưỡng, rằng loại thuốc tốt lành được dùng vào lúc chấm dứt cuộc đời là thuốc độc.

Anh tôi nói với tôi là tối ngày 13, ông mời tất cả những người thân thuộc và con cháu ở gần đó đến ăn tối. Ông nói: “Ta phải ăn uống với nhau và có một thời gian tuyệt diệu.” Sau khi họ ăn uống, ông nói: “Ta phải ngủ với nhau đêm nay.” Gia đình cố gắng chuyển giường của ông vào một góc yên tĩnh nhưng ông nói: “Không, tôi không muốn ở trong góc, tôi muốn ở giữa phòng. Ta sẽ cùng ngủ ở đây đêm nay.” Ông rất hài lòng về bữa ănyêu cầu giường của ông được để lại đúng chỗ trong phòng.

Tôi gọi điện thoại vào sáng hôm sau. Thoạt đầu cha tôi không muốn nói chuyện với tôi bởi ông lo là tôi sẽ yêu cầu ông đi bệnh viện. Khi tôi nói: “Không, con không muốn nói ba đi bệnh viện,” thì ông nói chuyện với tôi thật vui vẻ.

Chúng tôi đã có một cuộc trò chuyện tuyệt vời. Ông nói là ông không hối tiếc điều gì về cuộc đời của ông và không tham luyến bất kỳ điều gì. Ông nói: “Mọi điều ba ước muốn đã hoàn thành. Ba đã có thể thực hiện một chuyến hành hương vô cùng tốt đẹp đến mọi thánh địa. Ở mỗi nơi, ba đã cầu nguyệnhồi hướng công đức cho toàn thể chúng sinh. Ba không chỉ nghĩ đến bản thân mà còn nghĩ đến tất cả chúng sinh. Bây giờ, ba không có bất kỳ vấn đề gì. Ba không hối tiếc.”

Kế đó ông yêu cầu tôi là nếu có thể, hãy chăm sóc mẹ tôi chừng nào bà còn sống và tôi hứa là sẽ thực hiện điều đó. Tôi nói với ông: “Ba đã thực hành Pháp cả đời và thật là tốt khi ba không hối tiếc hay bám luyến.” Ông lại nói: “Ba không có bất kỳ hối tiếc hay dính mắc nào.”

Đây là cuộc trò chuyện cuối cùng của chúng tôi. Tôi nghĩ: “Tốt, ông vẫn ổn.” Tôi thoáng buồn, nhưng điều ấy có thể chịu đựng được. Tôi biết là ông thanh thảntỉnh thức, và đây là một cách chết tốt lành.

Hôm trước ngày cha tôi mất, ông vẫn còn rất mạnh mẽ, trò chuyệnthanh thản. Ông không lo lắng hay sợ hãi về cái chết và không cảm thấy đau đớn gì. Khi có người đến thăm, ông cho họ lời khuyên và một vài giáo lý. Ông nói với họ: “Hãy nhìn vào tình cảnh của quý vị thật cẩn trọng và làm những gì quý vị cần làm để duy trì đời sống của gia đìnhbản thân. Khi chết, quý vị không thể mang theo mình bất kỳ điều gì ngoại trừ Giáo pháp và trái tim cùng tâm thức tốt lành của quý vị.”

nui_garuda(Hình bên: Núi Garuda)

Ông nói: “Điều vô cùng quan trọng là phải luôn luôn hồi hướng đức hạnh cho tất cả chúng sinh.” Gần túp lều chăn trâu yak là một ngọn núi lớn tên là Núi Garuda (Núi Kim Xí Điểu) mà ông lấy làm ví dụ. Ông nói chúng ta cần tạo lập đức hạnh lớn gấp đôi Núi Garuda. Ông nói: “Không nên làm bất kỳ ác hạnh nào, cho dù vô cùng bé nhỏ, chẳng hạn như những hành vi quấy rầy tâm thức của người khác. Điều quan trọng nhất là luôn luôn có một trái tim tốt lành.” Ông lại nói: “Tôi không tham luyến hay hối tiếc. Đừng lo lắng cho tôi.”Rồi từ từ, trong tiến trình chết, ông không nói được nữa. Ông vẫn tỉnh thứcthư thái, với tâm trí minh mẫn. Khi những người khách đến, chẳng hạn như em trai và cháu tôi, họ có thể thấy là ông hiểu và nhận ra họ. Ông chạm nhẹ vào tim và chắp tay trong cử chỉ cầu nguyện như thầm nói những lời khuyên nhủ cuối cùng.

Trong toàn bộ tiến trình, ông không hề đau đớn hay rối loạn. Ông rất tinh tếminh mẫn, ngay cả trong tiến trình chết. Một tu sĩ là cháu trai của ông đứng ở bên cạnh và đọc Giải thoát Nhờ Sự Nghe trong Bardo hay Bardo Tödrol (Tử Thư Tây Tạng). Rõ ràng là ông hiểu những gì được đọc cho ông. Ông nói: “Tôi hiểu.” Hơi thở của ông ngắn dần và cuối cùng ngừng lại. Gia đình đã mô tả điều đó giống như một ngọn đèn bơ vụt tắt khi giọt dầu cuối cùng đã cạn.

Vài tuần trước tôi đã gọi cho chị tôi; chị đang nhập thất trọn đời trên núi cao. Chị có một điện thoại di độngchúng tôi đã lập kế hoạch để tôi gọi điện thoại. Vào lúc đó chúng tôi có một cuộc trò chuyện dài về cha tôi. Tôi nói là theo tôi nghĩ, cha cần nhận một vài chỉ dẫnhiện có một vài vị Thầy vô cùng vĩ đại đang nhập thất trọn đời ở gần đó và các ngài là bạn của ông.

Chị tôi nói: “Ba không cần nhận bất kỳ giáo lý hay chỉ dẫn nào. Ông đã nhận được tất cả những giáo lý đó ở trong tù, và đối ông như thế là đủ.” Mặc dù không đọc được, ông được nhiều vị Thầy vĩ đại thăm viếng trong nhiều năm và đọc cho ông, và ông hiểu biết nhiều.

Cha tôi trải qua nhiều năm trong một nhà tù Trung quốc vào đầu thập niên 1960. Vào thời gian đó ông đã nhận được những giáo lý tuyệt hảo từ các Lạt ma vĩ đại cùng bị giam giữ với ông. Ông nhắc đi nhắc lại lời dạy cốt tủy của các vị Thầy là phải thấy tình cảnh tệ hại ở Tây Tạng không chỉ là lỗi lầm của người Trung quốc mà còn bởi ác nghiệp của chúng ta được tiêu trừ. Các ngài nói: “Ta không nên cảm thấy sân hận, thù ghét và làm điều xấu ác đối với người Trung quốc. Thay vào đó, trước hết ta cần phát khởi lòng bi mẫnhồi hướng mọi đức hạnh của ta cho họ.”

Tôi xin chia sẻ một câu chuyện mà ông đã kể cho tôi về thời gian ông ở trong tù. Khi ấy ông ngủ cùng phòng với vị Thầy chính của ông là Lạt ma Ngasung. Một người bạn của cha tôi ở phòng bên cạnh. Nửa đêm, ông ta gọi lớn: “Ngasung, Ngasung, tôi sắp chết! Tôi nên làm gì?” Lạt ma Ngasung nói vọng qua tường: “A Di Đà ở phương bắc và màu đỏ.” Người bạn của ông gọi lại: “Phải, phải, đúng thế!” Đến sáng thì ông ta chết.

Như vậy bạn thấy là cha tôi đã nhận được những giáo lý tuyệt vời trong nhà tù của Trung quốc và ông đã gặp các vị Thầy vĩ đại. Cha tôi là một người chăn giữ trâu yak và mù chữ nhưng ông đã hiến mình cho Giáo pháp. Ông không đọc được nhưng có thể trì tụng nhiều thần chú như thần chú Mani và Kim Cương Đạo sư. Ông luôn luôn tụng những bài hồi hướng công đức và nguyện ước tất cả chúng sinh đều được giải thoát, không đau khổ và được hạnh phúc. Ông là người rất tốt lành.

tsatsa

Địa điểm làm Tsatsa

Trong cuộc trò chuyện đó với chị tôi bằng điện thoại di động, chị nói rằng cha tôi đang sống ở túp lều của người chăn trâu yak và làm những pho tượng nhỏ. Sức khỏe của ông đã khá hơn và ông thật tuyệt vời với rất nhiều phẩm tính tốt lành. Chị nói về thời gian ông sống trong ẩn thất với chị. Ở đó có một vài con dê bé xíu bị bỏ rơi vì mẹ của chúng đã chết. Chị nói ông xúc động đến nỗi bật khóc và chị cảm nhận sâu xa trái tim và lòng bi mẫn tốt lành của ông.

Trong suốt thời gian này mẹ tôi ởtrong ẩn thất cùng với chị tôi. Khi cha tôi bắt đầu yếu, mẹ tôi quyết định tụng một tỉ thần chú Mani để làm lợi lạc cho ông. Khi có dấu hiệu rõ ràng là ông sắp mất, một người em khác đến ẩn thất và hỏi mẹ tôi có muốn đến thị trấn thăm cha tôi không.

Bằng trí tuệ, mẹ tôi nói: “Mẹ không cần phải đi. Nếu đi thì mẹ phải ở đó một thời gian dài và không thể tụng thần chú như ở đây. Không ai sống mà thoát được tuổi già dẫn đến cái chết và sự thực là như thế đấy. Vì thế mẹ nên ở trong ẩn thất và tụng thần chú Mani.”

Mẹ tôi không bối rối hay khóc lóc mà vẫn tiếp tục thực hành và trì tụng thần chú Mani. Chị tôi, một sư cô nhập thất trọn đời, nói: “Bây giờ chính là lúc để ông ra đi và ông đã sẵn sàng. Cha mẹ già có thể chết trước con cái là điều đúng đắn. Nếu con cái chết trước mà cha mẹ đã già yếu, cha mẹ phải ở lại với khổ đau ghê gớm của tuổi già.”

Tất cả gia đình mở rộng và bạn hữu của tôi cảm thấy cha tôi đã chết đúng lúc với thái độ và cái nhìn đúng đắn. Ông có niềm tin to lớn ở Giáo pháp và không hối tiếc về cuộc đời mình. Ông không dính mắc vào bất kỳ điều gì và như thế thì rất tốt, bởi do bám luyến vào con người và mọi sự nên nhiều người thấy chết vô cùng khó khăn.

Cha tôi biết là mình sắp chết. Tâm ông rất minh mẫn, ông thanh thảntrò chuyện với từng người trong gia đình, cho họ lời khuyên tâm huyết. Gần đến lúc ra đi, trong khi vẫn còn nói được, ông lập đi lập lại: “Tôi sắp chết, vì thế cầu mong tôi nhận lãnh đau khổ của tất cả chúng sinh. Cầu mong tôi nhận vào mình bệnh tật, đau khổ và mọi vấn đề bởi tôi sắp chết.” Đối với những người có mặt ở đó thì rõ ràng là ngay cả khi ông không còn nói được nữa, ông vẫn cầu nguyện và giữ vững nguyện ước này.

Nhiều thế hệ trong gia đình tôi là các hành giả thuộc Dòng truyền thừa Nyingma. Bác tôi, người đã mất hai năm trước, lúc nào cũng có vẻ như đang thiền định. Bác có một năng lực nhờ việc trì tụng thần chú – khi có người bị thương, bác tụng một thần chú để có thể giúp đỡ họ. Tôi nhớ lại khi còn nhỏ, chúng tôi quấy rầy bác khi bác thiền định. Chúng tôi ẩn núp và gọi bác khi bác nỗ lực tập trung. Sau khi bác mất, thân thể bác ở trong tư thế thiền định ba ngày.

Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự. Cả hai người đều mù chữ nhưng thực hành của các ngài thật vững chắc và mãnh liệt.

Khenpo Gawang Rinpoche thuật lại. Candia Ludy và Ellie Maclin hiệu đính sơ lược.

Chú thích:

(1) Khenpo Gawang Rinpoche là nhà sáng lập và giám đốc tâm linh của Trung tâm Thiền định Pema Karpo ở Memphis, Tennessee. Sau khi đã hoàn tất hai mươi bảy năm như một tu sĩ, mười hai năm với nhiều kinh nghiệm giảng dạy, và chín năm nghiên cứu tại Đại học Phật giáo thuộc Tu viện Namdroling ở Nam Ấn Độ, ngài đạt được học vị Khenpo, một văn bằng Phật giáo tương đương với bằng Tiến sĩ. Gawang Rinpoche tới Hoa Kỳ năm 2004 theo lời mời của Sakyong Mipham Rinpoche và Tổ chức Quốc tế Shambhala. Ngài tự hào được trở thành một công dân Mỹ vào năm 2012. Ngài là tác giả quyển “YOUR MIND IS YOUR TEACHER – Self-Awakening through Contemplative Meditation”

http://www.shambhala.com/authors/g-n/khenpo-gawang.html
Nguyên tác: “The Last Days of Khenpo Gawang’s Father” by Khenpo Gawang
http://shambhalatimes.org/2011/04/20/the-last-days-of-khenpo-gawangs-father/Thanh Liên dịch sang Việt ngữ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11330)
Thông Bạch Phật Đản 2016 - Phật Lịch 2560 của Chánh Văn Phòng HĐCM GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 10423)
Phật Đản là ngày sinh của Đức Phật. Theo như trong kinh Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”,
(Xem: 10683)
‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo.
(Xem: 9646)
Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như ...
(Xem: 9444)
“Thị hiện Đản sanh”, là cụm từ được chỉ chung cho tất cả các bậc Thánh nhân, chư Phật, Bồ Tát khởi lên ý niệm tự phát nguyện...
(Xem: 12792)
Dòng đời cứ cuồn cuộn hay lặng lẽ mãi miết trôi, và mọi cảm nhận tiếp thụ của con người vẫn cứ lan chảy bất tận theo thời gian.
(Xem: 13157)
Phương cách tốt nhất giúp ta tỉnh giác khi hành Thiền là ta biết giữ hơi thở trong tâm.
(Xem: 13342)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 19684)
Thân thị Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời cần phất thức, Vật sử nhá trần ai.
(Xem: 12413)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 13136)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 13453)
Không biết tự bao giờ, mùa xuân được lấy làm biểu tượng của tâm hồn an lạcthanh tịnh.
(Xem: 12927)
Ngày xuân năm nay, chúng tôi sẽ đem đạo lý khuyến khích nhắc nhở tất cả Phật tử tinh tấn tu hành.
(Xem: 12283)
Nhân Tết con khỉ - Bính Thân, nên xin nói tản mạn về con khỉ, có liên hệ đến những ý tưởngquan niệm trong đạo Phật.
(Xem: 18436)
Hai bài kệ dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học, được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực...
(Xem: 10584)
Thiền Tôngpháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy.
(Xem: 12281)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi...
(Xem: 10879)
Năm cũ đã hết với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11093)
Cảm ơn Xin cảm ơn Trời đất bốn mùa thay nhau chuyển đổi Xuân sinh, hạ trưởng Thu liễm, đông tàn
(Xem: 14566)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát,
(Xem: 22332)
Bài này được viết vào khoảng tháng 11 năm 1991, có trong tác phẩm “Sân Trước Cành Mai,” xuất bản năm 1994.
(Xem: 11500)
Tết đã gần kề. Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam có cái chung nhưng cũng có những nét khác nhau tùy theo phong tục tập quán của từng vùng, miền.
(Xem: 10071)
Trong mùa xuân, thiên nhiên tự làm mới lại, con người cũng tự làm mới lại thân tâm mình, mọi vật đều cố gắng chuyển hóa thành mới, trong sạch, thanh tịnh.
(Xem: 34410)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 17572)
Ngày hết Tết đến nhìn thấy còn những người đau khổ chung quanh thì lòng mình không thể dửng dưng...
(Xem: 32529)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 21965)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 11116)
Ngoài kia, từng cánh én đang tung tăng chao lượn, dòng người thì tấp nập ngược xuôi trong tà áo mới, trên gương mặt ai nấy hân hoan rạng ngời
(Xem: 17414)
Tình yêu như bát bún riêu. Bao nhiêu sợi bún bấy nhiêu sợi tình.
(Xem: 17002)
Khách thập phương rảo bước quanh sân chùa, ngắm nhìn cảnh vật, cội mai già, nụ mai còn hàm tiếu.
(Xem: 10604)
Cụm từ trên không biết có tự bao giờ…? Thế nhưng từ lâu cho đến tận ngày hôm nay, thật sự đã đi sâu thẳm vào
(Xem: 10773)
Khi cây mai vàng chưa kịp đưa hương Và bờ cỏ đương đổi màu hoang tái Bóng chiều nghiêng cánh én còn ái ngại Vẫn nghe lòng vời vợi bước xuân phương
(Xem: 9472)
Vẫn mang chiếc áo lỳ năm tháng cũ Vẫn chiều nay, Bên khung cửa hôm nào Ta nhấp nháp chung trà hương viễn xứ
(Xem: 10535)
Cành mai năm trước, cành đào bây giờ vẫn một sắc hương, cội mai già nỉ non bung ra từng hé nụ, hoa đào đón gió tưng bừng khoe sắc hương.
(Xem: 10553)
Hãy nhìn lại thật gần, thật kỹ, những gì đang có trong lòng bàn tay. Mùa xuân không ở đâu xa. Mùa xuân ở nơi ấy.
(Xem: 10471)
Tâm giống như con khỉ (kapicitta) là một thuật ngữ, đôi khi Đức Phật dùng để diễn tả các hành-vi lo-lắng, khuấy-động,
(Xem: 12383)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 12342)
Tôi không có tham vọng viết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882)
(Xem: 9921)
Năm mới, chúng ta đón chào một mùa xuân mới được nhiều phước lộc, và học thay đổi cách sống mới để làm đời mình thêm tươi vui, hạnh phúc.
(Xem: 13103)
Hiện nay, ở một số chùa có trưng bày tượng ba con khỉ trong sân chùa. Nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc cũng như...
(Xem: 9639)
Thay đổi cuộc đời trong Năm mới chính là Làm mới chính mình, nuôi dưỡng suối nguồn hạnh phúc.
(Xem: 9047)
Thành đạo còn gọi là Đắc Đạo, chứng đạo, đạt đạo, thành tựu đạo quả.
(Xem: 11734)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 13364)
Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác. Bất cứ làm điều gì, các ông phải làm với chánh niệm.
(Xem: 11962)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ.
(Xem: 11201)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11508)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10241)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10159)
“Từ Thị Di Lặc” nghĩa là : người mang chủng tánh Từ Bi, rộng đức bao dung, hòa ái, êm dịu, luôn đem lại sự an lành hạnh phúc cho mọi người và cho cả cuộc đời.
(Xem: 10818)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 28053)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 10718)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 7333)
Lúc gần đây, khi tôi vào trang mạng của Dzogchen Ponlop Rinpoche đọc một bài viết có tựa đề là "Đạo Phật Là Một Tôn Giáo, Có Đúng Không?", tôi đã ngạc nhiên vì một số ý-kiến của người-đọc ở phần bên dưới bài viết
(Xem: 9256)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 11689)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11584)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 10997)
Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng.
(Xem: 10201)
Thiền quán là nhìn một cách tĩnh lặng. Nhìn sự vật “như nó là”, không suy luận, không biện giải, không phê phán…
(Xem: 10161)
Ba viên ngọc quý Phật, Pháp, Tăng mà ai cũng có đầy đủ đều không ngoài Bản Tâm Tự Tánh mình.
(Xem: 13706)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 14788)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10406)
Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay một quan niệm thuộc về tri thức.
(Xem: 11792)
Phải chăng trường đời là nơi tranh danh đoạt lợi, hay chính là do mầm tham ái ở tại lòng mình mới là động cơ sinh ra mọi sự?
(Xem: 10758)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10425)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10519)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9798)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10552)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 9184)
Hãy nghe ĐỨC PHẬT định nghĩa về thiền : « Ở đây nầy các Tỳ Kheo, vị tỳ kheo đi đến khu rừng dưới một gốc cây hay đi đến chỗ nhà trống và ngồi kiết già lưng thẳng...
(Xem: 9860)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10082)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10386)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10517)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10430)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10000)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9722)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13396)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16184)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13358)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 11445)
Tôi đã nhận được một món quà tặng quan trọng nhất từ bố tôi: đó là niềm tin về tôn giáo. Suốt đời tôi, tôi sẽ nhớ ơn bố tôi. Vì, bố là vị Bồ Tát của tôi.
(Xem: 11033)
Năm nay, Vu Lan khởi sắc một cách khác thường. Từ ngày 14 âm lịch đến rằm, lượng số người đi lễ như trẩy hội. Một số con đường chính đều bị tắt nghẽn giao thông.
(Xem: 10999)
Đạo Phật dạy về tầm quan trọng của sự kính trọng bố mẹ, và sự báo đáp công ơn bố mẹ.
(Xem: 12104)
Vu lan lại đến.Hiếu hạnh của con trẻ lại được nhắc đến. Nhưng đâu đó cũng thấy hiện lên các tiêu đề nói về việc con giết cha, hãm hiếp mẹ, những nghịch hạnh không ai có thể chấp nhận.
(Xem: 15223)
Tôi thấy tôi mất mẹ, mất cả môt bầu trời…
(Xem: 10501)
"Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền. Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên…Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối…"
(Xem: 11615)
Mẹ ơi tháng Bảy về rồi Là mùa hiếu hạnh tuyệt vời lên ngôi Nhớ ơn mẹ đã một đời Tảo tần mưa nắng tô bồi đời con
(Xem: 10492)
Mùa thu với tháng bảy mưa ngâu, với trăng thu diệu vợi, quê hương Việt nam chúng ta với biết bao vẻ đẹp êm đềm qua ánh trăng rằm tháng bảy Vu lan.
(Xem: 10992)
Sau khi đắc quả A-La-Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên vận thần thông đi khắp các cõi tìm người mẹ đã khuất.
(Xem: 9932)
Lễ hội Vu lan bồn hay còn được gọi một cách phổ biếnlễ hội Cô hồn là một sự kiện quan trọng ở Trung Quốc vì nó được nối kết với việc thờ cúng tổ tiên.
(Xem: 10278)
Từ hơn mười năm qua, cũng có thể là xa hơn chút nữa, ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu hằng năm, đặc biệt là lễ cài hoa hồng, đã có sức lan tỏa mạnh mẻ ra ngoài khỏi khuôn viên những mái chùa Phật giáo
(Xem: 11332)
Theo truyền thuyết nhà Phật, Bà mẹ Mục Kiền Liên Là người không mộ đạo Báng bổ cả người hiền.
(Xem: 10891)
Tháng bảy mùa Vu Lan trời buồn âm u mưa sùi sụt trắng xóa con đê quê mẹ. Tháng bảy mùa Vu Lan mây buồn giăng giăng kín lối con về quê mẹ…
(Xem: 12788)
Rằm tháng 7 - đại lễ Vu Lan, tưởng niệm gương đại hiếu của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên) đối với mẹ trong cảnh khổ ngạ quỷ;
(Xem: 24115)
Lòng thương của cha mẹ sẽ pha thêm màu xanh cho bầu trời, tô thêm màu biếc cho đại dương; và gia đình này, trái đất này, với bàn tay chăm sóc của cha mẹ, sẽ là hành tinh xanh, mỹ miều, tươi mát hơn bao giờ.
(Xem: 12508)
Ta còn một dòng sông, dòng sông xưa uốn khúc những nỗi niềm cay cực với bóng mẹ lênh đênh tất tả chuyến đò đời.
(Xem: 10205)
Kinh Vu Lan hiện được dịch ra tiếng Việt và được phổ thơ để các Phật tử dễ đọc tụng và dễ nhớ
(Xem: 28369)
Mùa Vu Lan lại về với người con Phật, mang nhiều ý nghĩa thâm diệu, vừa siêu nhiên của lãnh vực tâm linh, vừa hiện thực với văn hóa nhân gian...
(Xem: 19214)
Cách đây hơn 10 năm tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Hoa Kỳ, các thành viên của Liên Hiệp Quốc đã đồng thuận mỗi năm lấy ngày Vesak của Đức Phật làm ngày Phật Đản của thế giới.
(Xem: 10816)
Cách đây hơn 26 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tại xứ Ấn Độ cổ xưa, cội nguồn của nền văn minh sông Hằng. Sự kiện trọng đại Đức Thế Tôn thị hiện vào cõi đời này thật là hy hữu.
(Xem: 23105)
Gần hai trăm nghìn người không phân biệt Tôn giáo, Quốc tịch, Chính đảng, ngày 10/05/2015 tại Đài Bắc Quốc tế Phật Quang hội tổ chức thiên Tăng, vạn Chúng Khánh chúc Phật đản, nhất tâm Thập nguyện báo Mẫu ân,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant