Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đừng Bảo Xuân Tàn Hoa Rụng Hết

08 Tháng Hai 201605:02(Xem: 22619)
Đừng Bảo Xuân Tàn Hoa Rụng Hết

ĐỪNG BẢO XUÂN TÀN HOA RỤNG HẾT

 

Vĩnh Hảo

 

Đừng Bảo Xuân Tàn Hoa Rụng Hết(Bài này được viết vào khoảng tháng 11 năm 1991, có trong tác phẩmSân Trước Cành Mai,” xuất bản năm 1994. Sau một phần tư thế kỷ, chạnh lòng nhớ thầy, nhớ ba, tác giả ngồi gõ lại ngày cuối năm, gửi tặng mọi người)

 

 

Thuở còn bé, cứ mỗi độ năm hết Tết đến là lòng tôi rộn rã, náo nức; ngồi trong lớp chỉ mơ nghĩ đến hội chợ, quần áo mới, tiền lì xì, chơi bài, đánh bầu cua, v.v… không làm sao mà học cho vô. Nỗi háo hức mong đợi cái Tết đã khởi sự xâm chiếm lòng tôi tự những ngày đầu tháng Chạp cho đến tận giây phút giao thừa. Cứ mỗi tờ lịch rơi xuống, tôi nghe như nỗi háo hức tăng mạnh thêm lên; càng gần ngày ba mươi càng thấp thỏm, bồn chồn, vui không sao tả được.

Nhưng vui nhất là ngày ba mươi Tết. Ngày đó, trong nhà trước ngõ đã được mẹ và các anh chị lớn lau chùi, sửa soạn, trang trí xong xuôi hết rồi. Tôi cũng có góp công trong việc chùi đồ đồng chứ chẳng phải không, vì tôi nghĩ công việc hết thì Tết mới đến nhanh được.

Mẹ tôi sửa soạn cho bàn thờ Phậtbàn thờ ông bà tổ tiên là kỹ lưỡng, chu đáo nhất. Đèn nến, hoa trái, trầm hương, trang nghiêm không kém gì bàn thờ ở chùa cả. Nhất là bộ lư đồng và các cặp chân đèn: sáng trưng, bóng lưỡn, y như vàng ròng vậy. Trên bàn thờ, ngoài hoa quả là những thứ mẹ tôi thường dâng cúng mỗi ngày rằm và mồng một, còn có bánh mứt, hạt dưa và nguyên một quả dưa hấu thật lớn nữa. Mẹ tôi chăm lo mọi thứ, chỉ dành cho ba tôi một công việc mà ông có thể làm được thôi, đó là trên đường từ sở về nhà, ghé mua một nhánh mai lớn từ hôm hai mươi hai Tết, trước ngày đưa ông Táo về trời. Ba tôi đặt chậu mai lớn cạnh bàn thờ, gần phòng khách. Chính chậu mai này làm cho không khí Tết ra vẻ Tết hơn cả.

Đến gần ngày 30 Tết mà thấy mai chưa chịu hé nhụy là ba tôi thúc thuốc cho hoa nở kịp Tết. Không biết ba tôi học cái mẹo đó ở đâu; chỉ thấy, không khi nào ông để cho mẹ tôi thất vọng trong “công tác” duy nhất của dịp Tết mà bà giao ông làm.

Đến ngày giao thừa thì mai nở rộ. Sau tràng pháo đì đùng góp tiếng với hàng triệu phong pháo đang nổ giòn khắp non sông, ba mẹ rồi đến anh chị em tôi, lần lượt thắp nhang lễ Phật, lễ ông bà tổ tiên. Trong nhà, khói hương nghi ngút. Mùi thuốc pháo cũng trộn lẫn trong không khí ấm cúng của đêm giao thừa. Lễ xong thì đến mục mừng tuổi và lì xì. Mục này hình như là mục chính của đêm giao thừa, tôi nghĩ vậy. Ba mẹ tôi ngồi nơi phòng khách. Bầy con 14 đứa (vắng người chị cả đi du học), nhỏ đứng trước, lớn đứng sau, quần áo mới chỉnh tề, sắp thành hai hàng ngang để mừng tuổi ba mẹ. Người chị lớn thứ nhì thay mặt bầy con chúc Tết, cầu ba mẹ mạnh khỏe sống đời. Sau đó, ba tôi đáp lễ đôi dòng vắn tắt nhưng đầy thương yêu, cảm động. Lúc nào cũng vậy, ông đều khuyên chúng tôi ăn hiền ở lành, chăm chỉ học hành để mai này giúp ích cho xã hội, cho giống nòi mà còn làm nở mặt tông tộc nữa. Rồi mẹ tôi lì xì. Lớn trước nhỏ sau. Những bao lì xì đỏ mà thuở ấy, bọn nhỏ như tôi thấy nếu thiếu chúng thì Tết cũng mất hết ý nghĩa.

Hí hửng mở bao lì xì ra xem, sau đó lũ trẻ chúng tôi, nếu từ mười ba tuổi trở xuống thì phải đi ngủ lại cho đến sáu giờ sáng mới được phép trở dậy để đón Tết. Đi ngủ ngay sau giờ giao thừa quả thực là một cực hình cho tôi! Các anh chị từ mười bốn tuổi trở lên không biết thức làm gì! Chắc cũng chỉ ngồi ăn bánh mứt, cắn hạt dưa, uống trà thôi chứ có đại sự gì đâu! Nhưng nằm trăn trở một lúc tôi thấy không khí trong nhà sao im quá. Tôi đoán, vậy là những người lớn đã rời khỏi nhà, đi đâu rồi. Tôi lén trở dậy, vén màn nhìn ra phòng khách: không có ai cả; chỉ có mình ba tôi thôi. Có lẽ mẹ và các chị đi chùa sư nữ ở gần nhà, còn các anh thì đi chơi với bạn bè.

Ba tôi ngồi uống trà, tư lự. Suốt năm, hình như chỉ có lúc này là ông có thể được ngồi một mình. Ba tôi làm ở Tòa Hành Chánh Tỉnh, một mình ông mà nuôi cả nhà mười mấy đứa con ăn học, cho nên không có phút giây nào thực sự rảnh rỗi cho ông ngơi nghỉ. Nhà đông con nên rộng cũng thành hẹp, chẳng còn khoảng trống nào cho ba tôi ngồi thở một mình với thế giới riêng của ông. Bây giờ ông ngồi đó, nét mặt không có vẻ gì là buồn cả. Có lẽ ông đang hồi niệm những chuyện cũ xa xưa thơ mộng nào đó trong cuộc tình của ông với mẹ. Nhưng thấy ông ngồi một mình như vậy, tôi bỗng chạnh lòng, muốn khóc. Tôi bước ra an ủi ông:

“Ba ơi, sao ba không đi chùa với me hả ba? Ba mệt hả?”

“Đâu có. Ba muốn ở nhà một mình, vừa coi nhà, vừa ngắm mai. Bảy giờ ba mới đi chùa. Sao con không ngủ? Nì, ăn miếng mứt gừng cho ấm bụng.”

Tôi nhìn cành mai ba cắm trong cái bình lớn cao gần bằng tôi. Cành mai vươn lên trên, tỏa ra tứ phía, đầy sức sống. Tôi không biết thưởng thức mai; chỉ coi sự hiện diện của nó như là dấu hiệu của xuân, của Tết mà nếu không có nó thì thấy thiếu vắng vô cùng. Nhưng ba tôi thì ngồi uống trà, ngắm mai một cách lặng lẽ với vẻ đam mê thích thú. Tôi nói:

“Mai đẹp quá hả ba!”

“Ừ, đẹp. Thôi, con đi ngủ cho khoẻ mai mới chơi được.”

Tôi rút vào phòng nhưng ba cứ ngồi mãi một mình nơi phòng khách, uống trà, ngắm mai.

Cành mai rực rỡ nhất vào ngày mồng hai, như thể toàn lực của nó được phát tiết vào ngày đó để rồi tàn dần theo những ngày Tết cuối. Khách nào đến cũng trầm trồ khen cành mai đẹp. Ba tôi chỉ cười. Mai còn nở nhưng ngày mồng tám chúng tôi đã phải cắp sách trở lại trường. Tôi không muốn đi học nữa. Mai còn nở là còn Tết, sao lại phải đi học! Đi học đâu có lợi ích gì chứ! Tại sao người ta lại bày ra chuyện học hành chi cho mệt nhỉ! Hậm hực trong lòng vậy thôi chứ cũng phải đi học, không đi thì bị phạt đòn. Ba mẹ tôi không bao giờ đánh con, nhưng chị lớn của tôi sẽ chẳng bao giờ tha bầy em nghịch ngợm hay biếng học cả.

Mỗi chiều đi học về, tôi vẫn thấy cành mai đó. Dư âm ngày Tết còn đọng trong lòng tôi thì cũng còn biểu hiện nơi cành mai. Tôi sợ mất đi cành mai đẹp ấy. Bánh mứt, trái cây trên các bàn thờ đã được hạ xuống từ ba ngày đầu năm. Chỉ còn cành mai là dấu vết cuối cùng của những ngày xuân vui vẻ, hạnh phúcấm cúng trong gia đình. Mất nó đi thì tôi không còn bám víu vào đâu được nữa. Và nếu nó mất đi có nghĩa rằng ngày Tết đã thực sự qua rồi. Tôi sợ điều đó lắm.

Vậy đó mà cành mai còn nở đẹp đến rằm tháng Giêng, khi mẹ tôi lại bày cúng hoa quả bánh trái xôi chè trên các bàn thờ. Hai ngày sau đó, mẹ tôi mới sai anh tôi dẹp chậu mai. Cành mai được đem ra đầu ngõ, đặt bên cạnh thùng rác, dựa vào cây trụ điện trước nhà. Khuya hôm sau, xe rác dọn sạch. Buổi sáng ra nhìn lại, chỉ thấy một khoảng trống ở giữa thùng rác và trụ điện. Tôi buồn muốn khóc.

Có lẽ tôi là đứa trẻ ham thích cái vui trường cửu. Những cái Tết vui tươi của tuổi thơ khi trôi qua chỉ làm đậm thêm nỗi buồn trong tôi mà thôi. Nỗi buồn vì mất đi mùa xuân. Nỗi buồn vì hết Tết. Nỗi buồn vì những trò vui chơi không kéo dài. Nỗi buồn vì cành mai đẹp đã khô héo và bị xe hốt rác dọn đi. Tất cả những thứ ấy dường như đã thúc đẩy tôi, kêu gọi tôi đi tìm một mùa xuân bất diệt. Hai năm sau cái Tết ấy, tôi vào chùa xuất gia.

 

Ở chùa, một nếp sống mới mở ra. Tôi loay hoay sống theo qui củ thiền môn, sớm chiều kinh kệ công phu trên điện Phật; quét sân, nhổ cỏ, tưới cây ngoài vườn chùa; lau bàn, chùi nền trong phòng tăng… thời giờ rảnh thì học kinh, học giáo lý, v.v… đến nỗi không còn hở phút giây nào để bận tâm về xuân, về Tết, về những cuộc vui mà tôi mong là không bao giờ chấm dứt.

Ở chùa cũng có xuân, có Tết, nhưng Tết ở chùa khác lắm. Chùa đón Tết như là một ngày vía Phật Di Lặc, hay là một dịp lễ lớn mà khách thập phương đến đông, cần phải đón tiếp. Ở chùa không có “ăn” Tết. Có gì đâu mà ăn! Quanh năm suốt tháng ăn chay đạm bạc thì Tết vẫn cứ là ba bữa ăn (có khi còn đạm bạc hơn bình thường, vì mấy ngày Tết nhà bếp đâu có nấu nướng chi, chỉ lột bánh chưng bánh tét thay cơm thôi). Chùa cũng không có chuyện đánh bài đánh bạc, chơi cờ hay bầu cua cá cọp… nên cũng chẳng có gì gọi là trò vui. Chỉ có mệt mà thôi. Làm chú tiểu thì phải đứng mãi nơi chánh điện để thỉnh chuông cho khách thập phương thay nhau lễ bái, hoặc thỉnh đại hồng chung suốt ngày. Quý thầy muốn tiếng chuông chùa ngân suốt những ngày Tết, nên các chú tiểu phải thay phiên nhau thỉnh chuông liên tục. Mệt lắm. Thỉnh chuông thì phải mặc áo tràngvì vậy cũng phải giữ trang nghiêm suốt ngày. Đến tối vẫn còn người đến lễ Phật. Gần mười hai giờ khuya mới được nghỉ. Xong ba ngày Tết thì thở phào như trút gánh nặng. Không buồn gì hết. Cảm ơn Tết đã qua mau để được ngơi nghỉ.

Chùa cũng có chưng bình hoa mai lớn, đẹp lắm. Tôi nghe nhiều người khen như vậy. Nhưng tôi không có thời giờ để quan tâm đến nó và khi nó bị dẹp đi, tôi cũng không biết là vào lúc nào. Mùa xuân, theo lối đó, có thể nói là không có; hay cũng có thể nói rằng tôi đã không có mùa xuân để mà mất nữa.

Vài năm sau, trưởng thành hơn một chút, tôi được cho đi học xa, ở một Phật học viện, đến Tết mới được về chùa của thầy tổ. Đêm giao thừa, làm lễ xong, bọn tiểu chúng tôi được cho phép ngồi uống trà ăn mứt với thầy. Thầy cũng lì xì bọn tiểu chúng tôi nhưng chúng tôi không để ý là có bao nhiêu tiền trong bao lì xì cả. Chúng tôi chỉ thích được ngồi bên thầy để có được không khí ấm cúng thương yêu mà thôi. Thầy cũng như cha. Khi chúng tôi bỏ gia đình đi tu, chúng tôi chỉ có mỗi người thân thương yêu, gần gũi chúng tôi nhất là thầy. Vừa uống trà, thầy vừa kể vài câu chuyện đạo cho chúng tôi nghe. Có khi thầy đọc thơ nữa. Những bài thơ Thiền, những bài thơ xuân; trong đó có bài thi kệ nổi tiếng của Thiền sư Mãn Giác thời nhà Lý mà lúc ấy tôi mới được nghe qua lần đầu.

Thầy đọc bài âm hán-việt trước, sau đó mới đọc bài dịch nghĩa cho chúng tôi nghe:

“Xuân đi trăm hoa rụng,

Xuân đến trăm hoa cười

Trước mặt việc đi mãi

Trên đầu già đến rồi

Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một cành mai.” (1)

 

Nghe thầy đọc tôi rung động cả người. Tôi thấy được loáng thoáng những gì tôi đang kiếm tìm. Sau Tết, tôi rời chùa, trở lại Phật học viện để tiếp tục học. Lần này, tôi mang theo tâm tưởng cành mai của thầy tôi.

 

Tàn xuân Ất Mão (1975), khi cây mai cổ thụ tuyệt đẹp của trường tôi vừa rụng hết những cánh hoa cuối mùa, đất nước đổi thay.

Năm năm ở chùa, đến lúc đó tôi chỉ mới mười sáu tuổi và hãy còn là một chú sa-di ngây ngô chẳng hiểu gì về xã hội bên ngoài. Phật học viện giải tán. Các chú tiểu cùng trường lục tục trở về chùa cũ. Tôi ở lại trường cùng với các thầy các chú thường trú ở đây, làm ruộng, làm vườn, quyết tâm tu tập hành trì, bỏ mặc thế sự ngoài tai, đến nỗi không biết rằng chính trong thời gian đó, ba tôi bị bắt đi “học tập cải tạo” (thực ra là đi tù), và gia đình tôi, vì là vợ con của một viên chức chế độ cũ, đã bị chính quyền mới xem như là một gia đình xấu, các anh chị không thể tiếp tục dạy học, thậm chí còn không được gia nhập đội ngũ công nhân bốc vác của các xí nghiệp quốc doanh nữa.

 

***

 

Mùa xuân năm sau, tôi mới về lại chùa xưa thăm thầy và sau đó, về thăm gia đình đúng vào dịp Tết. Tôi không ngờ chưa đầy một năm sau biến cố 1975 mà gia đình tôi đã khánh tận. Nhà tôi không ăn Tết. Không có bánh mứt, hạt dưa. Không có bánh chưng bánh tét. Không có pháo. Không có bài bạc. Và dĩ nhiên là không có cả cành mai đẹp. Ba mẹ tôi cũng không có tiền để đặt vào bao lì xì đỏ cho bầy con, trong đó hãy còn bốn đứa vị thành niên. Các anh chị đã lập gia đình không về vì ở xa. Những anh chị em còn lại thì ngồi ủ rũ trong nhà y như những tội nhân bị giam chờ ngày xét xử. Ai thấy tôi về cũng vui mừng nhưng cười gượng gạo. Hình như họ không muốn một người xuất gia như tôi, dù vẫn cứ là người ruột thịt trong nhà, phải chứng kiến sự suy sụp tàn tệ của gia đình.

Tôi nhìn thảm cảnh gia đìnhsửng sốt, bàng hoàng. Ba tôi lúc đó vì bệnh quá nặng, mới được thả về từ trại tập trung cải tạo; hai chân bị sưng phù lên, chỉ ngồi một chỗ. Tôi lên gác nói chuyện với mẹ. Bà biết tôi chỉ về thăm rồi sẽ trở lại trường nên có bao nhiêu tiền trong bọc bà dúi cho tôi, sợ rằng tôi khó có dịp về lại nữa để bà có cơ hội biểu lộ sự chăm sóc của bà. Tôi nghĩ có lẽ số tiền đó bà mới kiếm được nhờ bán cái bàn hay cái tủ trong nhà để mua gạo cho cả nhà ăn cầm hơi. Nhìn quanh, tôi thấy trống trơn những vật dụng của gia đình. Tôi trả lại mẹ số tiền đó, nghẹn ngào từ giã bà. Bước xuống nhà dưới, tôi kéo hai em nhỏ ra ngoài, móc hết tiền túi (mà tôi được thầy lì xì), đưa cho hai em mang vào cho gia đình có mà ăn Tết. Sau đó, tôi vội vàng trở về chùa. Tôi không chia sẻ được niềm đau và những khó khăn của gia đình. Tôi chỉ muốn bước ra khỏi thực tế đó để khỏi phải bật khóc. Từ đó, tôi ý thức được rằng mùa xuân năm ấy đã bị kết thúc bởi một cơn bão khủng khiếp, quét sạch bao nhiêu niềm vui và lẽ sống của dân tộc, trong đó có cả mái ấm của gia đình tôi.

Tôi về chùa, ngồi một mình nơi cột cờ trước chánh điện, nhìn xuống núi. Đã mấy năm rồi, từ khi vào chùa, mùa xuân đi qua đời tôi lặng lẽ như vậy. Tôi không còn những háo hức hay tiếc nuối về sự còn mất của mùa xuân nữa. Nhưng nghe như trong lòng đau buốt mãi bởi một vết thương nào đó.

 

***

 

Tàn xuân năm 1985, khi chính quyền tổ chức linh đình lễ kỷ niệm mười năm chiến thắng của họ thì tôi đang lẩn trốn vì lệnh truy nã của công an tỉnh Đồng Nai và Sài-gòn. Cũng là lúc tàn xuân. Sự kết thúc của một cái này luôn là để mở màn cho một cái khác. Sự vui mừng của những người nọ có thể là nỗi khốn khổ của những người kia. Chỉ vài ngày sau đó, tôi bị bắt vì tội mà người ta gọi là “phản cách mạng.” Không ai ngờ một chú tiểu chỉ biết quét lá đa trong sân chùa như tôi cuối cùng lại đi vào con đường đó. Nhưng tôi biết rằng tôi đã không “phản” ai. Tôi chỉ muốn đi tìm một mùa xuân vui tươi cho đất nước quê hương tôi mà thôi.

Mùa xuân năm sau là mùa xuân đầu tiên tôi ở trong tù. Ở đây, tù nhân cũng nôn nả đón Tết. Tối ba mươi, phòng giam tổ chức uống trà ăn bánh tập thể và ca hát suốt đêm chờ giao thừa. Có kẻ hát bài “Xuân này con không về,” giọng không hay nhưng nghe truyền cảm lắm. Bài ca đánh trúng tâm trạng nhớ nhà của tù nhân khiến nhiều anh phải rưng rưng nước mắt. Tôi không khóc. Tôi nhìn ra cửa sổ và thấy cây mai tứ quí thấp thoáng trong bóng đêm. Cây mai này chúng tôi nhìn thấy hàng ngày nhưng không để ý lắm. Bây giờ, trong thời gian này, nó mới thật là giá trị. Ngày mai mồng một, mọi người sẽ nhìn thấy nó và sẽ cảm thấy “Tết.”

 

Một tuần sau Tết dương lịch của năm kế tiếp, tôi được trả tự do với một lệnh tạm tha vì bệnh nặng. Nhưng ba tôi đã mất hai ngày trước khi tôi về. Ông không còn đủ sức để chờ đợi thêm một mùa xuân không vui trên đất này nữa. Tết đó là Tết Đinh Mão, 1987, tôi có mặt ở nhà (vì lệnh tạm tha không cho tôi được về chùa, ý người cầm quyền buộc tôi phải hoàn tục). Mẹ tôi mua tặng ba tôi một cành mai nhỏ khiêm tốn, đặt trước bàn thờ. Rồi mẹ tôi rót trà cho ba vào đêm giao thừa. Tôi nhớ hai mươi năm trước, ba tôi ngồi uống trà một mình, ngắm mai. Tôi nhớ ba cho tôi miếng mứt gừng ăn cho ấm bụng, bảo tôi đi ngủ; rồi ba tiếp tục ngồi lặng lẽ uống trà, ngắm mai. Chỉ có Tết ba tôi mới được rảnh để thưởng thức giây phút một mình ấy.

 

Năm nay, 1991, xuân chưa kịp về, tôi đã nhận tin báo của mẹ tôi từ trong nước gửi ra, cho biết thầy tôi vừa mất. Tôi lặng người. Đến chùa làm lễ tưởng niệm thầy, tôi đọc một bài thơ ghi lại nhiều kỷ niệm giữa hai thầy trò. Tuổi trẻ của tôi đặt hết trong chùa nên tình cảm thầy-trò sâu đậm như tình phụ tử. Ba tôi mất, tôi đã đau khổ và khóc nấc lên khi ngồi lặng một mình. Bây giờ thầy tôi mất, tôi không khóc nên tiếng nấc như vậy, nhưng nước mắt cứ chảy mãi, chảy mãi.

Tôi nhớ cứ xuân về là thầy tự tay cắm mai cho chánh điện chùa. Nếu mai không nở kịp Tết thì thầy đem trui gốc để thúc cho mai nở. Hết xuân hết Tết rồi thầy cứ ngâm “Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết / Đêm qua sân trước một cành mai.”

 

Nhiều mùa xuân đi qua rồi mà tôi bây giờ vẫn cứ như thuở nào: vẫn là một đứa bé ham thích cái gì lâu bền, trường cửu. Tôi không mong đợi những mùa xuân tạm bợ, giả tạo. Nhưng mùa xuân cứ đến. Rộ nở để chấm dứt một cái gì và tàn phai cũng để bắt đầu cho một cái gì khác. Tất cả tàn tạ, trôi qua, mất đi. Ba tôi không còn để ngắm mai. Thầy tôi không còn để cắm mai. Và quê hương tôi đã vắng đi những mùa xuân thực sự tươi vui trong nhiều năm qua. Nhưng loáng thoáng đâu đó trong cuộc sống, tôi vẫn như nhìn thấy một nhánh mai rực rỡ, vươn lên, đầy sức sống. Như thể trong cuộc tìm kiếm của tôi, thầy tôi đã trao cho tôi một nhánh mai bất diệt mà chính trong những lúc đau thương cùng cực nhất, tôi nhìn thấy nó: không phải để thưởng thức, để được an ủi, mà là để cảm nhận rằng có một cái gì đó trường cửu, luôn có mặt trong kiếp sống phù du này.

 

California, mùa đông năm 1991.

 

 

__________________

 

(1)   Bản dịch của Ngô Tất Tố.

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18531)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 16062)
Sở dĩ người ta đau khổ chính vì mãi đeo đuổi những thứ sai lầm.
(Xem: 29872)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 25465)
Con đường hướng về sự nhẹ nhàng, chẳng lẽ không là hướng mở đúng đắn giữa một nhịp sống chẳng “nhẹ” chút nào, giữa bao nhiêu lực tấn công từ mọi phía...
(Xem: 21609)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 17812)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận chớ không nhất thiết chỉ có Đạt Ma tông... Lê Sỹ Minh Tùng
(Xem: 20825)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26340)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 33332)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 52156)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 22877)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23412)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 39651)
Tập sách nhỏ này là tài liệu hướng dẫn tu tập minh sát, đối tượng tứ oai nghi của thiền sư Achaan Naeb, được thiền viện Boonkanjanaram biên soạn...
(Xem: 21794)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 22386)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 6839)
Những trang sách “HỘ NIỆM: KHẾ LÝ - KHẾ CƠ” này được chư vị phát tâm ghi chép lại từ những buổi tọa đàm ngắn trong những buổi cộng tu tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà ở vùng Brisbane Úc-Đại-Lợi.
(Xem: 22732)
Thường Tịch Quang Tịnh Độ là cõi ấy chỉ toàn là ánh sáng, dệt nên những tia quang phổ khi chúng sinh được sinh về đây... HT Thích Như Điển
(Xem: 69810)
Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của Bậc Đại Nhân...
(Xem: 44013)
Thiền dạy cho ta KHÔNG BIẾT, để lắng lòng tỉnh thức trước mọi tình huống cám dỗcon người nhận giặc làm con, nhận giả làm chơn, không thể nào vượt thoát sanh tử luân hồi...
(Xem: 23073)
Cổ đức bảo: “Kinh là lời Phật, Thiền là Tâm Phật”. Trên lộ trình Giác ngộ, hành giả cần phải thực hành cả hai mặt: Thấu ngữ và Đạt tâm... Thích Giác Nguyên
(Xem: 35040)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 44098)
Giáo pháp Thiền giống như một cánh cửa sổ. Trước nhất chúng ta mới nhìn vào chỉ thấy bề mặt phản ánh lờ mờ. Nhưng khi chúng ta tu hành thì khả năng nhìn thấy trở nên rõ ràng.
(Xem: 42918)
Khi buông hết tất cả, quý vị có thể tin tưởng vào Tự tánh của mình 100%. Lúc ấy tâm của quý vị trong sáng như hư không, như tấm gương trong suốt...
(Xem: 44424)
Không phải chúng ta hành thiền để được người khác mến phục, kính nể nhưng để đóng góp vào sự bình an của thế giới. Chúng ta làm theo những lời dạy của Ðức Phật...
(Xem: 24917)
"An cư để nuôi lớn tình thương cứu giúp muôn loài, Kiết hạ để nghiêm trì tịnh giới giải thoát tự thân..." HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 24358)
Đây là những bản dịch giới thiệu những tư tưởng quan trọng của những vị sáng Tổ của ba tông phái Tịnh Độ Nhật Bản. - HT Thích Như Điển
(Xem: 39210)
Đức Phật dạy Bốn Thánh Đế này cho chúng ta để đắc chứng Niết-bàn, Thánh Đế Thứ Ba, chấm dứt hoàn toàn tái sanh và do đó cũng chấm dứt luôn Khổ.
(Xem: 39238)
Cõi Cực Lạc hay cõi Tịnh Độ mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn giới thiệu cho chúng sanhthế giới Ta Bà nầy là cõi: Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ... HT Thích Như Điển
(Xem: 17255)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 18043)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19260)
Bài tụng giảng về tất cả các pháp đều phát xuất từ một Nguồn (Source), cũng như cành, lá, hoa, trái của một cây đều từ một gốc mà ra.
(Xem: 35676)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 24219)
Chúng ta ai cũng có tánh Phật nhưng chưa phải Phật quả. Phật tánh không rời mình, nhưng ta còn mê, còn quên nên làm chúng sanh.
(Xem: 19588)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 20405)
Ngộ được các tướng không, tâm tự vô niệm; niệm khởi tức giác, giác biết tức vô. Muốn tu hành pháp môn vi diệu, duy chỉ có con đường này.
(Xem: 18313)
Trong mùa an cư, chẳng những chư Tăng Ni có điều kiện thúc liễm thân tâm, trau dồi giới đức, tăng trưởng Giới Định Tuệ...
(Xem: 19002)
Đạo Phật là đạo giải thoát, giải thoát cái gì? Giải thoát khổ đau, phiền nảo, giải thoát khỏi dòng bộc lưu sanh tử, hay cứu cánhgiải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
(Xem: 18942)
Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp.
(Xem: 17476)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 19322)
“Ta có Chánh Pháp Nhãn TạngNiết Bàn Diệu Tâm, nay trao truyền cho ông Ca Diếp”. Thích Đức Trí
(Xem: 30834)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19193)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 20529)
Kinh A Di Đà thuộc hệ tư tưởng Đại thừa, ra đời trong thời kỳ phát triển Đại thừa Phật giáo... Thích Nguyên Thành
(Xem: 19561)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19768)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 29826)
Rạng ngời một đóa kỳ hoa Vô cùng huyền diệu tinh ba khôn lường Linh Đàm phổ hóa tứ phương
(Xem: 17837)
Khi trí tuệ được thắp sáng, bóng tối vô minh nhiều kiếp liền được xua tan, cuộc đời hết tối tăm, cho người người đều được hưởng trọn niềm vô biên phúc lạc.
(Xem: 19411)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 19881)
Chọn pháp môn Tịnh Độ Tông, niệm Phật cầu vãnh sanh Tịnh Độ... Tâm Tịnh
(Xem: 58771)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 24405)
Nếu chúng ta phát triển một trái tim tốt lành, rồi thì cho dù là trên lãnh vực của khoa học, văn hóa hay chính trị, hãy nhớ là động cơ thì rất rất quan trọng...
(Xem: 23520)
Phật đản sanh nhân thế hân hoan mừng vui vì Phật là chân, là thiện, là an lạc. Phật hiền thiện an lạc nên ai nghĩ tưởng đến Phật tức là an lạc trong lòng.
(Xem: 39765)
Chùa Phật Đà - San Diego, California tổ chức Đại Lễ Phật Đản PL.2556 ngày 5/6/2012
(Xem: 26721)
Thông Điệp Phật Đản Của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon - Văn Công Hưng dịch
(Xem: 40764)
“Đường về Cực Lạc” là con đường pháp dẫn ta và tất cả chúng sanh từ xứ ác trược Ta Bà về đến thế giới thanh tịnh Cực Lạc. Cũng chính là “Pháp môn Tịnh độ”...
(Xem: 22870)
Tuy Ngài đã nhập diệt nhưng chánh pháp vẫn được lưu truyền mãi trong thế gian như là một con đường đưa chúng ta thoát khỏi sự khổ đau để tìm về bờ giải thoát.
(Xem: 22923)
Lịch sử Phật giáo nói rằng: Vừa sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đã đi bảy bước, dưới mỗi bước chân nở một đóa sen nâng gót. Đến bước cuối cùng một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất...
(Xem: 21598)
Nhớ Phật đản là nhắc nhở chúng ta rằng trong cuộc đời ô trược này đã từng hiện sinh một Đức Phật đem tình thươngtrí tuệ soi sáng nhân gian...
(Xem: 18620)
Thế giới Bản nguyệnthế giới vượt thoát mọi ý niệm nhị nguyên, sự hiện hữu của thế giới ấy không phải là sự hiện hữu đối đãi của cái khổ và cái vui.
(Xem: 22595)
Vui thay Đức Phật ra đời chỉ con người mọi việc đều xuất phát từ duyên khởi rồi dẫn tới nhân quả. Một chiếc lá rụng ở đây biết đâu là ngọn gió từ ngoài biển...
(Xem: 21088)
Phật dạy bỏ gánh nặng thì qua được đường hiểm ba cõi, diệt vô minh thì được chân minh, nhổ mũi tên tà, đoạn dứt khát ái...
(Xem: 19217)
Lâm Tỳ Ni ngày Thế Tôn đản sanh thật huy hoàng, tráng lệ. Trên trời, chư thiên trỗi nhạc, tung hoa. Mặt đất rúng động. Chim chóc ca hát. Cây cối nở hoa. Lòng người vô cùng hoan hỷ.
(Xem: 20933)
Trở lại lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Thế Tôn, vị thầy của nhân thiên đã xuất hiện giữa Trung Ấn Độ để sau này trở thành một bậc Vĩ Nhân...
(Xem: 20333)
Chúng tôi được đưa vào một phòng rộng. Những gối ngồi thiền và một giỏ đồ chơi được bày ra, cũng như những cái bàn nhỏ...
(Xem: 30556)
Ngài là một bậc đại giác thị hiện giữa cuộc đời một con người bằng xương bằng thịt cho mắt trần chúng ta thấy được. Ngài đủ ba mươi hai tướng tốt...
(Xem: 20183)
Đức Phật Thích Ca là nhân vật lịch sử, cuộc đời Ngài có vô vàn điều phi thường. Mà vĩ đại nhất là, Ngài đã chứng ngộ giải thoát, và đem pháp ấy truyền dạy cho chúng sanh.
(Xem: 17466)
Bậc đại Thánh ứng hiệnthế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi.
(Xem: 16600)
Lớn lên, mang trong mình trái tim thương yêu đạo pháp thiết tha, tôi luôn ghi đậm hình ảnh mùa Phật Đản Phật lịch 2508-1963 đầy tự hào nhưng cũng nhiều hoài vọng...
(Xem: 16851)
Hằng năm, cứ vào dịp đến những ngày tháng tư âm lịch, lòng tôi lại dâng lên một niềm hân hoan khôn tả; niềm vui ấy chính là khoảnh khắc đón chờ đến ngày Phật đản...
(Xem: 14961)
Thông Bạch Phật Đản Phật Lịch 2556 - 2012 của Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 14838)
Tự do là điều có thể. Chúng ta không phải bị nhốt trong đau khổ. Có con đường để thoát khổ. Và con đường đó không gì khác là thực hành bát chánh đạo.
(Xem: 22868)
Trần gian cung phụng Đản sanh Mỗi Tâm mỗi Bụt viên thành truyện xưa Quản chi tạt gió xan mưa...
(Xem: 16047)
Với tinh thần Bi-Trí-Dũng con người có thể hoàn thiện cuộc sống này và từ từ biến nó thành “niết bàn tại thế” mà không cần phải tìm kiếm Thiên Đường ảo vọng...
(Xem: 16210)
Mùa Phật Đản 1963, có máu, lửa, nước mắt và xương thịt của vô số người con Phật ngã xuống. Nhưng từ trong đó lại bùng lên ngọn lửa Bi Hùng Lực của Bồ Tát Thích Quảng Đức
(Xem: 15258)
Nói chung, sự hiện thân của đức Từ Phụ Thích Ca làm cho thế giới đang rưng rưng lệ bỗng hóa thành nụ cười rạng ngời trên khuôn mặt của vạn hữu.
(Xem: 26110)
Bao la biển rộng sông dài. Tháng Tư ấm đậm tình người Việt Nam Lũy tre hiện mái chùa làng...
(Xem: 17194)
Tướng chữ 卍 vạn là phù hiệu của điềm lành được xưng là "Cát Tường Hải Vân" hoặc là "Cát Tường Hỷ Thí".
(Xem: 15796)
Đại lễ Phật đản 2508-1964 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng và mở ra một trang sử mới trong lịch sử Phật giáo Việt Nam - Nguyên Ly
(Xem: 19771)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 17673)
Hoa sen giải thoát đầu tiên là nhãn thức, giờ đây đã thành tựu rõ rệt, mà một khi một căn thức được giải thoát thì các căn thức còn lại sẽ được giải thoát.
(Xem: 14685)
Vào ngày thứ ba, trong một thông điệp nhân ngày lễ Phật Đản của Phật Giáo (Lễ Vesak), một vị Hồng Y Thiên Chúa Giáo La Mã đã ca ngợi Phật Giáo...
(Xem: 14733)
Hình ảnh Bồ Tát sơ sinh đứng trên quả địa cầu thật có nhiều ý nghĩa: Bồ Tát vào đời với nguyện lực khai sáng cho đời và hoàn thiện Ba La Mật...
(Xem: 19129)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15121)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 33058)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17491)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19129)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 21822)
Lumbini…! Sáng nao bình minh xanh lấp lánh Rừng cây reo, chim muôn cành xào xạc Khấp khởi nắng vàng, rộn rã nghìn hoa
(Xem: 23009)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16624)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16470)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16513)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22994)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
(Xem: 26393)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 12749)
Chìa khóa để khơi dậy sự gia trì là lòng sùng mộ với động lực là sự ăn năn, của những cách thức cũ và từ bỏ luân hồi. Lòng sùng mộ này không chỉ là sự lặp lại đơn thuần...
(Xem: 29515)
Kim Cương thừa có nhiều phương cách thực hành khác nhau, hàng trăm hàng ngàn bản tôn khác nhau để đấu tranh với sự ô nhiễm nhiều vô kể, thông qua thiền định...
(Xem: 27720)
Bài giảng này để giúp chúng ta tin tưởng vào cảm giác của mình và tránh bị lạc lối. Bốn điều nhắc nhở ở đây vừa được áp dụng với Pháp cũng như các khía cạnh của cuộc sống...
(Xem: 25914)
Sự phân tích về cái chết không phải là để trở nên sợ hãi mà là để biết trân quý kiếp sống này, trân quý kiếp người mà qua đó bạn có thể thực hành những pháp tu quan trọng.
(Xem: 18463)
Hiện tại chúng ta niệm Phật là niệm tự tâm. Vì tự nơi mỗi chúng sanh ai cũng có Phật nhân, mà, khi đã có Phật nhân thì liền có Phật quả - là thành Phật...
(Xem: 15578)
Thi ca là sự trở mình của cảm xúc, công án bằng thi ca là sự đánh động, chạm thẳng vào tâm thức, tạo thành một thứ năng lượng cho giác ngộ vụt khởi.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant