Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 18

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10033)
Phần 18


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 18)

Pháp Sư Tịnh Không



Thứ tám, Phật dạy “Thủ hộ chánh pháp”, công đức vô cùng to lớn, là công đức đệ nhất trong thế xuất thế gian pháp. Chánh pháp phải gìn giữ như thế nào? trong “Quảng tu cúng dường” phía trước, tôi đã nói qua với mọi người, như giáo tu hành cúng dường. Kinh giáo của Phật, kinh điển của Phật, những đạo lý trong đó, chúng ta phải tường tận, phải thấu triệt. Phật dạy phương pháp đời sống, phương pháp đối nhân xử thế, phương pháp tu học, chúng ta nhất định phải tuân thủ. Những phương pháp trong kinh điển không gì khác ngoài phương pháp dạy chúng ta làm người, phương pháp sinh hoạt, thậm chí dạy chúng ta phương pháp làm việc, không có thứ nào không có. Phật dạy điều gì làm được, chúng ta nhất định phải làm cho được; Phật dạy điều gì không nên làm, chúng ta nhất định tuân thủ quyết không làm. Đó trước tiênhộ trì chính mình, sau đó giúp đỡ chánh pháp cửu trụ thế gian.

Cư sĩ Lâm xây đạo tràng, mời pháp sư đến giảng kinh nói pháp, vậy chánh pháp mới có thể cửu trụ. Những năm gần đây Lý Mộc Nguyên khai ngộ, ông mới tu sửa lầu bốn lầu năm để mọi người đến nghe kinh, ngồi thoải mái dễ chịu gần hai giờ đồng hồ. Đó là đến hưởng thụ, không phải đến chịu tội. Trong hai giờ đồng hồ, thân tâm hoàn toàn thư thái. Công trình của ông vẫn chưa hoàn công, bên trong còn một số phù điêu, bức vẽ thiên nữ tán hoa, nhưng tương lai giảng đường này sẽ rất mỹ quan, nhất định sẽ làm cho mọi người thoải mái. Đó đều là Hộ Trì Chánh Pháp. Trong Hộ Trì Chánh Pháp then chốt nhất chính là bồi dưỡng nhân tài tiếp nối. Thời đại này của chúng ta đã già, tương lai không giảng nổi nữa. Không có người giảng, vậy Phật pháp chẳng phải bị đoạn tuyệt? Hiện tại có không ít pháp sư trẻ tuổi đến từ Trung Quốc tiếp nối huệ mạng của Phật. Tương lai chúng ta xuống giảng đài thì họ lên tiếp nối. Những người thanh niên này vừa học giảng kinh đương nhiên sẽ giảng có rất nhiều chỗ không vừa ý mọi người, là sơ học, kinh điển lý luận đạo lý đều chưa thuộc, cho nên họ cần có người hộ trì.

Làm thế nào hộ trì? Đến nghe giảng chính là hộ trì. Nếu bạn không đến nghe, họ ở nơi đó học giảng kinh, vừa nhìn xuống thấy lác đác người vào ngồi dự, liền nghĩ mình không khéo giảng, không thể giảng kinh, tâm họ liền bị thoái chuyển. Nhưng khi vừa nhìn xuống thấy có rất nhiều người, họ cảm thấy phấn khởi, cho rằng mình giảng không tệ, chí khí của họ được nâng cao. Tôi đã nói với các vị, họ là cây Bồ Đề, các vị đến nghe kinh chính là tưới nước để vun bồi cho họ dần dần trở thành cây đại thọ. Cho nên nghe họ giảng kinhhộ trì chánh pháp, công đức sẽ lớn hơn nghe tôi giảng kinh. Hiện tại tôi giảng kinh vào ngày thứ sáu và thứ bảy, thời gian còn lại đều là những học trò đang luyện tập giảng kinh. Tôi hoan nghênh mọi người đến hộ trì chánh pháp, khích lệ họ. Bên cạnh đó, khi các vị nghe kinh, nếu cảm thấy họ giảng có vấn đề, nghe không rõ ràng, hoặc có chỗ nghi, chỗ sai lầm, các vị có thể viết một tờ giấy đưa cho họ giúp họ không ngừng cầu cải tiến.

Ngày trước, lão sư đã dạy tôi, khi mới học giảng kinh, ta ở trên đài giảng là học trò, bên dưới nghe kinh đều là thầy giáo, là giám học của ta. Ta báo cáo với mọi người về việc tu học của mình, mời mọi người chân thật chỉ giáo cải tiến, còn ta chân thật tiếp nhận, y giáo phụng hành thì chính mình mới có tiến bộ. Cho nên học giảng kinh nhất định phải tiếp nhận phê bình chỉ giáo của đại chúng. Đại chúng không phê bình chỉ giáo nghĩa là không quan tâm đến bạn. Còn chân thật ái hộ bạn thì nhất định đại chúng phải phê bình. Chúng ta nhất định tiếp nhận, nỗ lực cải tiến. Người ta phê bình mình mà mình không cải tiến thì lần sau họ không nói nữa, họ buông bỏ bạn. Cho nên chúng ta học thì phải học thái độ tốt đẹp, cũng nỗ lực gánh trách nhiệm giúp đỡ các pháp sư trẻ có thể thành tựu, tương lai tiếp tục huệ mạng của Phật, hoằng pháp lợi sanh, đó chân thậthộ trì chánh pháp.

Các vị cần phải biết hộ pháp quan trọng hơn hoằng pháp. Thực tế thế gian này không phải không có người hoằng pháp, nhân tài hoằng pháp rất nhiều, nhưng nếu không gặp được thiện hộ nhiệt tâm thì nhân tài hoằng pháp cũng sẽ bị dìm mất, ngay trong một đời của họ chỉ có thể tự lợi mà không thể lợi tha. Thời gian trước tôi cũng đã từng nói qua mấy lần, mỗi lần chúng tagiảng đường đều có không ít đồng tu mới đến. Đồng tu cũ tuy đã nghe qua nhưng e thời gian lâu rồi có thể quên, còn đồng tu mới thì chưa nghe, cho nên nói nhiều một chút cũng không ngại. Người hoằng pháp cũng giống như một giáo viên giỏi ở thế gian. Họ có học vấn, có đức hạnh, có phương pháp giáo học. Nếu không có người muốn theo họ học thì họ không thể phát huy được tác dụng. Nhưng muốn có người theo họ học đương nhiên trước tiên phải có người thành lập một học đường.

Trung Quốc thời xưa thành lập học đường phần nhiều là tư thục. Một thầy giáo có ít nhất mười mấy học trò mới có thể phát huy sở trường của mình. Nếu không có người thành lập học đường thì thầy giáo không cách gì phát huy được đức năng của bản thân. Vào thời hiện đại một vị thầy giáo giỏi nếu không có trường học tốt; người phụ trách của trường học, tức là hiệu trưởng, không quen biết thầy giáo, không mời thỉnh thì thầy giáo giỏi ấy cũng không có cơ hội giáo học. Cho nên nhất định phải có người quen biết, mời thỉnh, trọng dụng, thầy giáo mới có thể phát huy sở trường đặc biệt của mình, mới có thể giáo huấn một phương. Việc giáo hoá một phương, công đức chân thật có phải thuộc tất cả về thầy giáo không? Không, đó là của người hộ pháp. Bạn xem thấy ngày nay mở lớp dạy học, giáo dục làm được thành tựu, khi quốc gia xã hội khen thưởng thường ban tặng cho hiệu trưởng. Nếu trường học do tư nhân làm, nhất định khen tặng phần thưởng cho hội trưởng, người mở lớp học, vì công là do họ. Còn làm không tốt thì lỗi cũng ở nơi họ, họ phải gánh lấy trách nhiệm. Cho nên họ chủ đạo chánh sách giáo học, họ xếp đặt giáo trình, giáo viên chẳng qua đến để chấp hành mà thôi. Như vậy công đức là ở người mở lớp, việc mở lớp chúng ta gọi là hộ pháp.

Các vị phải nên biết hoằng pháphộ phápmột thể, nhưng hộ pháp vẫn quan trọng hơn. Nếu không có người hộ trì, Phật Bồ tát ra đời cũng không thể lợi ích chúng sanh. Trách nhiệm của hộ pháp rất nặng, công đức của hộ pháp cũng rất lớn. Thích Ca Mâu Ni Phật đem công việc hộ pháp này ủy thác cho ai? Trên kinh chúng ta thấy Phật đem công việc của hộ pháp ủy thác cho quốc vương đại thần, đại phú trưởng giả. Họ có năng lực hộ pháp, có oai thế, có tiền của; họ có thể xây dựng đạo tràng, có thể bố trí an ổn những vị pháp sư, bồi dưỡng pháp sư, khải thỉnh pháp sư đến hoằng pháp lợi sanh. Họ chuyên mở trường học, làm đổng sự trưởng, mời thỉnh pháp sư đến trụ trì đạo tràng. Trụ trì trong đạo tràng cũng giống như tổng sự trưởng trong một công ty, pháp sư giảng kinh là người phụ việc, mỗi người một việc. Ông chủ là đổng sự trưởng, là hộ pháp. Không có sự hộ trì của họ thì người xuất gia làm gì có tiền của, làm gì có đủ lực, che dựng một chòi tranh còn khó huống hồ xây một đạo tràng, làm sao phát huy được sở trường của mình.

Chúng ta ở đây giảng kinh nói pháp, công lão này là của cư sĩ Lâm. Công đức hoằng pháp lợi sanh là của họ, nếu họ không mời mình đến giảng kinh thì chúng ta không cách gì đến được nơi này. Nếu họ không mở lớp bồi dưỡng pháp sư trẻ thì không người nào có thể đến. Ngày nay chúng ta giảng kinh, có rất nhiều đồng tu được lợi ích. Hiện tại nhờ vào thiết bị khoa học, không những thính chúng ngồi đây được lợi ích mà các đồng tu trước truyền hình cũng được lợi ích. Hôm qua thầy Ngộ Đạo gọi điện thoại cho tôi từ Canada. Thầy nói với tôi, tịnh tông của Hoa Kỳ và Cannada tiền đồ một mảng sáng lạng. Hiện nay họ đọc kinh Vô Lượng Thọ, số lượng người niệm Phật nhiều vô kể. Một số người nước ngoài đọc kinh Vô Lượng Thọ rất tốt mặc dù họ không hiểu ý nghĩa. Tôi thắc mắc làm sao có thể đọc tốt như vậy. Thầy ấy cho biết cuốn kinh Vô Lượng Thọ của Singapore có phiên âm Latinh. Người nước ngoài căn cứ vào phiên âm đó đọc ra chữ Trung Quốc không hề sai. Có rất nhiều người nước ngoài đang đọc quyển kinh này. Chúng ta có thể hiến tặng họ, bất cứ nơi nào cần đến thì chúng ta đều có thể tặng.

Người nước ngoài dùng phiên âm La tinh đích thực rất thuận tiện. Đài Loan dùng chú âm phù hiệu, họ không cách gì đọc được, cũng không thể dùng, nhưng quyển chú âm của Singapore thì họ rất dễ dùng. Tịnh tông có thể mở rộng như vậy, tốc độ nhanh là nhờ vào sức mạnh truyền hình. Mỗi ngày chúng ta đều ở trên truyền hình, một giờ phát sóng là một giờ họ từ truyền hình mà lĩnh hội. Cho nên ngày nay chúng ta đến đây giảng kinh, thính chúng không thể hạn lượng. Mắt thịt chúng ta nhìn thấy nhiều người nhưng không nhìn thấy được số lượng người ngồi trước tivi ở các quốc gia khu vực khác. Không biết số người nhiều đến bao nhiêu, lợi ích vô biên, loại công đức lợi ích này vẫn là của hội trưởng cư sĩ Lâm. Muốn Phật pháp hưng vượng, bốn chúng đệ tử chúng ta đều phải biết làm công việc hộ pháp.

Ngày trước, tôi còn trẻ học Phật, học giảng kinh với lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, sau đó nếu không gặp Hàn quán trưởng ba mươi năm toàn tâm toàn lực hộ trì thì chúng ta cũng không có thành tựu của ngày hôm nay. Không có người hộ trì này, tôi nghĩ tôi chỉ có hai con đường để đi, một là làm kinh sám, bỏ việc giảng kinh vì không có cơ hội giảng cho bạn; hai là đành phải hoàn tục, lại vào xã hội để tìm công việc. Do đó công đức hộ trì không thể nghĩ bàn. Hộ trì không đơn giản, cả nhà Hàn cư sĩ giúp đỡ tôi, họ cũng gặp phải rất nhiều khổ nạn, thế nhưng bà sáng suốt, không bị quấy nhiễu bởi hoàn cảnh bên ngoài. Bạn lên bục giảng kinh, giảng không hay, người ta sẽ cười bạn, chướng ngại đó vẫn nhỏ. Nhưng nếu giảng khá, thính chúng rất hoan hỉ, tán thán, đồng thời người đố kỵ sẽ xuất hiện, việc này không thể tránh khỏi. Người đố kỵ sẽ nghĩ mọi cách phá hoại, khiêu khích, sinh sự. Ngày trước, tôi ở nhà của Hàn trưởng. Người xuất gia bị bức đến không còn đường để đi, không có chùa dung chứa, đành ở nhà cư sĩ 17 năm. Thời gian không ngắn cho nên người khiêu khích sinh sự cũng không thể tránh khỏi. Người nhà của Hàn trưởng phải nhẫn chịu. Nếu họ không thể nhẫn chịu, họ sẽ nói: “Pháp sư à! Không được rồi, ông ở đây, tôi không thể chịu nổi áp lực bên ngoài”, lúc đó có lẽ tôi đành phải ra đi. Thế nhưng người trong nhà họ sáng suốt, họ có thể chịu được bất cứ gièm pha thậm chí nhục mạ, họ đều không hề để ý. Việc này vô cùng khó làm, cho nên thành tựu của chúng ta chân thật rất cảm kích đối với bà, không có bà thì không có thành tựu của ngày nay, cũng không có thư viện Hoa Tạng của Đài Bắc, không có Tịnh Tông Học hội. Do đó công đức hộ trì là không thể nghĩ bàn. Hộ trì phải có trí tuệ, có định lực chân thật. Trí tuệ có thể phân biệt phải quấy, định lực không bị cảnh giới bên ngoài quấy nhiễu, cứ kiên trì sau cùng mới có thành tựu. Đến khi quán trưởng vãng sanh, hai lần nhìn thấy Phật A Di Đà đến an ủi, được xem thấy hải hội liên trì, điềm lạ đích thực tương ứng với công đức của bà.

Các vị xem thấy, người xuất gia chúng tôi đắp cái y này, màu sắc là màu cafe, không phải y màu đỏ, áo tràng màu vàng như trước đây chúng ta đều đắp. Khi Hàn quán trưởng bệnh nặng, một hôm tôi bỗng nghĩ ra, màu sắc y của chúng ta không như pháp. Phật nói cho chúng ta màu sắc của y phục này chính là loại màu sắc hiện tại tôi đang đắp. Y nhiễm sắc, tránh khỏi năm loại màu chính, là đỏ, vàng, xanh, trắng, đen. Cho nên y phục của nhà Phật gọi là màu cà sa. Tôi liền nghĩ đến, y nhiễm sắc không phải chánh sắc. Thế là tôi gọi điện thoại cho tiệm may tăng phục, nhờ họ may loại y phục như pháp này. Buổi tối, ông chủ tiệm may tăng phục đến thư viện đo y phục cho chúng tôi. Chúng tôi liền nhờ ông ấy may nhanh hơn một chút. Ông liền nói, buổi trưa, Phật A Di Đà đến tiệm dặn bảo ông rằng thư viện có việc gấp, phải mau làm cho xong, cho nên ông đã chuẩn bị xong hết nguyên liệu may đồ. Thật không thể nghĩ bàn. Chúng ta khởi một niệm đúng pháp liền có thể cảm ứng. Ngày nay chúng ta đắp y này, thật không dám đổi lại màu đỏ vì Phật A Di Đà gia trì. Bất kể trường hợp nào, chúng ta cũng không dám dùng màu vàng, màu đỏ tươi đẹp nữa.

Trong hộ pháp, phải hiểu phẩm Hạnh Nguyện có câu “thỉnh chuyển pháp luân”. Chúng ta không cách gì thỉnh Phật, chỉ có thỉnh những vị cao tăng đại đức không luận tại gia hay xuất gia miễn họ có tu học Phật pháp. Hiện tại tìm người chứng quả là việc quá khó, chúng ta không gặp được, chỉ cần họ chân thật có tu có học thì chúng ta có thể mời họ đến giảng kinh. Thế nhưng khi mời họ đến giảng kinh, chúng ta lại phải thông hiểu đại chúng của chúng ta đang tu pháp môn gì, chúng ta mời họ đến giảng kinh luận gì, có sự trợ giúp đối với việc tu học của chúng ta hay không. Mọi người đều niệm Phật, đều một mục tiêu cầu sanh Tịnh Độ, nếu bạn mời một vị pháp sư đến giảng về tham thiền, hoặc mời một vị pháp sư đến dạy bạn trì chú, như vậy là phá hư pháp môn tu học của chúng ta. Người hộ pháp không những hộ chính mình, hộ pháp của Phật mà còn phải hộ pháp của đại chúng, vì đại chúng mà mời thầy giáo. Khi mời, nhất định phải mời thầy giáo tương ưng với sự tu học thì chúng ta mới có được lợi ích.

Ngày trước khi tôi ở Đài Trung thân cận lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam mười năm, mười năm không hề rời khỏi ông, ông đi đến đâu thì chúng tôi đi theo đến đó. Chúng tôi khoảng vài chục người, là chúng thường tùy của thầy. Trong mười năm, tôi thấy lão cư sĩsáng lập Liên Xã Đài Trung, thư viện Từ Quang. Hai đạo tràng hoằng pháp đã tiếp đón rất nhiều đại pháp sư, đại đức cư sĩ đi ngang qua Đài Trung. Lão sư Lý đích thân đến bến xe nghinh tiếp, khi về đích thân đưa tiễn đến bến xe. Ngài nhất định mời họ ăn cơm, cung kính cúng dường, lễ tiết rất chu đáo, nhưng không hề mời họ giảng khai thị, đừng nói đến giảng kinh. Ban đầu tôi nhìn thấy việc này trong lòng cảm thấy có chút kỳ lạ. Có một số pháp sư từ nước ngoài đến, Lý lão sư tôn kính họ như vậy nhưng lại không mời họ kết chút pháp duyên với mọi người chúng tôi, không mời giảng chút khai thị. Chúng tôi thỉnh thoảng cảm thấy lão sư Lý dường như ngạo mạn, không xem trọng người khác, mặc dù trên biểu hiện của ông rất cung kính, lễ tiết không hề thiếu sót. Chúng tôi tuy không nói ra nhưng cũng bị ông nhìn thấy. Ông triệu tập chúng tôi đến, khoảng mười người, ông nói: “Không phải tôi không mời ông ấy giảng khai thị. Nếu ông ấy vừa khai thị thì tôi lại phải tốn rất nhiều thời gian làm cho tâm của đồng tu chúng ta định trở lại. Những vị pháp sư đó là pháp sư tham thiền, những pháp sư học giáo, và pháp sư tu Mật. Suốt mười năm, tôi không dễ gì bồi dưỡng tín tâm niệm Phật của mọi người, hiện tại một câu A Di Đà Phật niệm đến cùng, nếu pháp sư ấy đến nói tham thiền tốt hơn niệm Phật, tham thiền minh tâm kiến tánh, hoặc trì chú, học Mật Tức Thân Thành Phật, vậy thì đồng tu chúng ta nghe xong, tín tâm sẽ liền lay động, như vậy có phải phiền phức hay không?”. Cho nên ông không chịu mời họ giảng khai thị, đó là ông hộ pháp, giữ gìn thuần tín của đại chúng đối với tín tâm, thâm tín thiết nguyện, tuyệt đối không để bị người phá hoại. Khi ông giải thích rõ ràng, chúng tôi mới bừng tỉnh hiểu ra, ông thật là người hộ pháp đại từ đại bi, bảo hộ mọi người, đã không dễ dàng bồi dưỡng được chút tín nguyện hạnh này thì làm sao bây giờ có thể khinh xuất để người ta nói mấy câu khiến dao động.

Đại đức thời xưa cùng hiện tại khác nhau, vào thời xưa, đại đức chân thật là những người có đức hạnh. Phật pháp thường nói “Nếu muốn Phật pháp hưng, chỉ có tăng khen tăng”, đôi bên tán thán lẫn nhau thì Phật pháp chúng ta mới có thể hưng khởi. Thế nhưng hiện tại thông thường nhất là các pháp sư trẻ tuổi chưa nhận qua giáo huấn chính quy nên không hiểu được đạo lý này, họ đến nơi đâu cũng tự giới thiệu về mình, cho rằng mình tu học con đường này là đúng, họ có thành kiến đối với các pháp môn khác nên thường phê bình, như vậy rất dễ dàng dẫn sai người khác tu học. Việc này gọi là không biết lễ phép. Nếu là một người rõ lý thì chúng tathể không những thỉnh họ giảng khai thị mà còn mời họ giảng kinh, vì sao? Họ tán thán pháp môn của chúng ta. Đối với đồng tu việc này có lợi ích lớn. Chúng ta ở dưới hội của lão sư Lý, lão sư Lý cũng đã từng dạy bảo qua việc này để giữ lễ.

Năm 1977 tôi giảng kinh Lăng Nghiêm ở Hong Kong, pháp sư Thánh Nhất tham gia pháp hội, ông nghe rất hoan hỉ, sau đó mời tôi đến Đại Tự Sơn, đạo tràng của ông để cùng đại chúng của ông kết pháp duyên và giảng một buổi khai thị. Tôi đến nơi đó nhìn thấy đạo tràng thiền tông, trong đạo tràng có hơn 40 người, mỗi ngày tọa hương, tuân thủ qui củ của thiền đường. Tôi đã xem qua rất nhiều đạo tràng nhưng chưa thấy nơi nào chăm chỉ làm đạo như vậy. Ông mời tôi giảng khai thị, tôi liền tâm niệm phải giảng cái gì. Thứ nhất, tán thán pháp sư Thánh Nhất, pháp sư giỏi, có tu có học. Thứ hai, tán thán đạo tràng thanh tịnh trang nghiêm, thành tựu đạo nghiệp của mọi người. Thứ ba, tán thán đại chúng, tán thán pháp môn của họ. Bản thân tôi tu Tịnh Độ nhưng lúc đó, một chữ về Tịnh Độ tôi cũng không nhắc đến. Tôi tán thán thiền.

Đến khi rời khỏi đạo tràng, trên đường về, một số người đi theo liền hỏi tôi: “Pháp sư Tịnh Không, vừa rồi ông luôn miệng tán thán thiền hay. Vậy tại sao ông không tu thiền? Vì sao ông lại niệm Phật?”. Bạn thấy đấy, người đi theo tôi mới nghe tôi tán thán về thiền một chút liền khởi nghi hoặc, vậy làm sao được? Tôi liền nói với họ, thiền là người thượng thượng căn mới có tư cách tham thiền. Tôi là người hạ căn rất muốn tham thiền nhưng không đủ tư cách nên quay đầu lại thành thật niệm A Di Đà Phật. Lời tôi nói đều là thật, không phải giả. Cho nên tôi tán thán họ đến tột đỉnh, tăng thêm đại chúng, làm cho họ càng có lòng tin với pháp sư Thánh Nhất. Tương tự, các vị cũng thấy đó, người từ bên ngoài đến đều tán thán Hoà Thượng của chúng ta. Pháp sư Thánh Nhất có tu hành nên hiểu được, nếu ông đến đạo tràng của tôi, nhất định ông sẽ tán thán niệm Phật, tuyệt đối sẽ không giảng thiền tông. Đó chính là chân thật biết hộ pháp. Người xưa thường nói “Thà làm động nước trăm sông, không động tâm người tu niệm”, người ta đã tu pháp môn này thì bạn làm sao có thể tuỳ tiện dao động họ, đó là một việc không nên làm.

Khi tôi vừa học Phật, lúc đó vẫn chưa xuất gia, tôi thường nghe pháp sư Diễn Bồi giảng kinh. Tôi rất thân với ông vì mỗi lần ông giảng kinh, tôi luôn ngồi hàng đầu, mặt đối mặt ngày ngày đều thấy nhau. Sau khi xuất gia, ông rất ái hộ tôi. Tôi tôn trọng và gọi ông là lão sư, còn ông cũng xem tôi như bạn. Khoảng vài năm đầu đến Singapore, ông đều đến phi trường đón tôi, khi tôi rời khỏi, ông cũng tiễn tôi tại phi trường. Sau này ông đến Đài Loan, ông rất vui ở tại Cơ Kim Hội chỗ tôi, ông mời tôi đến giảng kết duyên với tín đồ của ông tại đạo tràng. Tôi biết rõ ông tu Di Lặc Tịnh Độ, muốn sanh về cung trời Đâu Suất, tức là không đi chung đường với chúng ta, cho nên khi đến chỗ ông giảng khai thị, tôi đặc biệt tán thán Pháp Tướng Duy Thức Tông, tán thán Di Lặc Tịnh Độ mà không hề nhắc đến một chữ Di Đà Tịnh Độ của chúng ta. Do đây có thể biết qui tắc, bạn đến bất cứ đạo tràng nào, họ đều hoan hỉ mời bạn giảng khai thị, nếu bạn không hiểu qui tắc này thì mọi người sẽ sợ bạn nói chuyện, sợ bạn làm nhiễu loạn lòng người, phá hoại tín ngưỡng của mọi người, làm cho người ta hoài nghi.

Cho nên bất cứ nơi nào mời chúng ta, chúng ta phải hỏi thăm dự liệu trước, họ tu pháp môn gì? Tu được bao lâu? Do ai hướng dẫn? Nếu đạo tràng đó không phải chuyên tu pháp môn thì bạn có thể tùy tiện giảng. Một đạo tràng thường thỉnh mời nhiều pháp sư thuộc nhiều pháp môn thì chúng ta không có gì ngăn ngại. Những đạo tràng như thế lộn xộn rối rắm, họ không biết pháp môn nào là đúng. Hoặc một số đạo tràng không tìm được pháp sư hoằng dương Phật pháp, nên phàm hễ pháp sư nào đi ngang qua họ thảy đều mời thỉnh giảng kinh, giảng khai thị. Pháp sư thích giảng cái gì thì cứ giảng thứ đó, pháp nào họ cũng muốn nghe, pháp nào cũng đều muốn học, sau cùng không có gì thành tựu. Do đây có thể biết, hoằng pháphiệu quả hay không then chốthộ pháp.

Một ví dụ khác, trước đây, đầu mỗi năm tôi đều đến Hongkong giảng kinh. HongKong cách Đài Loan một giờ máy bay. Năm xưa ở HongKong chỉ có một bà Lôi hộ trì, mỗi lần đều do bà mời tôi đến giảng kinh. Sau khi bà Lôi qua đời thì không có người mời nữa. Gần chục năm, đến năm vừa rồi trở lại HongKong giảng kinh, tôi gặp được một số lão đồng tu, những lão đồng tu này nói: “Pháp sư à! Đã bảy năm rồi ông không trở lại”. Quả thật, nhẩm lại đúng là bảy năm tôi không đến. Nhưng không phải tôi không đến mà không có người mời tôi đến. Tôi không thể tự mình đi vì mọi người cự tuyệt tôi thì tôi đến để làm gì. Cần phải có người tìm tôi. Không có người mời thỉnh thì chúng ta không có cách nào. Muốn đến nơi đó để kết duyên với mọi người nhưng duyên không đầy đủ.

Ở Singapore cũng vậy, chỉ có một mình cư sĩ Lý Mộc Nguyên, đó là vào năm 1987 lần đầu tiên tôi đến. Tôi đã giảng qua một buổi ở Cư Sĩ Lâm, hai buổi ở đoàn hoằng pháp thanh niên. Lúc đó đoàn trưởng của đoàn hoằng pháp thanh niên là Lý Mộc Nguyên. Qua ba lần gặp ông, tôi được kết duyên phận này. Tôi nhớ lần đầu đến giảng ở chùa Song Lâm hai buổi, sau đó ông sắp xếp cho tôi giảng nhiều nơi, về sau mỗi năm Lý Mộc Nguyên đều đến mời tôi. Các vị thử nghĩ xem, nếu không có ông thì Singapore ai sẽ mời tôi, trong khi tôi chỉ quen biết vài người. Hiện tại ở Singapore có rất nhiều người đọc kinh Vô Lượng Thọ, người niệm Phật cũng nhiều. Hơn nữa, Tịnh Tông còn ảnh hưởng cả Đông Nam Á. Mỗi năm Lý cư sĩ nhiều lần phải đến Trung Quốc, đối với Phật giáo Trung Quốc cũng có ảnh hưởng rất lớn. Cho nên tôi không có công đức, công đức hoàn toàn là của ông ấy.

Nếu các vị muốn tu tích công đức thù thắng nhất thì nên làm hộ pháp. Hà tất phải lên đài làm giáo viên, giáo viên phước báu thấp nhất, còn gọi là giáo viên nghèo, trong khi đó ông chủ có phước báu lớn, trí tuệ lớn. Trí tuệ lớn vì ông có thể mời giáo viên, có thể đề ra chính sách giáo học tốt, có thể chân thật đem Phật pháp thúc đẩy mở rộng, là người có nhân lực, tài lực. Nhất định phải có đại phước đức, đại trí tuệ mới có thể làm đại hộ pháp. Còn không có phước báu, có chút ít trí tuệ thì đành phải học giảng kinh. Cho nên hoằng hộ, chúng ta cần phải phân định rõ ràng. Các vị pháp sư trẻ tuổi tương lai có phước báu lớn được làm trụ trì một phương hoặc lãnh đạo Phật giáo một phương, bạn phải có trí tuệ, mời thỉnh những vị pháp sư có thể giảng kinh, pháp sư tu trì, giúp đỡ các vị giáo hoá một phương, thì lúc đó bạn có công đức chân thật.

Giữ gìn chánh phápvô cùng quan trọng, chánh phápcửu trụ thế gian hay không, có lợi ích chúng sanh hay không đều phụ thuộc ở sự khéo hộ trì. Khéo hộ trì chính là có phước đức, có trí tuệ. Trí tuệ để phán đoán chân vọng, phân biệt tà chánh, phải quấy; có phước báu thì họ có năng lực thúc đẩy, sức ảnh hưởng mới phát huy được. Đương nhiên việc hộ pháp không phải người nào cũng có thể làm được, nhưng chỉ cần phát tâm, phước báu trí tuệ kém một chút vẫn có thể làm được. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên nói rất hay, chúng ta không có phước báu nhưng Phật A Di Đà có phước báu, chúng ta không có trí tuệ thì Phật A Di Đàđại trí tuệ. Cả đời chúng ta chỉ cần dựa vào Phật A Di Đà thì không có trí tuệ cũng biến thànhtrí tuệ, không có phước báu cũng biến thành có phước báu. Lý Mộc Nguyên tìm được ngọn núi tốt để dựa vì vậy mười năm qua, công việc Phật sự của ông thuận buồm xuôi gió. Cách dựa núi này thật hay, khiến người cảm động.

Mười năm trước, Lý Mộc Nguyên đã mắc bệnh ung thư. Lần đầu tiên khi tôi gặp ông, ông rất mập, giống như Bồ tát Di Lặc vậy, cái bụng to, người tráng kiện. Đến năm thứ hai, thứ ba, ông bỗng ốm xuống rất nhiều. Lúc đó tôi vẫn chưa chú ý lắm, ông nói với tôi rằng bác sĩ chẩn đoán ông bị bệnh ung thư, thọ mạng cao nhất cũng chỉ được sáu tháng nữa. Hiện nay vẫn còn những báo cáo chẩn đoán và phim chụp X quang của ông vào thời điểm đó, nội tạng bên trong không còn chỗ nào tốt. Ông là một tín đồ Phật giáo chân thành, khi biết mình bị bệnh không thể cứu, ông đem tất cả việc buôn bán giao cho vợ, tài sản cũng đều giao hết, trên người không còn bất cứ thứ gì. Ông làm công quảcư sĩ Lâm, sống một ngày làm một ngày, cứ thế đợi vãng sanh. Đến nay đã mười mấy năm, sức khoẻ của ông càng ngày càng tốt. Hiện tại đi kiểm tra lại thì không thấy có thứ bệnh nào. Giới y ở Singapore cho đây là một kỳ tích, bởi vì ông không khám bệnh, không hề tìm bác sĩ, không uống thuốc, tất cả ông đều buông bỏ. Người ta giới thiệu bác sĩ giỏi, ông cũng không đi, chỉ một lòng niệm Phật, đợi Phật đến tiếp dẫn vãng sanh. Thế nhưng thật kỳ lạ, tế bào ung thư toàn thân ông quả nhiên tiêu mất, hiện tại thân thể khoẻ mạnh vượt qua người thông thường. Ông nói, năm trước thăm viếng Trung Quốc đại lục, đến phương bắc âm 2 độ, ông cũng chỉ mặc một chiếc áo sơ mi mà không cảm thấy lạnh. Mùa đông thân thể ông phát nhiệt ra bên ngoài, còn mùa hạ thì trong thân ông mát, thân thể đông ấm hạ mát, thật không thể nghĩ bàn.

Tôi ở đây giảng đạo của Phật pháp cho các vị nghe, các vị có thể bán tín bán nghi, chưa chắc thật tin, nhưng cư sĩ Lý Mộc Nguyên đã hiện thân nói pháp, ông làm cho bạn xem nên bạn có thể có tín tâm kiên định, chí nguyện kiên định. Ông đem tất cả buông bỏ, ngay một đời này hy sinh phụng hiến triệt đểPhật pháp, vì xã hội, và vì chúng sanh. Ông cùng với Phật A Di Đà đồng tâm, đồng nguyện, đồng hiểu, đồng làm, cho nên thân của ông chuyển đổi. Mười năm trước bị bệnh phải chết, đó là nghiệp báo thân của ông. Hiện tại ông đem nghiệp báo thân chuyển thành thân nguyện lực, kinh Hoa Nghiêm nói “lực trì thân, nguyện thân”, nguyện thân chính là thừa nguyện trở lại. Phước báu ngày nay của ông là do chư Phật Như Lai gia trì, do tất cả chúng sanh có phước, ông liền có phước. Đó là hiện thân nói pháp ngay trước mắt chúng ta.

Mỗi lần đến Trung Quốc đại lục, ông dẫn theo đoàn mấy mươi người, lần này ông đi tám ngày cũng dẫn theo hơn một trăm người cả già lẫn trẻ, có người già đến hơn tám mươi tuổi. Bạn thấy có ai gan lớn như vậy, dám dẫn theo một số người già, nếu nhỡ người già bị bệnh hay xảy ra việc gì ở đại lục thì làm sao gánh vác nổi. Lễ xưa của Trung Quốc có nói “Bảy mươi không giữ lại đêm, tám mươi không giữ lại ăn cơm”, người già bảy mươi tuổi không nên giữ lại trong nhà, vì nếu nhỡ bỗng nhiên qua đời, người ta sẽ nghi bạn mưu hại, bạn cũng không thể thanh minh được với quan tòa, cho nên không nên giữ người bảy mươi tuổi lại trong nhà. Nếu tám mươi tuổi, tuổi tác càng lớn thì càng không nên giữ lại ăn cơm, nếu nhỡ họ ăn cơm bị làm sao cũng sẽ xảy ra chuyện. Ấy thế mà, ông Lý Mộc Nguyên to gan dẫn theo người già bảy tám mươi tuổi đi du lịch. Đây chính là Tam Bảo gia trì. Nhiều năm đến Trung Quốc đại lục, nhiều lần dẫn theo người già tham quan du lịch nhưng ông không hề gặp việc gì trắc trở, đi và về rất bình an. Không phải lực gia trì của Tam Bảo thì nhất định không thể làm được. Cho nên tôi nói với mọi người, Lý Mộc Nguyên là một Bồ tát sống, nếu các vị muốn đi du lịch thì hãy đi theo ông, nhất định không có vấn đề. Còn bạn đi với người khác thì tôi không dám bảo đảm.

Lý Mộc Nguyên nói với tôi, ông bằng lòng dẫn hai loại người, già và trẻ nhỏ, với điều kiện hai loại người này chịu nghe lời. Ông không dẫn người trẻ tuổi không biết nghe lời. Tham quan du lịch, nếu không dẫn người già thì ông dẫn trẻ nhỏ. Một lần ông dẫn theo hơn một trăm em nhỏ du lịch đến Phúc Kiến, đời sống của ông, ăn uống rất đơn giản. Người ta tặng ông thức gì ngon, bổ dưỡng, ông liền chuyền tay tặng ngay cho người khác, bản thân không cần đến. Chúng ta đọc kinh Phật, nghe tôi diễn giảng ở đây, lại được thấy xem cư sĩ Lý Mộc Nguyên thì phải sanh khởi tín tâm, chăm chỉ nỗ lực tu học, đó mới là phước báu chân thật, mới là an vui chân thật. Lý Mộc Nguyên đã toàn tâm toàn lực giúp đỡ Phật giáo Trung Quốc hưng vượng. Trung Quốc an định nghĩa là cả thế giới an định, vì Trung Quốc đất rộng người đông, một tỉ ba dân số, là trung tâm của thế giới. Nếu chúng ta muốn toàn thế giới an định, người trên toàn thế giới đều được hạnh phúc mỹ mãn thì nhất định phải giúp đỡ Trung Quốc. Lý Mộc Nguyên toàn tâm toàn lực như vậy, nên được Phật Bồ Tát phù hộ, gia trì, không phải không có đạo lý. Việc ông làm hôm nay là việc công đức hy hữu, sức mạnh đó của ông từ đâu mà có? Từ tất cả quí vị ở phía sau giúp đỡ ông. Nếu quí vị không bỏ tiền bỏ sức giúp ông thì ông cũng không thể làm được việc gì cả. Những liên hữu ở Singapore, liên hữucư sĩ Lâm là hậu thuẫn của ông. Những điều ông làm chính là của tất cả bạn đồng tucư sĩ Lâm cùng Tịnh Tông Học Hội. Ông chỉ là đại diện cho sự đồng tâm hiệp lực của mọi người, vì Tam Bảo, vì xã hội, vì chúng sanh, mà làm nên những việc tốt này. Ông có phước báu, và mỗi người các bạn đây cũng đều có phước báu.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19450)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18565)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16101)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29915)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25497)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21632)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17836)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20843)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26364)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33374)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52197)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22902)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23426)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39685)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21811)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22402)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6871)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22745)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69851)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44056)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23112)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35069)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44120)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42942)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44442)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24930)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24399)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39259)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39271)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17279)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18073)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19290)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35716)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24255)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19615)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20428)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18330)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 19029)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18957)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17491)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19351)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30863)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19212)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20551)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19574)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19782)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29851)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17854)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19428)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19898)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58806)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24427)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23544)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39795)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26744)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40792)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22898)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22959)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21618)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18641)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22614)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21100)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19237)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20947)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20348)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30578)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20209)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17484)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16619)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16881)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14980)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14852)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22886)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16072)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16238)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15289)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26167)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17226)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15827)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19801)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17696)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14714)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14776)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19158)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15153)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33082)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17512)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19153)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21841)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23052)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16645)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16521)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16567)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 23015)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26423)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12764)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29540)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27747)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25959)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18482)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant