Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 35

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10550)
Phần 35


KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 35)


 

Pháp Sư Tịnh Không

Thứ hai là “Lục hòa”

Đồng tu cộng tu với nhau nhất định phải tu sáu hòa kính.

- Một, “Kiến hòa đồng giải”. Phải hòa thuận, tôn trọng lẫn nhau. Xem tất cả đại chúng thành chư Phật Như Lai, thành hóa thân của Phật A Di Đà. Dùng tâm cung kính nhất để đối nhân xử thế tiếp vật. Người khác dùng tâm trạng nào để đối xử với chúng ta, chúng ta cũng không quan tâm chú ý, mà chỉ quan tâm mình dùng tâm trạng gì để đối với họ. Nhất định dùng tâm Phật đối với người. Mọi người đều là A Di Đà Phật thị hiện cho chúng ta xem, giúp đỡ chúng ta thành tựu. Mỗi người đều học như vậy thì kiến hòa đồng giải viên mãn, chân thật nhập Phật tri kiến. Phàm phu nhập Phật tri kiến là không thể nghĩ bàn. Đó là đại tâm phàm phukinh Hoa Nghiêm đã nói. Ngày nay chúng ta không làm được A La Hán, Bồ tát, nhưng chúng ta phải làm đại tâm phàm phu. Không khó. Đích thực mỗi vị đồng tu đều có thể làm được. Tâm hạnh của chúng ta liền có thể tương ưng với năm khóa mục này.

- Hai, “Giới hòa đồng tu”. Chữ “Giới” mang nghĩa rất rộng. Ngày nay chúng ta trì giới, hy vọng nỗ lực triệt để làm được năm giới mười thiện, chưa kể đến Bồ tát giới, hay tỳ kheo giới. Người xuất gia nên học đại sư Ngẫu Ích, đại sư Hoằng Nhất. Các ngài trì sa di mười giới, năm giới. Đại sư Ngẫu Ích sau khi thọ giới thì xả giới, cả đời ngài chỉ trì giới sa di. Cho nên các vị thấy trong rất nhiều văn tựSa di Bồ tát giới. Ngài không dám xưng tỳ kheo. Ngài là Sa di Bồ tát. Thành Thời là học trò của ngài. Thầy đã xưng Sa di thì học trò không dám xưng Sa di, cho nên pháp sư Thành Thời xưng là Ưu Bà Tắc, mặc dù là người xuất gia. Thật ra, cách xưng đó mới đúng với thân phận của chúng ta ngày nay. Thân phận của chúng ta là gì? Xuất gia Ưu Bà Tắc. Còn các vị là tại gia Ưu Bà Tắc. Tôi là Ưu Bà Tắc thị hiện thân tướng xuất gia. Thảy đều trì năm giới mười thiện.

Trong kinh Vô Lượng Thọ, năm giới mười thiện có giải thích tỉ mỉ từ phẩm ba mươi ba đến phẩm ba mươi bảy. Đoạn kinh văn này thuyết minh tường tận năm giới mười thiện. Chúng ta trì năm giới mười thiện thì thanh tịnh, đúng với tên thật, là xuất gia Ưu Bà Tắc. Đây là trì giới. Ngoài ra, trì giới còn một nghĩa nữa là thủ pháp. Đạo tràng thường đông người, nếu khôngquy củ thì nơi đây trở thành một đoàn thể hỗn loạn, không giống đạo tràng. Những quy củ này cần phải tuân thủ. Bên ngoài xã hộiquốc gia, quốc giapháp luật, rất nhiều quy ước, chúng ta cũng phải tuân thủ. Làm một công dân tốt tuân thủ pháp luật, làm một người tu hành giữ pháp, làm một đệ tử Phật giữ pháp.

- Ba, “Thân hòa đồng trú”. Tương lai sau khi thôn Di Đà khánh thành, rất nhiều đồng tu niệm Phật cùng ở với nhau. Đôi bên cùng chăm sóc, sách tấn lẫn nhau. Hy vọng hiện tại chúng ta cùng đồng trong thôn Di Đà thì tương lai chúng ta cũng ở chung trong Hải Hội Liên Trì. Như vậy mới chân thật đạt đến mục tiêu. Tôi kiến nghị, mỗi cửa phòng trong thôn Di Đà đều là cửa kính trong suốt. Người ở đó không thể giải đãi lười biếng. Hoặc chí ít phải làm một cửa sổ bằng kính nhỏ, người ngoài đi tới đi lui có thể nhìn thấy được bên trong. Còn cửa phòng đóng kín thì không thể thanh đạo, người ngoài không biết được họ đang làm gì, giải đãi lười biếng ra sao. Đồng tu ở thôn Di Đà phải chú ý, thôn Di Đà hoàn toàn trong suốt hóa, tương lai ngay đến thân thể cũng trong suốt, không chút ô nhiễm. Chúng ta phải đạt tiêu chuẩn này. Đây cũng là tác sư tác phạm. Cho nên phải thủ pháp, đó mới chân thậtý nghĩa của thân hòa đồng trú.

- Bốn, “Khẩu hòa vô tranh”. Hy vọng sau khi bước vào thôn Di Đà, cho dù bạn ở một năm, hai năm hoặc cả đời, bạn cũng sẽ không nói câu nào ngoại trừ câu A Di Đà Phật. Bạn nhất định thành Phật, nhất định thượng thượng phẩm vãng sanh. Vì sao? Vì không có lời nào đáng nói, nói ra đều thừa. Bạn nói ra lời nói đều là tiếp nối sáu cõi luân hồi, nên bắt đầu từ hôm nay không tiếp nối sáu cõi luân hồi nữa. Không nói chuyện. Bạn chào hỏi, tôi đều A Di Đà Phật. Bạn nói cái gì, nhiều hay ít thì tôi đều A Di Đà Phật, một câu cũng không cho lọt vào. Làm như vậy tâm bạn mới thanh tịnh, khẩu nghiệp của bạn mới chân thật tiêu được sạch trơn.

- Năm, “Ý hòa đồng giải”. Cùng ở chung nơi đây nhất định pháp hỷ sung mãn. Bạn nhất định đạt được cảnh giới này. Hai mươi bốn giờ niệm Phật sẽ sanh tâm hoan hỷ, không mệt, không chán. Niệm mệt thì nghỉ một lát. Khi nghỉ ngơi, tôi khuyên đồng tu không cởi áo tràng. Chúng ta mặc áo tràng niệm Phật, nghỉ ngơi chốc lát vẫn không cởi áo tràng. Điều đó nhắc chúng ta khỏe rồi phải mau vào niệm Phật đường. Tự động tự phát, không cần có người đến gõ cửa. Mặc dù mỗi đơn vị chúng ta có một trưởng liêu do các vị chọn lựa. Họ có nhiệm vụ cứ thấy thời gian đến mà bạn vẫn lười biếng thì sẽ đến gõ cửa bạn. Niệm Phật đường có pháp sư. Trong các pháp sư cũng có một người chuyên phụ trách công việc nhắc nhở, gọi là tuần phang.

Khi bạn niệm Phật bị hôn trầm, ngủ gật trong niệm Phật đường, ngày xưa dùng tuần phang, một cú phang nhẹ lên đầu bạn, làm cho bạn tỉnh lại. Ở đây không như thiền đường, thiền đường dùng hương bản để đánh. Còn ở đây chúng ta không đánh mà dùng tuần phang hoặc phất trần để nhắc nhở mọi người. Đó là sự hợp tác lẫn nhau nhằm chân thật làm đến được pháp hỷ sung mãn.

- Sáu, “Lợi hòa đồng huân”. Mười phương cúng dường quy về thường trụ. Thường trụ phụ trách cơm áo, đi đứng cho mọi người. Bạn đến niệm Phật đường này niệm Phật thì không cần mang theo một phân tiền, không cần lo lắng đời sống, chỉ cần chân thật niệm Phật là được. Tôi nghĩ tin tức này sẽ truyền đến xã hội, mọi người trong xã hội sẽ không làm việc nữa vì mưu sinh rất khổ cực, chỉ đến niệm Phật đường để niệm Phật. Tương lai niệm Phật đường của chúng ta ắt hẳn đầy ắp người. May mà hoằng nguyện của cư sĩ Lý Mộc Nguyên rất lớn, ông dự định xây dựng thôn hai, thôn ba, thôn bốn, thậm chí xây thành thành phố Di Đà, nước Di Đà. Thật là khó được duyên phận hy hữu như vậy. Chúng ta hoan nghênh xã hội an ổn, khiến mọi người chân thậtnơi nương tựa. Nhưng thôn Di Đà là chỗ nương về chân chính của chúng ta, vô lượng công đức, được chư Phật tán thán. Đó là tương ưng với lục hòa.

Thứ ba là “Tam học Giới Định Huệ”

Thứ tư là “Lục độ: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và bát nhã”

Thứ năm là “Phổ Hiền Bồ tát thập nguyện”

Các vị có thể không nhớ rõ ràng, nhưng đều hiểu ý nghĩa của từng khóa mục; khởi tâm động niệm, lời nói việc làm của chúng ta đều tương ưng với năm khóa mục này. Sau đó phát tâm thanh tịnh, một lòng chuyên niệm, quyết thành thục Bồ tát, vô biên thiện căn.

“Thành thục Bồ tát, vô biên thiện căn”

Thiện căn vô biên, đơn giản mà nói là đại từ bi, đại tinh tấn. Quyết cầu sanh tịnh độđại từ bi, bởi vì bạn sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc thì bạn liền thành Phật. Hiện tiền niệm Phật đường, giảng đường, thôn Di Đà là trạm tiếp dẫn đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Đến nơi đây cũng là đến thế giới Tây Phương. Bạn ở đây nếu như đúng lý đúng pháp mà tu học thì nhất định vãng sanh. Ngày trước tôi giảng giải kinh Vô Lượng Thọ đã nói qua, kinh này là chứng thư để chúng ta vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, đó là bảo chứng bạn vãng sanh nếu bạn y giáo phụng hành. Không chịu khó làm là việc của bạn nhưng khi chân thật làm theo thì không ai không vãng sanh. Vãng sanh thế giới Tây Phương mới có thể làm Phật Bồ tát, mới có thể giống Bồ tát Quán Âm, Phổ Hiền, Địa Tạng, phân thân vô lượng vô biên, độ hóa chúng sanh mười phương thế giới, đó chẳng phải là đại từ bi hay sao? Còn có loại từ bi nào có thể so với họ?

Thiện căn” chỉ tinh tấn. Thiện căn của người thế gianthế pháp. Thế pháp này gọi là thiện pháp trong mười pháp giới, từ ba thiện căn vô tham, vô sân, vô si sanh ra. Trong mười pháp giới, bao gồm tất cả ác pháp từ ba độc tham sân si sanh ra, bao gồm tất cả thiện pháp từ vô tham, vô sân, vô si sanh ra. Nói đến pháp xuất thế là nói đến siêu việt mười pháp giới, hay pháp giới nhất chân. Trong pháp giới nhất chân đều là pháp thân đại sĩ, thiện căn tinh tấn. Thiện căn của pháp thân đại sĩ chỉ có một điều, đại tinh tấn. Hiện tại chúng ta tuy chưa chứng được pháp thân đại sĩ, nhưng mỗi ngày niệm Phật hai mươi bốn giờ đồng hồ từ đầu năm đến cuối năm không gián đoạn cũng coi như đại tinh tấn, có thể so với pháp thân đại sĩ, tuyệt nhiên không kém hơn họ.

Thành thục”, chú trọng ở hai chữ này. Nếu khôngduyên phận thù thắng thì làm sao thành tựu? Đúng như đại sư Thiện Đạo đã nói trong chú giải của Quán kinh: “Tất cả thành thục tổng tại ngộ duyên”. Duyên rất quan trọng. Duyên là điều kiện. Hiện tại ở đây, điều kiện niệm Phật đầy đủ, quá thù thắng. Có rất nhiều Bồ tát, rất nhiều người tu hành mong cầu mà không được. Tôi đã nghĩ đến thôn Di Đà cách đây mười sáu năm, và luôn cho rằng mình vọng tưởng không thực hiện được. Không ngờ lại có thể thực hiện ở nơi đây, thật hy hữu. Đến nay tôi vẫn cảm thấy kinh ngạc, hơn nữa sự thành tựu còn viên mãn đến như vậy. Nếu không được oai thần của Phật gia trì thì không thể. Thành thật mà nói, Bồ tát gia trì cũng không được, nhất định phải oai thần chư Phật Như Lai gia trì mới làm được. Chúng sanh ở đây, duyên thành Phật ngay trong một đời này chín mùi, nên mới có cảm ứng thù thắng đến vậy. Các vị đồng tu phước báu hy hữu, vô lượng kiếp đến nay vào lúc này hoa khai kết quả. Đó là thành thục.

Thành thục Bồ tát, vô biên thiện căn” là nói tương ưng. Đã tương ưng liền cảm động chư Phật hộ niệm.

“Vô lượng chư Phật, hàm cộng hộ niệm”

Câu nói này cảm xúc rất sâu sắc đặc biệt, gần như chính mắt chúng ta thấy, chính tai chúng ta nghe, chính thân tiếp xúc, chân thật chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần ủng hộ. Cho nên, thế nhân cầu Phật Bồ tát bảo hộ rất đông, nhưng họ dùng phương pháp gì để cầu? Hối lộ. Họ đến miếu bái bái lạy lạy, cầu khẩn với Phật Bồ tátTôi cúng dường ngài từng này, ngài bảo hộ tôi phát tài, sau đó tôi trở lại hoàn nguyện, sẽ cúng dường ngài từng này”. Họ mặc cả với Phật Bồ tát rồi đưa ra điều kiện. Làm gì có loại đạo lý ấy? Nên không có cảm ứng. Để được Phật Bồ tát hộ niệm, bạn không cần điều kiện. Các ngài chỉ xem bạn có thật chịu làm hay không. Làm như thế nào? Y giáo phụng hành. Phật dạy bảo bạn, bạn chân thật phát tâm, không màng đến hậu quả thì bạn được vạn chư Phật hộ niệm. Nếu bạn chịu làm, phát tâm nhưng còn lo lắng, nghi hoặc, chẳng hạn nghĩ xây lầu to tốn rất nhiều tiền nhưng nếu lỡ tín đồ cúng dường không đủ thì phải làm sao, như vậy Phật Bồ tát sẽ không quản việc của bạn. Vì bạn không thật lòng, bạn còn xen tạp vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì làm sao có cảm ứng.

Cảm ứng có được duy nhấttâm chân thành. Đến lúc đó nếu thật không ai góp tiền, Phật Bồ tát sẽ cho người mang tiền đến. Không thể nghĩ bàn. Đó là thật, nhất định không phải giả. Loại thí dụ cảm ứng này, từ xưa đến nay, chúng ta xem thấy trong truyện ký cảm ứng lục rất nhiều. Chỉ có chí thành tột đỉnh mới được cảm thông. Còn hơi một chút xen tạp, một chút riêng tư thì liền phá hoại hết thảy pháp. Người trụ trì lãnh đạo không mang lòng riêng tư, chỉ có chân thành, thì tôi tin chắc tương lai, người ở trong niệm Phật đường, đồng tu nghe kinh ở giảng đường chỉ có tâm chân thành. Mọi người đồng một mảng chân thành thì sức cảm ứng đó sẽ rất to lớn. Cho nên, đạo tràng thù thắng trang nghiêm có thể xây dựng tại khu vực này không phải là việc ngẫu nhiên.

CHƯ PHẬT SÁT TRUNG, GIAI NĂNG THỊ HIỆN. THÍ THIỆN HUYỄN SƯ, HIỆN CHÚNG DỊ TƯỚNG. Ư BỈ TƯỚNG TRUNG, THẬT VÔ KHẢ ĐẮC. THỬ CHƯ BỒ TÁT, DIỆC PHỤC NHƯ THỊ.”

Trong tám tướng thành đạo thì đoạn kinh văn này thuộc tướng thứ bảy “Chuyển pháp luân tướng”. Kinh văn tương đối dài, bên trên phân thành hai đoạn lớn. Trước nói tổng tướng của chuyển pháp luân, sau nói biệt tướng của chuyển pháp luân. Gọi là “chuyển pháp luân”, vì Thế Tôn xuất hiệnthế gian nhằm làm công tác giáo học. Thuật ngữ hiện đại gọi là công việc giáo dục xã hội. Trong biệt tướng thì nửa phần phía trước nói “hạnh Phổ Hiền”, nửa phía sau nói “trí Văn Thù”. Từ nội dung này mà quan sát, chúng ta rất dễ liên tưởng đến kinh Hoa Nghiêm, từ đầu đến cuối cũng cách thức tương tự. Đó là chú trọng hành môn và đức hạnh.

Trên kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiềntrưởng tử, Văn Thùthứ nam. Đó là thí dụ nói rõ một sự việc, trong hai môn giải hành thì hành môn xếp thứ nhất, giải môn xếp hàng kế. Tôi đã giảng xong hành môn của Bồ tát Phổ Hiền, nay tiếp theotrí môn của Bồ tát Văn Thù, còn gọi giải môn. Hành cùng giải phải tương ưng mới có thể đem cảnh giới hướng lên cao. Nếu hành giải không tương ưng thì hành chỉ mang lại phước báu, không thể nâng cao cảnh giới, thật đáng tiếc.

Hànhnhất định phải có trí tuệ để y cứ, thì cái hành này mới là Bồ Tát hạnh, mới là chánh hạnh. Nếu trái ngược với trí tuệ, thì Phật pháp gọi là hạnh phàm phu, kinh luận gọi là tà hạnh. Sở dĩ gọi là tà vì lấy chánh hạnh của Phật Bồ Tát làm tiêu chuẩn. Điều đó có nghĩa, không chỉ hạnh của phàm phu sáu cõi không được gọi là chánh hạnh mà theo kinh Lăng Nghiêm, Bồ Tát Quyền Giáo Nhị Thừa còn bị Thế Tôn quở trách. Cho nên quyển kinh này cùng với kinh Hoa Nghiêm đồng một trình độ, đồng một tiêu chuẩn.

“Chư Phật sát trung, giai năng thị hiện”

Nhất định phải có trí tuệ cao độ mới thành tựu thù thắng hành môn. Vừa rồi chúng ta đọc tiêu đề của đoạn thứ nhất “thị tướng vô đắc”. Hiển thị trong tất cả tướng bất khả đắc, đó là trí tuệ chân thật. Câu “Chư Phật sát trung, giai năng thị hiện” mang ý nghĩa của tiêu đề lớn, tương lai kinh Hoa Nghiêm, tôi sẽ tỉ mỉ nói đến. Dù giảng đến hai ba lần, từ bốn đến sáu giờ đồng hồ cũng chỉ nói được đại ýba hạnh”, thế nên chúng ta để lại trong “Hoa Nghiêm” sẽ nói kỹ hơn.

Chư Phật sát trung” ý nói tận hư không khắp pháp giới, bao gồm quá hiện vị lai, gọi là mười phương ba đời, vô lượng vô biên cõi nước. Chi tiết hơn, đó là không gian sinh hoạt của chúng ta. Sự thật thì không gian sinh hoạt của chúng ta rất lớn, không chỉ trên địa cầu này. Phải là người giác ngộ mới hiểu và có thể thọ dụng được, còn người chưa giác ngộ thì rất phiền phức, vì họ chấp trước kiên cố. Ví dụ kinh Phật đưa ra một công án. Thế Tôn năm xưa ở đời, từng ở thành Xá Vệ vườn Cấp Cô Độc một thời gian tương đối dài. Không ít kinh điển quan trọng trong kinh đại thừa đều được giảng tại vườn Cấp Cô Độc. Một lần, vườn Cấp Cô Độc tu sửa phòng ốc, Phật cùng các đệ tử xem thấy một ổ kiến. Đức Phật liền mỉm cười. Các đệ tử mới thắc mắc tại sao Thế tôn nhìn thấy đàn kiến lại mỉm cười? Phật nói: “Đàn kiến này đã trải qua bảy đời chư Phật xuất thế nhưng vẫn không rời khỏi thân kiến. Vậy chúng ta không nói nhiều, mà chỉ nên dùng cách nói thông thường thôi”.

Tu hành thành Phật phải trải qua ba a tăng kỳ kiếp, không thể ít hơn. Theo cách nói bảo thủ nhất, thì bảy vị Phật là hai mươi mốt a tăng kỳ kiếp, vẫn làm thân kiến. Quá khủng khiếp! Không phải kiến có tuổi thọ dài đến vậy, mà sau khi chết đầu thai vẫn làm thân kiến, vẫn trong ổ đó. Thế nên, kinh Đại thừa thường nói “ngu si thật đáng sợ”. Người ngu si chấp trước kiên cố. Đàn kiến chấp trước cái thân hình đó của nó chính là thân nó, chấp trước không gian đời sống của nó chỉ lớn như vậy, cho nên sau khi chết nó vẫn đầu thai làm kiến, vẫn sống trong không gian cũ. Nó không biết không gian đời sống của mỗi người là vô hạn.

Hiện tại người thế gian tương đối thông minh, biết lợi dụng khoa học kỹ thuật tạo thành công cụ phi hành, mở rộng không gian đời sống của chúng ta đến các tinh cầu khác. Mộng tưởng này sớm muộn gì cũng sẽ thực hiện. Nhiều năm nay, báo chí cho biết có người ngoài hành tinh từng đến địa cầu của chúng ta nhiều lần nhưng chúng ta chưa thấy. Tôi đã từng tận mắt nhìn đĩa bay trên không trung, nhưng chưa thấy đĩa bay đáp xuống. Cũng có rất nhiều người cùng thấy với tôi, bởi vì ngày hôm sau, báo chí đăng tin tức này. Có phải người ngoài hành tinh đến địa cầu chúng ta để dò xét hay không? Việc này không thể biết được. Nếu họ có năng lực đến, đương nhiên công cụ phi hành của họ tốt hơn nhiều so với chúng ta. Đĩa bay của họ có thể dừng bất động trong không trung, trong khi hiện tại phi cơ của chúng ta không làm được. Chính mắt tôi nhìn thấy nó bất động khoảng năm phút, sau đó chuyển động với tốc độ rất nhanh, chỉ mấy giây là mất hút. Trình độ khoa học kỹ thuật hiện tại của chúng ta tuyệt đối không thể đạt đến. Tuy nhiên khoa học của chúng ta đang tiến bộ không ngừng. Tôi tin sẽ có ngày chúng ta đạt năng lực này, sử dụng công cụ kỹ thuật cao để qua lại với các tinh cầu khác. Đó là phương pháp mở rộng không gian đời sống tương đối vụng về của chúng ta.

Trong thái không, mắt thịt chúng ta có thể thấy các tinh cầu mà không cần kính viễn vọng. Khi trời quang mây tạnh, vào đêm tối, chúng ta quan sát có thể thấy hơn 6000 tinh cầu. Nếu dùng kính viễn vọng cao tần thì không cách gì tính đếm được vô số tinh cầu thậm chí ở cự ly tương đối xa. Khoa học gia dùng năm ánh sáng để tính. Tốc độ ánh sáng trong một giây đi gần ba mươi vạn cây số. Cự ly này gọi là đơn vị thiên văn, có nghĩa tốc độ ánh sáng đi một năm. Các khoa học gia cho biết, cự ly hành tinh gần chúng ta nhất, nếu dùng tốc độ ánh sáng đại khái phải mất bốn năm rưỡi mới đến được. Giả sử chúng ta tạo công cụ phi hành, nhất định cũng không thể sánh với tốc độ ánh sáng.

Lữ hành đến các tinh cầu rất gian khó và tương đối khổ cực. Dù ở ngoài thái không, ngoài hành tinh đến thế gian này thăm viếng, dù công cụ giao thông của họ phát triển đến trình độ thế nào, thì chúng ta vẫn khẳng định họ thuộc cõi người, không phải cõi trời. Họ vẫn trong sáu cõi. Địa cầu có người, các tinh cầu khác cũng có người. Chỉ cõi người mới dùng phương pháp này, còn cõi trời thì không cần dùng đến. Người cõi trời lữ hành không cần dùng công cụ khoa học. Bản thân họ có ngũ thông bao gồm năng lựcthần túc thông”. Cho nên nghĩ tới nghĩ lui, chúng ta vẫn phải hồi phục lại bản năng của chính mình, đó mới là cao minh. Hồi phục sáu loại thần thông không thể nghĩ bàn vốn sẵn có trong chính chúng ta. Khi đã hồi phục lại, chúng ta du lịch đến thái không sẽ rất thuận tiện, một khảy móng tay hoặc một sát na có thể đến bất cứ nơi nào. Không những du lịch tinh cầu không gặp chướng ngại mà còn đến cõi nước chư Phật xa gấp bao nhiêu lần so với du lịch tinh cầu. Đạo lý này các vị phải biết.

Ngày nay tinh cầuchúng ta xem thấy vẫn chỉ dừng lại ở không gian ba độ, bốn độ, năm độ, thậm chí không gian duy thứ cao hơn mà khoa học chưa đạt đến. Nói cách khác, giới hạn không gian không thể đột phá. Nếu đột phá được giới hạn của thời không thì thế giới này hoàn toàn khác nhau. Bạn có thể thấy được cõi trời, có thể đạt đến trời dục giới, trời sắc giới, trời vô sắc giới, lại có thể siêu việt sáu cõi. Cái đại sáu cõi này chính là đại thiên thế giới. Siêu việt đại thiên thế giới, bạn liền tiếp xúc các cõi nước chư Phật. Nghĩ xem, không gian tương đối phức tạp quyết không đơn thuần. Chân thật không gian lớn vô hạn so với tưởng tượng của chúng ta, kinh Phật nói “không thể nghĩ bàn”. Năng lực của Bồ Tátthế giới Cực Lạc, chúng ta cũng có phần. Chỉ cần vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, không luận phẩm vị cao thấp, cho dù hạ hạ phẩm vãng sanh cõi phàm thánh đồng cư, bạn cũng có năng lực này.

Không gian sinh hoạt của những vị pháp thân Bồ tát này rất rộng lớn. Chư Phật sát là tận hư không khắp pháp giới, không chỉ hiện tạibao gồm quá khứ, hiện tại, vị lai. Chúng ta thường nói mười phương ba đời, vô lượng vô biên cõi nước chư Phật. Họ đều có thể thị hiện trong đó. “Giai năng thị hiện”, cách thị hiện như thế nào? Giống như Bồ tát Quán Thế Âm trong Phổ Môn phẩm, đáng dùng thân Phật để độ thoát, ngài liền hiện thân Phật; đáng dùng thân Bồ tát để độ thoát, ngài liền hiện thân Bồ tát;.v.v… Đáng dùng thân gì, ngài liền hiện thân đó. Ứng là cảm ứng. Bồ tát quyết không có ý niệm hiện thân. Nếu có ý hiện thân thì là phàm phu. Bồ tát hiện thân do ứng cảm của chúng sanh. Chúng sanh có cảm, Phật Bồ tát liền có ứng. Chỗ này cũng giống như trên kinh Lăng Nghiêm: “tùy chúng sanh tâm” mà cảm, “ứng sở tri lượng”. Ứng của Bồ tát phù hợp tương thích với cảm của họ.

Bạn muốn thân Phật đến độ bạn, thì họ liền hiện thân Phật, bạn muốn thân Bồ tát đến độ bạn, thì họ liền hiện thân Bồ tát. “Tất cả pháp từ tâm tưởng sanh”, vậy có gì sai. Chúng ta tưởng Phật thì Phật liền xuất hiện. Trong mười pháp giới, chúng ta biết Phật là thù thắng nhất, Phật viên mãn nhất, thế thì tại sao không ngày ngày tưởng Phật?

Bên dưới lầu bốn chúng ta mở rộng làm niệm Phật đường. Tôi liền nghĩ đến, tượng Phật phải cúng ngay giữa niệm Phật đường, bởi vì theo kinh Hoa Nghiêm, niệm Phật nhất định lấy nhiễu Phật làm chủ đạo. Thiện Tài đồng tử ra ngoài tham học, vị thiện tri thức thứ nhất là Đức Vân tỳ kheo. Đức Vân tỳ kheo tu pháp môn niệm Phật. Ngài chọn phương thức niệm Phật Bát chu tam muội. Bát chu tam muội chính là nhiễu Phật, cũng được gọi là Phật vị tam muội. Trong kinh Phật nói, một kỳ ba tháng, chín mươi ngày nhiễu Phật, ngày đêm không được nằm xuống. Tỳ kheo Đức Vân niệm Phật như vậy. Hiện tại chúng sanh mạt pháp, thể lực không đủ nên không làm được. Nếu nhiễu Phật mệt thì có thể ngồi xuống nghỉ ngơi một lát, uống nước một lát. Nghiêm trọng hơn, hoặc bất đắc dĩ thì có thể nằm giường nghỉ một lát. Khỏe rồi phải vào niệm tiếp.

Chúng ta lấy nhiễu Phật làm chủ đạo, cho nên tượng Phật phải cúng ngay giữa. Tôi vừa nói, thì cư sĩ Lý liền làm. Tốc độ làm của ông khiến tôi kinh ngạc. Chỉ sau ba ngày, ông cho biết đã đặt tượng Phật bằng gỗ tràm ở Trung Quốc. Hơn nữa, ông còn khắc ra bốn tôn tượng A Di Đà Phật đứng bốn mặt trên một tòa sen. Bạn nhiễu Phật đến mặt nào cũng đều thấy A Di Đà Phật. Việc này tôi không nghĩ đến. Tương lai ngay giữa niệm Phật đường, bốn mặt đều có thể lạy Phật, chỉ tịnh, nghỉ ngơi điều thân. Nhưng nhiễu Phật là quan trọng nhất.

Nhiễu Phật nhất định phải mở miệng niệm ra tiếng. Chỉ tịnh thì có thể niệm không ra tiếng hoặc ra tiếng. Lạy Phật cũng không cần niệm ra tiếng vì sẽ bị tổn thân thể. Chúng ta niệm thầm khi lạy Phật, đồng thời quán tưởng. Khi chỉ tịnh, nếu không thể niệm Phật thì có thể lắng nghe tiếng niệm Phật, trong lòng không vọng tưởng, như vậy mới đúng pháp.

Tương lai vào quỹ đạo, niệm Phật đường sẽ phân làm ba khu. Vòng tròn gần Phật tượng là khu vực lạy Phật, vòng ngoài là khu nhiễu Phật, hai bên chỉ tịnh đối diện với tượng Phật. Hiện tại hai bên đều treo hình Phật. Đối diện tượng Phật chúng ta nhiễu Phật, lạy Phật, ngoài ra không xem thấy điều gì, không ai nhiễu loạn bạn. Bạn ở đây niệm Phật, một chút áp lực cũng không có. Bạn có thể thoải mái, ưa thích, và hoan hỷ. Chính mình lạy Phật, bốn mặt đều có thể lạy, lạy nhanh hay chậm tùy thích. Mỗi người cứ lạy theo cách của mình, chỉ cần một câu Phật hiệu tròn đầy, như vậy mới tốt. Còn nếu lạy Phật cũng phải có pháp sư đánh khánh dẫn chúng thì áp lực lại lớn, vì người khỏe cảm thấy quá chậm, người yếu cảm thấy quá nhanh, chịu không nổi, thành ra than khổ. Thân tâm không an ổn làm sao hành đạo.

Chúng ta đi nhiễu Phật mới cần pháp sư đánh khánh hướng dẫn đi, còn chỉ tịnhlạy Phật thì không cần. Khi thấy cơ thể quá mệt có thể nghỉ ngơi một lát. Nghỉ ngơi khỏe rồi lập tức nhập chúng nhiễu Phật, niệm Phật. Như vậy, niệm Phật đường này mới trường cửu, mọi người mới sanh tâm hoan hỷ. Tôi tin tưởng khi niệm khoảng ba tháng, các vị có thể không cần phải ngủ nghỉ. Đó là sự thật. Nhiều nhất là bạn chỉ ngủ hai ba giờ một ngày mà tinh thần vẫn đầy đủ, thể lực tròn đầy, do bạn được oai thần Tam bảo gia trì, có thể thoát khỏi hôn trầm. Ngủ nghỉ là hôn trầm. Bạn bị hôn trầm, trạo cử, hai loại tập khí trong niệm Phật đường, nay đem nó tẩy sạch, hồi phục thân kim cang bất hoại của bạn. Quá nhiều lợi ích không thể nói hết.

Thế Giới Tây Phương Cực Lạc không đi không được, nếu không đi thì chẳng phải là đại ngốc hay sao. Vậy thị hiện là gì? Tuyệt đối không thể nói, tôi muốn thị hiện thân tướng gì thì thị hiện ra thân tướng đó. Bạn có muốn cũng không thể. Vô số thị hiện không phải do chính mình muốn, vì sao? Cảm ứng tương thông với mười phương thế giới tất cả chúng sanhthị hiện. Chúng sanh có cảm, bạn liền có ứng. Không chỉ cảm ứng tương thông với chúng sanh mà cùng với chư Phật Bồ Tát cũng là cảm ứng tương thông. Duyên Phật dạy bảo chúng ta đã chín muồi, đó là cảm của Phật. Chúng ta đến nơi của Phật để bái Phật, thỉnh pháp, cầu giáo. Đó là ứng. Cho nên cảm ứng đạo giao mang nghĩa rộng, không chỉ đối với cùng một giai tầng, hoặc đối với một giai tầng thấp, mà đối với tầng Phật cao nhất cũng như vậy, không hề khác nhau. Phẩm Phổ Môn, Bồ Tát Quan Thế Âm đã nói “đáng dùng thân gì để độ thì liền hiện ra thân đó; đáng dùng thân gì để tu học, thì liền hiện ra thân đó”. Nam nữ già trẻ, các ngành nghề, mỗi đoàn thể giai tầng trong xã hội, không thứ nào không thể thị hiện. Không chỉ thị hiện chúng sanh hữu tình mà còn có thể thị hiện chúng sanh vô tình; thị hiện núi sông đất đai, cây cối hoa cỏ. Cảnh giới của câu kinh văn này sâu rộng vô hạn, đó là nói sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, chúng tanăng lực lớn như vậy.

“Thí thiện huyễn sư, hiện chúng dị tướng”

Huyễn sư” giống như hiện tại chúng ta gọi là thầy ma thuật. Họ có phương tiện khéo léo, mặc dù chúng ta biết họ biến hiện ra đều không phải thật. Thế nhưng bạn quan sát thấy rất giống thật, gần như không chút hư dối. “Chúng” là nhiều người, “dị” là khác nhau. Câu này giải thích cho câu “giai năng thị hiện”, có thể tùy chúng hiện thân. Nếu thực tiễn trong cuộc sống hiện thực, thì Phật Bồ Tát có thể tùy loại hoá thân. Ngày nay chúng ta học tập bằng cách tùy chúng sanh để hiện thân. Mỗi người trong một đời trải qua ngày tháng tùy hoàn cảnh sinh hoạt khác nhau mà biến hóa thân phận. Đó là hiện chúng dị tướng.

Ví dụ ở trong nhà, đối với cha mẹ, bạn hiện thân con cái; đối với con cái, bạn hiện thân cha mẹ,… Bước vào xã hội, bạn hiện thân giám đốc, đổng sự trưởng, nhân viên,.v.v… Thân phận của chúng ta mỗi giờ mỗi phút thị hiện khác nhau, đối với những việc khác nhau, những vật khác nhau, như vậy mỗi giờ mỗi phút đang khởi biến hoá. Đây nói rõ một chân tướng sự thật. Tướng khôngđịnh tướng mà tuỳ theo duyên đang thay đổi. Cho nên “nhập cảnh tùy tục, thung dung tự tại” là trí tuệ, là người sáng suốt.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11402)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11580)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13571)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14134)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10324)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10817)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11346)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11299)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11464)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10188)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9976)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10734)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11336)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42267)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10498)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11885)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10045)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10476)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10648)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45831)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32161)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11359)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10719)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11364)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10655)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13496)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12403)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11053)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10632)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12344)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11191)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11858)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29329)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9234)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10561)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10262)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10614)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10924)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10839)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32191)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27430)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17835)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11890)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12301)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10455)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11716)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10447)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10806)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28120)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10174)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10301)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10677)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10784)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11241)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10417)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10699)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11486)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18289)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10549)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12866)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11764)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29239)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28631)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28332)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13347)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22813)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13467)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11591)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13840)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25764)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26115)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22348)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14501)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12081)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11827)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11704)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11500)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33237)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31884)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12052)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39691)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22545)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11983)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14265)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13364)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14323)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12088)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10423)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11248)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13355)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34581)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12653)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12243)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13549)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12645)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 13002)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16322)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11770)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27426)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28482)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant