Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đóa Hồng Bên Hoa Trắng

28 Tháng Tám 201516:09(Xem: 10614)
Đóa Hồng Bên Hoa Trắng
ĐÓA HỒNG BÊN HOA TRẮNG 

Huyền Lam

Doa Hong ben hoa trang

 
Trong phòng cách ly dành cho người sắp từ giã cõi đời, người phụ nữ tuổi gần 60 nằm bất động.  Điều duy nhất cho biết bà còn sống là màn hình máy y khoa biểu hiện nhịp tim đập rất chậm.  Bà nằm đó, biết đứa con trai duy nhất từ tiểu bang xa đang bay về, bà muốn dồn hết nguồn sinh lực còn lại mỉm cười với nó lần cuối trước khi vĩnh viễn rời xa thế giới này.

***

Ba mươi năm trước,  buổi sáng sớm chị Du trên chiếc thuyền định mệnh đi vào vịnh Thái Lan bị lốc xoáy lật ngang giữa biển.  Cũng may chị biết bơi, trong lúc vẫy vùng dưới nước chị, vơ được chiếc can nhựa lớn dùng để chứa dầu.  Ngụp lặn sặc sụa  giữa từng đợt sóng đánh qua đầu, trong cơn khủng hoảng tột cùng, chị cảm được đôi tay nhỏ ôm cứng cổ mình.  Tấm thân bé bỏng đang nằm trên lưng chị run từng cơn.  Nó cũng giống chị trong giây phút kinh hãi, bấu víu vào mọi vật để sống còn.    Bỗng nhiên đứa bé kêu khóc:

- Mẹ..mẹ!

- Là trai!   Chi Du nhủ thầm.

Sợ bé mỏi tay buông chìm dưới biển, chị vuốt nhẹ cánh tay nó ra chiều vỗ về.  Một tay ôm cứng thùng dầu, một tay chị khó khăn gỡ đứa bé, kéo mạnh nó tuột khỏi cổ, chuyển ra phía trước, để đầu  nằm trên bờ vai mình, ôm quanh ấp ủ.

 - Bé nhỏ quá, chắc chỉ hơn một tuổi!

Gió rít mạnh từng cơn, bắn những hạt mưa vào mặt vào thân, rát cả thịt da.  Sóng đưa lên, nhồi xuống, xô đẩy thùng dầu tứ phía.  Cả hai sinh linh ngộp nước ho sặc sụa, nhắm nghiền mắt, mặc thiên nhiên chơi trò vận mệnh.  Ở nơi đây trí tuệ, địa vị, quyền lực, tiền tài đều không còn giá trịNiềm tin vào đấng thiêng liêng là bảo bối duy nhất còn lại cho chị Du toàn tâm gởi đến, chị niệm thầm:

-     Nam mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát.

Ba mươi  phút sau, cơn giông trôi qua, sóng dịu đi, chị Du phần nào bình tâm trở lại.  Giữa trời nước bao la sóng đã  đẩy xa nhấn chìm tất cả, mất dấu vết con người.   Không biết đã trôi bao lâu, khi ánh nắng xế chiều, chị thấy xa xa dưới đường chân trời dáng con tàu mỗi lúc một lớn lên.   Chẳng mấy chốc con tàu chở hàng khổng lồ sừng sững trước mặt.  Chị muốn đưa tay vẫy gọi cầu cứu, nhưng sợ tuột mất thằng bé giữa sóng nước chập chùng.  Con tàu lững thững lướt qua, chị ngoái nhìn ánh mắt tha thiết van lơn, mong sao có người thấy chị trong lòng đại dương mênh mông.  Bỗng nhiên nó dừng lại ở khoảng cách khá xa, ít phút sau thủy thủ tàu hàng thả chiếc xuồng nhỏ chạy về hướng chị.  
Người thủy thủ mặc áo phao nhảy xuống nước, móc giây an toàn để đem đứa bé lên trước. Nó hoảng hốt nhìn chị khóc gào lên: 

- Mẹ, Mẹ..!

Đến phiên chị được kéo lên, người thủy thủ giao bé trai đang khóc gào cho chị ẩm.  Chị ôm vào lòng.  Nó ôm chặt lấy chị mừng rỡ, ép đầu vào ngực, gọi ngọt ngào: 

- Mẹ!

Chị Du ràn rụa nước mắt giữa ngổn ngang xúc cảm.  Phần mừng được cứu sống, phần rung cảm mối tình thiêng liêng ấm áp chợt đến mà chị đang ôm ấp vào lòng.  Chị biết định mệnh đã gắn mình với đứa bé.

Khi làm thủ tục định cư tại nước ngoài, chị đặt tên Minh lấy họ Nguyễn của chị cho đứa bé.  Chị khai thật hoàn cảnh với cơ quan di trú và các cơ quan tìm kiếm thân nhân, ngoài ra không cho ai biết vì sợ ảnh hưởng đến tâm sinh lý đứa nhỏ. Khi ở trại tạm trú Mã Lai chờ ngày định cư tại Hoa Kỳ, người đồng hương đều nghĩ họ là hai mẹ con ruột vì thấy chị và bé Minh gắn bó hết sức thắm thiết.  Nhận bé Minh làm con, chị Du biết cuộc đời thanh xuân độc thân sẽ khó vẹn toàn.  Tuy nhiên, kể từ giây phút đứa bé ôm cứng chị giữa làn ranh sống chết, chị đã xem nó như phần máu mủ thiêng liêng không thể cắt rời.

Giống như hầu hết người Việt đến Hoa Kỳ vào đầu thập niên 1980, cuộc sống chị Du khá vất vả trong những năm đầu dù Bộ Xã Hội có trợ giúp phần nào cho gia đình mẹ "góa" con côi.   Chị làm đủ việc từ hái dâu, rửa chén nhà hàng nuôi bé Minh lớn theo năm tháng.  Khi bé Minh đến tuổi vào mẫu giáo, ngày đầu dẫn con đi học, bé ôm chị hôn lấy hôn để vào hai gò má, xin được ở nhà cho mẹ khỏi buồn.  Chi Du nghe vừa buồn cười vừa cảm động.  
Năm bé Minh lên 6 tuổi, chị Du cho bé gia nhập Gia Đình Phật Tử tại ngôi chùa vừa được thành lập nơi thành phố chị cư ngụ.  Tại đây vào mỗi chủ nhật, bên cạnh học làm người tốt theo lời dạy của Đức Phật, bé Minh được học tiếng Việt, học văn hóa Việt.  

Bé Minh là niềm hạnh phúc lớn cho chị Du trên đất khách quê người.  Dù không sinh ra bé Minh nhưng tình thương chị dành cho bé không khác tình mẹ dành cho đứa con ruột thịt.  Niềm hy vọng tìm được ba mẹ ruột cho bé Minh cũng chìm theo năm tháng.  Dù đăng ký khắp nơi nhưng không cơ quan nào tìm được tin tức người sống sót trên con thuyền định mệnh.  Minh do quá bé nên không còn ký ức chuyến đi khắc nghiệt.  Nó chỉ biết chi Du là người mẹ cho nó tình thương vô bờ, chăm lo từng bữa ăn, giấc ngủ, thức trắng đêm khi sốt bệnh. 

Năm Minh lên 10 tuổi, sau buổi tiệc sinh nhật chị tổ chức hằng năm cho con được vài hôm, một chiều tối chị kêu con ra ngồi bênh cạnh, ôm con dựa sát vào người như những khi chuyện trò cùng con. Chị Du xoa nhẹ, mân mê bàn tay Minh một lúc lâu, trìu mến tâm sự:

-     Minh ơi! con cũng đủ lớn, vì rất thương con nên mẹ cho biết chuyện này.  Chuyện sẽ làm con sốc, nhưng con phải can đảm, bình tĩnh lắng nghe.  Bây giờ con tập thở nhẹ và sâu như mỗi Chủ nhật ngồi thiền ở chùa. 

Sau vài phút tĩnh lặng, chị Du chậm rãi:

-     Mẹ không phải là người sinh ra con…. Mẹ không biết trước đây con tên gì, sinh ngày nào...Mẹ...

Ngồi nghe chị Du kể, Minh bàng hoàng chấn động, lặng im không lời,  nước mắt ướt đẵm, choàng tay ôm bờ vai gầy,  áp má vào mẹ.  Chị Du cảm được những giọt nước nóng hổi từ gò má thằng bé lăn nhẹ... 

Đêm ấy Minh lăn qua trở lại, trằn trọc không ngủ.  Đã từ lâu Minh biết gia cảnh khác thường vì vắng bóng người cha.   Mỗi lần hỏi, chi Du luôn trả lời Minh có cha nhưng mai mốt lớn sẽ cho biết thêm.  Điều Minh không ngờ chị Du không phải mẹ ruột nhưng sao thương nó quá đỗi.  Gần sáng, Minh chạy qua phòng mẹ, chui vào chăn ôm lưng mẹ như bao lần. 

Minh sụt sùi:   -Tội nghiệp ba mẹ ruột.  Con thương mẹ rất nhiều, con chỉ biết có mẹ. 

-      Chị Du trở mình, cả đêm chị  lo cho thằng bé cũng không ngủ, xoay người lại, mân mê gò má ướt của con:

-  Mẹ cũng chỉ biết có con, nhưng muốn con biết rõ hoàn cảnh, biết gốc gác của mình vì đó là nền tảng chân thật cho đời sống con sau này.  Mẹ không muốn dấu bất cứ điều gì. 

Ngập ngừng một lúc lâu, chị nói tiếp: 

- Trên bàn thờ có hai bát nhang mẹ thường kêu con thắp. Đó là hai bát nhang để con kính lễ ba mẹ ruột.  Mỗi năm mẹ luôn làm giỗ vào ngày mẹ con mình gặp nhau… Bây giờ con biết rồi thì mỗi lần thắp nhangthành kính cầu nguyện ba mẹ đã sinh ra mình, đồng thời cám ơn ba mẹ đã cho mẹ có con trong đời.   Mỗi mùa Vu Lan, con cài thêm hoa trắng nhé.

***

Cộng đồng người Việt thị trấn Roy đều biết đến gia cảnh neo đơn chị Du và rất ngưỡng mộ tình mẫu tử sâu đậm.  Ngoại trừ giờ học giờ làm, họ luôn thấy hai mẹ con như bóng với hình, đi chợ, đi thể thao, xem phim...  Thỉnh thoảng có người hỏi chị về chồng về cha, chị mỉm cười nói khéo: 

- có những chuyện riêng tư chưa tiện chia sẻ được. 

Nhiều người đón mò rằng: Chị bị chồng bỏ hoặc lỡ dại với tên sở khanh nào đó.

Mùa Vu Lan năm ấy tại chùa Hoa Nghiêm, người Việt thị trấn Roy rất ngạc nhiên khi thấy 2 đoá hồng trắng, hồng đỏ trên chiếc áo Lam của Minh khi cậu bé đi theo anh chị trưởng cài hoa hồng cho Phật tử trong khuôn viên chùa.  Đêm trước, chị Du có lên chùa gặp thầy trụ trì, anh chị trưởng để chia sẻ quá khứ với ước mong mọi người đón nhận Minh bình thường, tránh những câu hỏi làm em tủi thân.  Chị muốn công khai từ đây để bé Minh được sống và lớn lên trên nền tảng chân thật vững chắc không một chút hoài nghi.

Cũng như mọi ngôi chùa Việt Nam trong nước hay ngoài nước, ngày Vu Lan bao giờ cũng là ngày hạnh phúc dâng tràn, đầy ấp tình thương yêu.  Thầy trụ trì sau thời kinh có bài thuyết pháp đề cao đạo hiếu, tình mẹ như mọi năm.  Giữa thời pháp, thầy dừng lại kêu Minh đến ngồi bên cạnh mẹ.  Phật tử đang ngồi nghe, lấy làm lạ,  dõi mắt nhìn theo. 

Thầy trụ trì trìu mến nhìn hai mẹ con một lúc lâu, không gian chánh điện lặng im, nhẹ nhàng thầy nói cùng đại chúng:

- Tình mẹ tình cha bao la, cao quý như chúng ta điều biết vì tình ấy là máu mủ huyết thống thiêng liêng.  Thầy có cơ may biết được một chất liệu tình, xin gọi tạm là tình Mẹ Quan Âm, tình này cũng giống như Phật tánh mỗi chúng sanh đều có.  Hơn mười năm nay mẹ con chị Du gắn bó cùng ngôi chùa Hoa Nghiêm này.  Thầy cũng như mọi người đều mến mộ tình cảm mẹ con khắn khít, luôn biểu hiện tình thương sâu đậm cho nhau mà đôi khi cũng hiếm thấy ở đời thường.  Hôm qua, thầy hết sức ngạc nhiênhết sức cảm động khi biết được lòng người mẹ nuôi dành cho đứa con không máu mủ của  mình mà mấy lâu này thầy tưởng rằng ruột thịt….

Minh ngồi nghe thầy nói, dựa vào người ôm mẹ, dụi môi vào gò má mẹ, thì thầm

- con thương yêu mẹ nhất trên trên đời này...

***

Hai mươi năm sau, trong buổi trưa công tác tại tiểu bang xa nhà.  Minh được bệnh viện báo tin mẹ bị tai nạn xe, chấn thương nhiều cơ phận khó qua khỏi đêm nay.  Anh tức tốc bỏ tất cả ra phi trường.  Ngồi trên máy bay, dẫu cố gắng theo dõi hơi thở giữ tâm thanh tịnh, anh cũng không thể kềm được cảm xúc như núi lửa dâng tràn.  Mẹ là suối nguồn yêu thương vô tận, hướng dẫn anh từng bước trong đời.  Mẹ là thế giới, là sự sống của anh, đã cho anh tất cả, hy sinh trọn vẹn tuổi thanh xuân để anh hạnh phúc trong tình mẫu tử thiêng liêng bất diệt.  

Minh bước vào phòng cách ly, thầy và các bác chùa Hoa Nghiêm đang thành tâm niệm Phật A Di Đà.   Bác sĩ trực cho anh biết:   mẹ coi như đã chết, có thể ra đi bất cứ lúc nào.   Biểu đồ trên màn hình theo dõi bệnh nhận, thỉnh thoảng nháy lên yếu ớt.

Minh ngồi xuống bên cạnh bà Du, mọi người đều ra khỏi phòng để anh được tiếp xúc trọn vẹn.  Nhìn thiết tha khuôn mặt mẹ bất động, Hai tay Minh nâng niu, mân miu bàn tay mẹ.  Đưa bàn tay lên môi, anh hôn nhè nhẹ trên những ngón tay nhăn cằn cõi, thì thầm:  

- Mẹ thương yêu ơi! con đã về bên mẹ.

Anh dặn lòng không khóc, mẹ sẽ buồn lắm khi biết anh khóc anh buồn.   Vẫn thiết tha nhìn mẹ, hai bàn tay sưởi ấm bàn tay mẹ, Minh chậm rãi, gởi lòng vào bài hát anh thường hát tại chùa trong mùa Vu Lan báo hiếu:

"Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền.  Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên…Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối…"

Trên khuôn mặt bà Du, đôi mắt bỗng nhấp nháy, mỉm cười an lạc.  Màn hình biểu đồ ngưng hẳn.

Huyền Lam

Thương gởi những người mẹ con nuôi - Mùa Vu Lan 2015
Nguồn:  Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam - số 18 - Thu Đông 2015

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10525)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11224)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12750)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10807)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16656)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10814)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22964)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12021)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11492)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10683)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12336)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11193)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10019)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10327)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11906)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10697)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12373)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9813)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11269)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13841)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9578)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12625)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9698)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10457)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10548)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10320)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9899)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11057)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12016)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10142)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10784)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9543)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9895)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8766)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9495)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14518)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8777)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12553)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10423)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9084)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10557)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9335)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8798)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10513)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9192)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8364)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12028)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9697)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10215)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10228)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19132)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9409)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8985)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9586)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9017)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14753)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10093)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8348)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8949)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8974)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8738)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9369)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14594)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9034)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8771)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9046)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10531)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8640)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 9990)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24280)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10177)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11026)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 8995)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9468)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8002)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9265)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15348)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10338)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9581)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17443)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21394)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12164)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10233)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19240)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26043)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7975)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14787)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10633)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11348)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9532)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18678)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12356)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11886)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10751)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13342)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 9998)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9269)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9379)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15899)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 25632)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant