Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Nói Đầu- The Reverend Yamada Etai

25 Tháng Tám 201000:00(Xem: 12123)
Lời Nói Đầu- The Reverend Yamada Etai

NGHIÊN CỨUPHIÊN DỊCH ĐẠI PHẨM THỨ NHẤT
MA HA CHỈ QUÁN
PHÁP MÔN VIÊN ĐỐN

(The Great Calming and Contemplation)
THIÊN THAI TRÍ KHẢI

Neal Donner & Daniel B. Stevenson biên soạn - Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
Nhà xuất bản Phương Đông TP. HCM 2009

Phẩm Thứ Nhất
MA HA CHỈ QUÁN

Lời nói đầu

Phật giáo là một giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, là người sống ở miền Bắc Ấn Độ khoảng hơn hai ngàn năm trăm năm trước. Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ. Theo Phật Giáo, tất cả mọi người đều có thể trở thành Phật hoặc ‘bậc giác ngộ’ như Đức Thích Ca. Nỗi mong ngóng của tôi với những người đã hướng về con đường tu trì Phật pháp đều sẽ thành Phật. Khi thế giới nầy trở thành Phật giới hoặc Bồ tát giới, chúng sinh hướng về Phật quả, thì niềm hy vọng sẽ nở bừng an lạc.

Phật Giáo bao gồm Phật phápPhật đạo. Phật pháp diễn đạt tánh tướng giác ngộ của Phật. Chúng ta đã tự bao giờ đi trong sự chiếm ngự dềnh dàng của bản ngã thô thiển, và vì thế, mất dấu nhân duyên. Cũng vì vậy, chúng ta luôn ở trong trang thái xung đột với tha nhânthế giới chung quanh, phải chịu đựng những dòng đời khốn khổ vô ích. Pháp Phật đưa chúng ta về chỗ không có nỗi khổ, thấy được Bồ Đề an lạc bằng lối vượt thoát sự xâm chiếm của vô minh qua ngã, an trụ trong vô ngã. Đường Phật cung hiến những chỉ dẩn tu tập về thân và tâm để đến được với chân tánhtự do, vượt qua những phiền não cảm nhận từ một cái ngã như huyễn. Phát huy trí tuệtỉnh thức đối với chân tánh tức Phật pháp. Đến được với thực chứng trong ta và sống tùy thuận thực tại tức Phật đạo.

Maha Chỉ Quán (Moho Chih-kuan) đã được thuyết ra bởi vị sư Trung Hoa là Trí Khải (538-597), cũng là vị Tổ sư của tông Thiên Thai, và được một môn đồ là Kuan-ting (Quán Đảnh) (561-632) ghi lại. Đây là một bảng chỉ đường thâm sâu làm thế nào để viên dung hai mặt của Phật giáo - tức Phật phápPhật đạo. Trọng tâm của tập sách nầy quy về khái niệm ‘chỉ và quán, tịch và chiếu’ (chih-kuan ming ching) như một phương pháp hành trì (1). Khái niệm nầy đã được xưng tụng trong hầu hết những gì liên quan đến Phật giáo ở Trung Hoa. Tập sách được dịch sang Nhật ngữ khi Saicho hoặc Dengyo Daishi (Tối Trừng, 766-822), đã thành lập Thiên Thai Tông trên đỉnh Tỉ Duệ (Mount Hiei), và trở thành nền tảng của Phật giáo Nhật Bản.

Phật phápPhật đạo xiển dương giáo lýthực hành. Khi hai mặt nầy trọn vẹn đi vào nhau, tất cả khổ nãonghiệp chướng sẽ bị tận

diệt, và Phật trí bình đẳng với chư Phật sẽ hiển lộ. Tác phẩm MaHa Chỉ Quán đưa đường về với Phật tánh, và làm thế nào vạn pháp có trong một tâm, khả dĩ tuyệt đối tự do. MaHa Chỉ Quán nói đến thiền tọa như một phương tiện chính để tu tập chỉ và quán, tịch và chiếu. Trong tất cả những phương pháp thiền định hoặc trụ tâm vào thực tại, thì phương pháp tọa thiền dễ thực hành nhất. Vì lý do nầy, nói qua những phương pháp khác nhau trong việc tu tập thiền định được đề cập trong những bản kinh, thì MaHa Chỉ Quán cho thấy một điểm độc đáo là làm thế nào cuộc hành trình đi về chỗ chứng ngộ có thể đến được với một lần ngồi xuống trong thiền định. Sự hướng dẩn nầy là một phần quan trọng và nổi bật của tác phẩm.

Trí Khải tin rằng những giáo pháp được Thế Tôn thuyết ra, và đã được tồn trữ trong truyền thống Phật giáo chỉ là những phương tiện (upaya). Điều nầy nói lên rằng bởi vì thực tại Bồ Đề bất khả tư nghị khó được lãnh hội trực tiếp, Thế Tôn dùng những phương tiện khế hợp với căn tánh chúng sinh, và dần đưa họ về mục tiêu tối hậu. Thuyết giảng bộ kinh Pháp Hoa vào những ngày cuối đời, Đức Thích Ca Mâu Ni phối hợp tất cả những pháp phương tiện, phân tích, và tiết lộ mục đích sau cùng. Như vậy, kinh Pháp Hoa được thuyết ra như một giáo lý vi diệu đưa đường cho tất cả chúng sinh.

Với Trí Khải, chính bộ kinh Pháp Hoayếu chỉ của Phật pháp, là giáo pháp vô biên thành tựu tất cả những bản kinh khác, hứa hẹn một đất tâm tĩnh lặng và là nỗi hy vọng của tất cả con người trong tất cả mọi thời. Đặt căn bản trên lòng tin nầy, Trí Khải thuyết giảng MaHa Chỉ Quán, được trình bày như một phương pháp thực hành, gồm thu cái tinh túy của bộ kinh Pháp Hoa. Nói cách khác, MaHa Chỉ Quán là bảng chỉ đường đưa giáo lý tối thượng của kinh Pháp Hoa vào mặt thực hành- là sự hướng dẩn để nhận chân được tinh thần của bộ kinh.

Giáo lý tuyệt diệu của kinh Pháp Hoa đã được trình bày trong hai tác phẩm khác của Trí Khải là ‘Pháp Hoa Huyền Nghĩa’ diễn đạt sự thâm sâu của bộ kinh Pháp Hoa, và ‘Pháp Hoa Văn Cú’ là bảng chú giải từng câu trong toàn nội dung bản kinh. Ba tác phẩm nầy, được gọi là ‘Thiên Thai Tam Đại Bộ’- cùng chung chú giải yếu chỉ của Phật phápPhật đạo, giáo và hành, như được nói đến trong kinh Pháp Hoa, và như cái hiểu của Trí Khải về Phật pháp, và truyền thống Thiên Thai Tông.

MaHa Chỉ Quán gồm có mười chương, được bố cục qua năm đề mục chính : (1) phát đại tâm, (2) tu đại hạnh, (3) hiển đại quả, (4) xé lưới nghi (sự nghi hoặc về những phân chia của Phật pháp), và (5) quy đại xứ. Chương thứ nhất đến Chương thứ năm liên quan đến ý tưởng giác ngộ- cung hiến một sơ đồ về Chỉ và Quán, xác định văn tự Chỉ và Quán, thuyết giảng khái niệm về Chỉ và Quán, trình bày làm cách nào toàn thể phương pháp thực hành của Phật giáo được hoàn tất trong một phương pháp Chỉ và Quán, và như thế, cho hành giả một cái thấy rõ ràng về phương pháp Chỉ và Quán, và làm bừng dậy trong hành giả lòng mong muốn thực hành. Lý do là vì hành giả phải phát sinh ý tưởng giác ngộ một cách chính chắn thì mới có thể hành trì Phật pháp một cách hữu hiệu. Chương thứ sáu và thứ bảy của MaHa Chỉ Quán luận về chi tiết đặc thù qua khía cạnh thực hành. Chương thứ sáu nói về những chuẩn bị cụ thể và những thuận duyên cần thiết để thành tựu pháp môn Chỉ và Quán. Chương thứ bảy, là chương dài nhất, diễn tả chi tiết những kỷ thuật thích ứng về Chỉ và Quán. Tiếc thay, Trí Khải đã không kịp thuyết giảng ba chương và năm đề mục sau cùng trong toàn bộ mười chương như dự định.

Chỉ và Quán trình bày những phương pháp quy chế thích hợp nhất để đến được với sự toàn thiện của con người. Chỉ (chih) đưa tâm về với định và an trú trong tánh giác.
Quán (kuan) liên quan đến sự dùng tâm giác ngộ nầy như một nền tảng quán chiếu chân tánh đồng nhất trong vạn pháp. Đây là mặt thực hành, cùng lúc hội tụ ‘tịch’ của định đưa tâm vào chỗ vô ngã, và ‘chiếu’ của tuệ, thấy được vạn pháp phơi trải như nó là, hiển lộ giá trị chân thực. Khái niệm căn bản nầy đã từng được thuyết ra qua những bản kinh và luận thuở lâu xưa, nhưng sở dĩ MaHa Chỉ Quán được tán tụngtác phẩm nầy là một bảng chỉ đường thâm sâuchi tiết, có giá trị thực hành.

Có ba cách thức hành trì Chỉ và Quán : Tiệm, Bất Định, và Viên Đốn. Pháp môn Tiệm dành cho những hành giảcăn cơ thấp kém, là những người đi từ cạn đến sâu. Pháp môn Bất Định dành cho những hành giả thực tập nhiều đường lối khác nhau, tùy thuộc vào căn cơhoàn cảnh chung quanh. Pháp môn Viên Đốn là đỉnh cao, viết ra cho những người có căn tánh sắc bén. Qua lối tu tập nầy, hành giả phát huy được định hạnh bằng con đường vào thẳng chân tánh ngay từ điểm đầu tiên. Tất cả ba phương thức đều là Phật giáo Đại thừa, và đưa đến Bồ Đề, nhưng MaHa Chỉ Quán chỉ nói tổng quát hai phương thức kia, và đặc biệt nhấn mạnh vào pháp môn Viên Đốn. Vì vậy, tác phẩm có tựa đề là ‘Đại (MaHa) Chỉ Quán’. Trái tim của giáo pháp MaHa Chỉ Quán về mặt viên đốn được tìm thấy qua những lập luận về bốn trạng thái thiền định trong chương thứ nhất (phần dàn bài, theo sau là phần dịch), hai mươi lăm bước đầu trong chương thứ sáu (phần chuẩn bị khế hợp), và mười phương cách thực hành chỉ và quán trong chương thứ bảy (Chánh Quán). Tác phẩm MaHa Chỉ Quán được tán tụng như một phương thức thâm viễn, qua đó ba pháp môn đưa yếu tính hành trì Phật pháp vào hệ thống.

Tất cả mọi người đều có sẳn phẩm hạnh cao quý, bình đẳng. Nếu, qua cái hiểu chân thực nầy, con người có thể nhận ra rằng họ là những yếu tố không thể bị bứng gốc rễ từ một môi trường đơn thuần, và nếu những cá nhân tự giác nầy sáng tạo một cảnh giới của ngã và nhân có thể giúp đỡ lẩn nhau, thì ngay ở điểm đầu tiên, sự cân bằng giữa cá nhânxã hội sẽ xuất hiện, đưa đến hạnh phúc và hòa bình chân chính cho tất cả mọi người. Trong sự chuyển mình của những khám phá khoa học, tuy nhiên, con người về sau phô trương chiều hướng chú trọng kết quả. Khi sự xâm chiếm của kết quả nầy hóa thành khối duy vật chất khổng lồ, thì liền đó là cơ nguy có thể làm tan tành sự gắn bó giữa người với người. Điều quan trọng là phẩm hạnh của con người như một cá nhân đứng giữa tâm điểm của xã hội. Nếu chúng ta không có được một xã hội, trong đó, ngã và nhân cùng tương hữu một cách thỏa đáng, thì hòa bình và phước hạnh chân thực sẽ không bao giờ hiện ra được. Chúng ta phải nắm bắt được thực tại trên nền tảng tương giao, tùy thuận của nhân và duyên, và sáng tạo một xã hội vô ngã, là những cá nhân nghĩ và làm một cách tự nhiên hướng về người khác. Vì thế, đã đến lúc con người khắp mọi nơi trên thế giới cần hiểu được MaHa Chỉ Quán và thực sự hành trì để đến được chỗ tự làm cho chính mình trở nên toàn vẹn. Thực vậy, bản dịch chương thứ nhất qua Anh ngữ nầy có thể quay lại trở nên một bảng đưa đường về với phước hạnh hy hữu nhất của chúng ta dành cho con người. Có được sự cảm nhận sâu thẳm trong đường lối phiên dịch tác phẩm Hoa ngữ quan trọng nầy, với tất cả những ý nghĩa khôn cùng, tôi muốn gởi lời cảm tạ đến những người đã thực hiện.

The Reverend Yamada Etai

Bài tựa của Quán Đảnh (Kuan-ting) viết về MaHa Chỉ Quán bắt đầu với bốn chữ nầy. Tựa đề nầy đã trở thành yếu chỉ của tác phẩm và là phương pháp tu trì của Tông Thiên Thai.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25745)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37935)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19676)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18792)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14367)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20188)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9570)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14429)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35682)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10714)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19793)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23286)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13421)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10802)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20313)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10672)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 10028)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14937)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17762)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17688)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13245)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31249)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25871)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 14038)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17577)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 11038)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12354)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10521)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12338)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11833)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9672)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12409)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9256)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8536)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 10008)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9802)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12102)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14534)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9950)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11253)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8356)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 11039)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14185)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9968)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15285)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13154)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23176)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 24124)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12673)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15508)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17879)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15150)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16634)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16217)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17758)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11671)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11691)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17939)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10863)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10563)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11403)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12134)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11103)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36490)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 9016)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9736)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34799)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17342)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10286)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10527)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12246)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13713)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14744)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9211)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24948)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11701)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10372)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 16025)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15650)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14595)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13072)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12509)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14645)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18436)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9620)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18614)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18688)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19128)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18944)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11871)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13401)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 48037)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11119)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13619)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13104)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11155)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12632)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11096)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31883)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11743)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant