Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 12

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10101)
Phần 12


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 12)

 

Pháp Sư Tịnh Không

Thứ tư “Đại chúng sanh khổ cúng dường”, kinh Phật đã nói, tất cả chúng sanh thọ dụng của cả một đời đều là tự làm tự chịu. Không ai có thể thay thế cho ai. Thế nhưng ngay trong “không thể thay thế”, cũng có điểm gần giống thay thế. Chư Phật Như Lai, pháp thân đại sĩ, các ngài đã siêu việt mười pháp giới, có thể không cần đến, nhưng vì sao còn trở lại mười pháp giới, còn trở lại sáu cõi, thậm chí trở lại ba đường? Đó là tùy loại hoá thân, như trong Phổ Môn Phẩm đã nói: “đáng dùng thân gì để độ, ngài liền hiện thân đó để độ; đáng dùng thân người để độ, ngài liền hiện thân người; đáng dùng thân Phật, ngài liền thị hiện thân Phật; đáng dùng thân súc sanh, ngài liền hiện thân súc sanh; thậm chí đáng dùng thân cỏ cây thì ngài liền hiện thân cỏ cây”. Vậy khi thọ thân này, ví dụ, Phật Bồ Tát đến thế gian thọ thân người, cũng trụ thế mấy mươi năm như Thích Ca Mâu Ni Phật, giảng kinh nói pháp suốt 49 năm.

Thế Tôn ở đời cũng có đời sống giống y chúng ta, thậm chí còn khổ cực hơn, mỗi ngày phải ra ngoài khất thực. Ngài có thể không cần phải chịu như vậy, nhưng ngài bằng lòng nhận chịu đời sống này, làm ra một tấm gương để chúng ta xem, “thay chúng sanh chịu khổ”. Đó đều là mong muốn cho tất cả chúng sanh giác ngộ. Trong thế gian, chúng sanh mê hoặc điên đảo không hiểu rõ chân tướng sự thật, ngày ngày tranh danh đoạt lợi, tạo tác vô lượng vô biên tội nghiệp, về sau rơi vào ba đường chịu khổ, thử hỏi có oan uổng không. Cho nên Thế Tônchúng ta thị hiện, người ta muốn danh, muốn quyền lực, muốn địa vị, còn ngài là một vương tử, thứ nào mà chẳng có. Địa vị quốc vương, quyền lực lớn nhất trong một nước, không ai sánh bằng, tài sản của ngài, người xưa thường nói “quý vi thiên tử, phú hữu tứ hải”. Những thứ người khác muốn tranh giành thì ngài đã có đầy đủ, ấy vậy mà ngài xả bỏ tất cả. Đó chính là nói với chúng ta, những thứ đó đều là giả, không phải thứ tốt. Thứ tốt nhất là tu hành. Ngài chân thật làm ra tấm gương dạy bảo chúng ta. Nếu bản thân ngài không làm được, thì có dạy chúng ta nhìn thấu buông bỏ, làm sao chúng ta tin tưởng. Ngài đã làm được, thậm chí viên mãn, chúng ta không thể không tin tưởng, học tập theo.

Ngày nay, không ít người giàu có, nếu như bạn có thể đem đời sống giàu có của mình hạ thấp xuống một bậc, bạn đem tiền của đi bố thí, đi giúp đỡ chúng sanh khổ nạn, đời sống của bạn hạ xuống một bậc đồng nghĩa với khổ hơn, nhưng đó là hạnh “thay chúng sanh chịu khổ”. Cư sĩ Liễu Phàm trong Liễu Phàm Tứ Huấn đã viết, vợ chồng Viên Liễu Phàm cứ mỗi mùa đông, họ may quần áo cho con cái nào là áo bông, áo len,… ông liền nghĩ đến những người nghèo không có áo ấm mặc. Ông đem bán áo bông để làm áo gòn, như vậy thì một bộ có thể đổi được ba bốn bộ, người trong nhà không thiếu mà còn có thể dư ra bố thí cho người khác, “thay khổ cho chúng sanh”. Cho nên chúng ta ở trong cuộc sống, tiết kiệm một chút, chịu khổ một chút thì có thể giúp đỡ chúng sanh một chút. Người hay giữ tâm này chính là người có hạnhh “thay chúng sanh chịu khổ”. Chúng ta cũng phải luôn giữ tâm này. Thế gian người khổ rất nhiều, đời trước chúng ta tu được chút phước, không nên hưởng hết ngay trong đời này, phải biết không ngừng tiếp tục tu phước thì phước báu của chúng ta không thể cùng tận, ngược lại phước báu sẽ kéo dài.

Thời xưaẤn Độ, Trung Quốc, đệ tử nhà Phật không luận tại gia xuất gia, rất nhiều người tu khổ hạnh. Không phải họ không thể cải thiện đời sống của chính mình, mà chính là mỗi niệm họ đều nghĩ đến thế gian vẫn còn nhiều chúng sanh khổ. Trong số người xuất gia đầu năm Dân quốc, lão hòa thượng Hư Vân, đại sư Ấn Quang là tấm gương tốt của người xuất gia chúng ta. Hai vị đại đức này đều rất tuyệt vời, tín đồ của các ngài rất đông, cúng dường các ngài rất phong phú. Thế nhưng lão hòa thượng Hư Vân chưa từng may một bộ quần áo mới nào. Hiện nay còn lưu giữ nhiều hình chụp của lão hòa thượng, quần áo mặc trên người đều đắp vá rất nhiều chỗ. Tôi chưa từng thấy tấm hình nào của ngài mà quần áo không đắp vá. Thực ra ngài có nhiều quần áo mới, người ta nhìn thấy lão hòa thượng mặc quần áo rách liền lập tức đưa quần áo mới đến, chất liệu tốt, vải đẹp, kỹ thuật may cao, nhưng lão hòa thượng đã làm gì với số quần áo mới đó? Xem cũng không xem qua, khi tín đồ đi, lão hoà thượng liền đem cúng dường người khác, những bậc sơ học, người mới tu không có ai cúng dường. Còn bản thân lão hòa thượng, ngài vẫn mặc đồ rách cũ, “chịu khổ thay cho chúng sanh”.

Đại sư Ấn Quang nhận cúng dường cũng nhiều, lão hoà thượng cũng đem tất cả đồ cúng dường phục vụ công việc hoằng pháp lợi sanh. Cả đời đại sư chỉ làm công việc như vậy, thật gọi là một môn thâm nhập. Ngài ở chùa Báo Ân Tô Châu thành lập một Hoằng Hóa Xã, là nơi lưu thông kinh Phật. Ngài đem cúng dường của mười phương xây dựng thành nguồn vốn in sách biếu tặng, rồi đến khắp nơi kết duyên với người. Sách của Hoằng Hóa Xã in rất đẹp, có thể gọi là sách thiện, hiệu đính kỹ lưỡng, rất ít chữ sai, rất rõ ràng, khổ sách rộng, đẹp mắt. Cả đời ngài chỉ làm một việc như vậy, làm sao chúng ta biết? Đó là lúc ngài ở Thượng Hải “Hộ Quốc Tức Tai Pháp Hội”, trong lúc diễn giảng, lão hòa thượng nhắc đến phương Bắc vừa gặp tai nạn, ngài trích từ tài khoản in kinh ra 3000 tiền đại dương đi cứu trợ. Cứu trợ của ngài lấy từ quỹ in kinh, do đây có thể biết tất cả tiền của ngài, từng li từng tí đều phục vụ công việc in kinh bố thí, không hề đem đi làm việc khác. Đời sống của lão hòa thượng vẫn y như mọi người, không hề cải thiện. Không hề ăn một chút gì đó ngon hơn, không hề may một bộ đồ mới nào, cũng không hề chỉnh lý hoàn cảnh nơi ở của mình. Người cúng dường tiền rất nhiều, nhưng ngài vẫn trải qua ngày tháng cực khổ, vĩnh viễn không quên “thay chúng sanh chịu khổ”.

Chúng ta giảm bớt một phần hưởng thụ liền giảm bớt một phần chúng sanh khổ, đó là điều chúng ta nên học tập. Nếu thường giữ tâm này, thường làm việc này, chúng ta đời đời kiếp kiếp đều sẽ không có khổ nạn. Bạn có thể “thay chúng sanh chịu khổ” thì làm sao bạn có cái khổ. Xã hội hiện tại nhiều người khổ nạn, người bệnh khổ càng đáng thương, và nhất là những người cùng khổ bị bệnh, cho nên không ít đoàn thể tôn giáo làm từ thiện, xây bệnh viện, bố thí thuốc men. Xã hội hiện đại giàu có, quốc gia luôn có những chính sách chăm sóc điều trị đối với nhân dân, ngoài ra mỗi người đều chú ý việc dự phòng bệnh tật cho chính mình. Họ thủ một ít tài vật phòng khi bị bệnh, khi có khổ nạn thì dùng. Tuy nhiên, người chân thật thông minh sẽ đem những tiền này bố thí hết, đem tất cả phí chuẩn bị thuốc thang của ta bố thí cho những người bệnh.

Có lẽ bạn muốn hỏi: “Vậy đến khi chính mình bị bệnh thì phải làm sao?” Xin thưa với các vị, nhất định bạn sẽ không bị bệnh, vì sao? Vì phí thuốc men bạn đã bố thí hết. Còn bạn cứ cất giữ tiền chuẩn bị bệnh thì nhất định sẽ bị bệnh, không bệnh thì tiền đó làm sao dùng. Cho nên không thể không bệnh. Muốn chuẩn bị tiền cho tương lai có tai nạn gì thì bạn nhất định sẽ gặp nạn. Phật pháp nói rất hay “Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”, bạn không có bệnh nhưng nghĩ bệnh thì phải bị bệnh; cũng vậy, không có nạn nhưng luôn chuẩn bị tương lai có nạn, cho nên tai nạn cùng tật bệnh nhất định không thể tránh khỏi. Nếu bạn đem đi bố thí hết, trong lòng thản nhiên, bạn cũng sẽ không gặp nạn, sẽ không bị bệnh, tự tại dường nào, thế thì tại sao còn không xả hết?

Trồng nhân như thế nào, thì sẽ gặp quả báo như thế đó”, nhất định không hề sai. Chúng ta phải hiểu được “thay chúng sanh chịu khổ”, phải có thực lực, tận sức mà làm, đặc biệtchúng sanh cử thế ngày nay. Bạn phải nên biết, khổ nạn lớn nhất là gì? Đó là không nghe được Phật pháp, bao gồm cả chúng sanh khổ nạn. Không có gì lớn hơn so với khổ nạn này. Sau khi nghe Phật pháp, họ giác ngộ, còn không nghe Phật pháp, vĩnh viễn mê hoặc điên đảo. Ngày tháng của họ càng ngày càng khổ, càng mê càng sâu. Cho nên hôm nay chúng ta bố thí Phật pháp, đó chính là một trong những điều “thay chúng sanh chịu khổthù thắng nhất. Có thực lực thì xây đạo tràng, thỉnh pháp sư giảng kinh nói pháp, giúp đỡ chúng sanh một địa phương phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Đạo tràng như thế nào? Phải xây dựng một đạo tràng mô phạm, đạo tràng thúc đẩy giáo dục của Phật đà. Đạo tràng này không làm kinh sám, không làm pháp sự, và không làm pháp hội. Đạo tràng Tịnh Tông phải thuần Tịnh Tông, buổi tối giảng kinh, ban ngày niệm Phật.

Có lẽ các vị muốn hỏi: “Đạo tràng như vậy ở địa phương, nếu khôngpháp hội, không có pháp sự, thì thu nhập làm sao?”. Nếu thật sự dấn thân vào công cuộc thúc đẩy giáo dục của Phật đà mà còn bị chết đói thì chúng ta không cần tin Phật nữa, vì Phật pháp là giả. Bạn hãy chân thật tu hành đúng pháp, không cần phải đi phan duyên một người nào, không cần phải nịnh bợ bất cứ ai, cũng không cần phải xin tín đồ một xu nào, nếu bạn chết đói, Phật pháp đã có vị thần hộ pháp thứ nhất là Bồ Tát Di Đà. Bồ Tát Di Đà sẽ là vị cuối cùng phải xuống điều tra. Cho nên đạo tràng này nhất định được chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần bảo hộ, tuy bạn có thể sẽ không dư giả nhưng đời sống của bạn nhất định không có vấn đề, lương thực của bạn hết, Bồ tát Di Đà sẽ tìm người đưa lương thực đến cho bạn, không để bạn thiếu hụt, đói khát, cũng không để bạn lạnh rét. Chỉ cần một lòng niệm Phật, một lòng làm đạo thì tốt, danh vọng lợi dưỡng thảy đều buông bỏ, tâm địa Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác, đó gọi là đạo tràng chánh pháp.

Nếu bạn có thể xây dựng một đạo tràng như vậy, thì đó là đạo tràng mô phạm. Không luận đạo tràng lớn nhỏ, ở đó cộng tu, bốn chúng đồng tu đều tuân theo sáu phép hòa kính, đạo tràng này của bạn sẽ là đạo tràng đệ nhất thế gian, công đức đó thù thắng không gì bằng. Bạn đem một phần phước báu của chính mình xây dựng đạo tràng, lễ thỉnh pháp sư giảng kinh nói pháp, lãnh đạo đại chúng niệm Phật, giải hành tương ưng, chân thậtthay chúng sanh chịu khổ”. Cho nên khi mình có phước, không nên ở ngay đời này tận hưởng hết, đời sau sẽ không còn phước báu nữa. Hiểu tu phước như thế, phước báu đời sau sẽ không thể nghĩ bàn.

Thứ năm, “Cần tu thiện căn cúng dường”, đây là điều then chốt. Thiện căn chính là tất cả thiện pháp từ nơi gốc sanh ra. Kinh Phật nói, thiện căn của thế gian pháp có ba điều “không tham, không sân, không si”, chúng ta phải nỗ lực tu ba điều này. Ngược lại, tham sân si gọi là ba độc phiền não, những thứ luôn gây sự bất an. Trong lòng bạn có ba độc tham sân si, loại bệnh độc nghiêm trọng nhất trong tất cả bệnh độc thế gian thì hậu quả sẽ khôn lường. Bệnh độc thế giannghiêm trọng đến mấy cũng chỉ chết một mạng này, có gì đáng sợ, nhưng tham sân si là bệnh độc rất phiền phức. Tham mang đến quả báo đường ngạ quỷ, sân hận quả báo đường địa ngục, ngu si quả báo đường súc sanh. Khi mất đi thân người nhưng không thể có lại được thân người, mà đi đến ba đường ác, lúc đó bạn mới biết được sự nghiêm trọng của thứ bệnh độc này.

Thế gian tất cả ác chính là từ tham sân si mà ra, ngược lại tất cả việc thiện thế gian đều từ không tham, không sân, không si mà ra. Cho nên Phật thường nói “Cần tu Giới Định Huệ, diệt trừ tham sân si”. Tịnh Độ tông tuy không bảo bạn đoạn phiền não hay phục phiền não, nhưng một câu A Di Đà Phật rất có sức mạnh có thể áp chế được tham sân si, khiến nó không khởi tác dụng, như vậy mới đới nghiệp vãng sanh. Nếu bạn có thể tiêu trừ ba độc phiền não, vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc, xin thưa chẳng những là cõi phàm thánh đồng cư mà mức thấp nhất cũng là cõi Phương Tiện Hữu Dư, cao hơn đến cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Thời gian đi đến đó thành Phật sẽ rất ngắn. Ở thế giới cực lạc tu hành thành tựu cũng có thể đến thế giới phương khác làm Phật. Đồng tu chân thật học Phật phải hạ công phu đoạn tham sân si, nhất định tu Giới Định Huệ.

Giới là tâm thanh tịnh, Định là bình đẳng, Huệ chính là giác. Tâm thanh tịnh có thể phá tham, tâm bình đẳng có thể phá sân hận, giác có thể phá ngu si. Chỉ cần trong cuộc sống thường ngày, mỗi giờ mỗi lúc chúng ta đều lưu ý giữ tâm địa thanh tịnh, tâm địa bình đẳng, giác mà không mê thì đó chính là “Cần tu thiện căn cúng dường”. Một người niệm Phật, bốn chúng đồng tu tu học tịnh độ, mỗi niệm đều phải tương ưng với thanh tịnh bình đẳng giác.

Thứ sáu, “Bất xả Bồ tát nghiệp cúng dường”, sự nghiệp của Bồ tát là gì? Hiện tại các vị không luận nghề nghiệp nào, chỉ cần giác mà không mê thì nghề nghiệp đó của bạn chính là nghiệp của Bồ tát. Sự nghiệp Bồ tát cùng sự nghiệp của chúng ta không hề phân biệt. Ví dụ, chúng ta mở tiệm, mỗi ngày buôn bán, đó là sự nghiệp của bạn khi bạn chưa học Phật. Mục đích mở tiệm là để kiếm tiền, cái lợi này của riêng mình. Đến khi đã học Phật, làm Bồ tát, bạn mở tiệm không phải vì chính mình nữa mà vì xã hội, vì đại chúng, vì thuận lợi mọi người. Vậy cái tiệm đó của bạn chính là Bồ tát nghiệp. Không luận nghề nghiệp nào, chỉ cần ta lợi dụng nghề nghiệp đó để phục vụ xã hội, phục vụ chúng sanh thì gọi là Bồ tát nghiệp. Phật Bồ tát cùng chúng sanh khác biệt ở chỗ này, chính là giữa khoảng một niệm, ngoài ra không có khác biệt gì. Dù chúng ta còn trẻ, khi còn học ở trường thì là Bồ tát học trò, tức là người học trò ngay trong quan niệm của nó phải cố gắng học tốt khóa học, lấy được học vị, tương lai từ nghề nghiệp phát huy những cái chính mình đã học để phục vụ đại chúng xã hội, không nên vì cá nhân chiếm danh lợi, đó mới xứng đáng là học trò Bồ tát.

Phải nên hiểu sự nghiệp Bồ Tát trong đời sống hiện tại của mình. Nếu bạn là người chủ gia đình, gìn giữ gia đìnhsự nghiệp của bạn. Trong gia đình, bạn sắp đặt mọi thứ rất tốt, có trật tự làm cho người nhà thoải mái, tự tại, hoan hỉ thì gia đình bạn trở thành tấm gương tốt cho các gia đình khác, sẽ ảnh hưởng tích cực đến những người hàng xóm, khi đó bạn là người chủ Bồ tát. Cho nên sự nghiệp cuả Bồ tát không nhất thiết phải vào tự viện mà chính ngay đời sống hiện tại của bạn, ngay trong công việc trước mắt của bạn, thậm chí đến cách đối nhân xử thế tiếp vật. Chỉ cần mỗi niệm của bạn vì lợi ích chúng sanh, mỗi niệm giúp đỡ tất cả chúng sanh giác ngộ, dẫn dắt chúng sanh học Phật đều gọi là Bồ tát nghiệp.

Thứ bảy, “Bất ly bồ đề tâm cúng dường”. Trong bảy việc vừa nêu thì đầu và đuôi là quan trọng nhất. Phật trong kinh Quán Vô Lượng Thọ đã giảng cho chúng ta về tâm Bồ Đề. Thể của tâm Bồ Đềchân tâm của chính mình, là bản tánh của chính mình. Không ai không có tâm Bồ Đề, mỗi mỗi đều có tâm Bồ Đề. Đáng tiếc mê rồi thì không được gọi là tâm Bồ Đề, chỉ khi giác ngộ mới được gọi là tâm Bồ Đề. Do đó bạn nhất định phải giác ngộ, không thể mê hoặc nữa. Thể của tâm Bồ Đềtâm chân thành, đối với người, với việc và với vật nhất định phải dùng tâm chân thành, không thể dùng hư vọng. Phải nói lời thành thật, không gạt mình gạt người. Hiện nay, pháp luật trên toàn thế giới đều chú trọng đến quyền riêng tư, nghĩa là cá nhân có thể có bí mật, không cho người biết. Bí mật thì làm gì có bí mật tốt. Phải nên hoàn toàn phơi bày, không chút bí mật. Các vị phải biết, khi bạn có bí mật thì bạn sẽ sống rất khổ sở, phải thường bảo mật. Người không có bí mật sống tự tại, thoải mái, đối với bất cứ người nào cũng đều trung thực, không có gì che giấu.

Tôi ở Hoa kỳ, một số đồng tu trách tôi: “Vì sao ngài không có một chút bí mật nào hết vậy?” Tiền gửi ngân hàng, mọi người đều biết ngân hàng tôi gửi tiền, số tiền có bao nhiêu, không một người nào không biết. Họ nói: “Không thể để người khác biết”. Tôi nói: “Tại sao không thể để người khác biết? Số tiền đó không phải của tôi, tôi cũng sẽ không dùng đến nó. Số tiền đó do mọi người cúng dường, hiện tại không dùng thì đành phải để ngân hàng”. Từ trước đến giờ tôi không dùng đến, nên hiện tại số tiền đó phần lớn chi ra cho việc cung cấp học bổng, ngoài ra còn một số khổ nạn.

Lần trước ở HongKong, pháp sư Minh Tinh, học sinh khóa trước chúng ta, ông nói khi về quê hương, ông gặp một học trò trẻ tuổi, tính tình và việc học tập đều rất tốt, nhà anh ta nghèo khổ, không đủ tiền đi học, trong trường bằng lòng miễn học phí, nhưng sinh hoạt phí của anh ta cũng rất khó khăn. Tôi hỏi ông ấy: “Một tháng sinh hoạt phí phải tốn bao nhiêu tiền?” Hai trăm nhân dân tệ. Tôi liền bảo với ông ấy cố gắng giúp anh ta đi học thẳng đến đại học, tất cả phí dụng của anh ta, tôi sẽ trả. Một thanh niên tốt như vậy, chỉ vì hoàn cảnh sinh hoạt bức bách mà không thể đi học thì thật đáng tiếc. Khi anh ta học xong sẽ trở thành nhân tài của quốc gia, vì địa phương đã tạo phước.

Chúng ta đối với người một lòng chân thành, nhất định không một câu vọng ngữ. Tâm chân thành khởi tác dụng chính là thâm tâm cùng tâm đại bi. Thâm tâm là hiếu thiện, hiếu đức; tâm đại bi là giúp tất cả chúng sanh, đại từ đại bi. Trong tịnh tông chúng ta đã nói “Hồi hướng phát nguyện tâm”, tất cả công đức tu được, chính mình không cần hưởng thụ mà hoan hỷ cho tất cả chúng sanh hưởng thụ, bạn nghĩ xem có tự tại hay không? An lạc dường nào. Có rất nhiều người trải qua ngày tháng hạnh phúc an vui, đó mới là an vui chân thật, hạnh phúc chân thật. Kinh Hoa Nghiêm, Bồ tát Phổ Hiền nói về bảy loại pháp cúng dường, chúng ta phải quảng tu, phải dùng tâm chân thành mà tu, tận tâm tận lực mà tu, phước báu bạn có được cũng giống như trên quả địa Như Lai viên mãn đến như vậy.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19498)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18607)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16146)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29961)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25542)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21672)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17872)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20863)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26384)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33410)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52246)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22931)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23455)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39719)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21840)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22442)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6893)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22775)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69893)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44099)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23156)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35121)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44164)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42968)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44499)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24960)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24423)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39290)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39311)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17298)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18094)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19310)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35732)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24276)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19656)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20456)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18359)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 19077)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18989)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17529)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19381)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30926)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19247)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20574)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19613)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19820)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29901)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17873)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19457)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19928)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58845)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24448)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23572)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39823)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26766)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40833)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22934)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22982)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21644)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18674)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22624)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21116)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19269)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20981)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20382)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30604)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20230)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17503)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16640)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16912)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14990)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14879)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22929)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16092)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16258)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15303)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26211)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17247)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15861)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19845)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17733)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14740)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14796)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19184)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15184)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33116)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17540)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19185)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21872)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23097)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16679)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16558)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16615)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 23062)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26469)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12794)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29591)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27799)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 26008)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18499)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant