Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cư Sĩ Niệm Phật - Động Hay Tịnh?

23 Tháng Tám 202017:00(Xem: 4771)
Cư Sĩ Niệm Phật - Động Hay Tịnh?

CƯ SĨ NIỆM PHẬT- ĐỘNG HAY TỊNH?

(NHẤT TU THỊ, NHỊ TU SƠN!)

 

Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giả sơ phát tâm tu trì pháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng công hành trì pháp môn niệm Phật

Quả thật ở giữa chốn thế gian lao xao này có quá nhiều động loạn. Mở mắt ra là ta gặp ngay “Lục Trần” chào đón: 

* Mắt ta sẽ thấy ngay: nhà cửa, đền đài, dinh thự nguy nga hay những mái nhà xiêu vẹo, những ngôi nhà nhỏ bé đơn xơ, hay những túp lều ọp ẹp không che đủ nắng mưa; xe cộ du lịch đắt tiền sang trọng hay xe tải chở hàng từ loại nho nhỏ cho đến loại to đùng; xe mô-tô oai phong khí phách hay xe gắn máy khiêm tốn giản dị; con người thì cũng đủ hạng từ hèn hạ-nghèo khổ cho đến quí phái-giàu sang-sung sướng; từ sơ sinh-bé bỏng cho đến giả cả tóc bạc-da nhăn-lưng còng, … 

* Tai ta cũng sẽ nghe đủ loại tiếng động, âm thanh: Tiếng nhạc du dương, thánh thoát êm tai làm dịu mát tâm hồn hay là những loại âm thanh quảng cáo đinh tai-nhức óc, những bài nhạc kích động làm bể tim người nghe. Tiếng động thì cũng đủ loại luôn hiện hữu chung quanh ta, vang lên ầm ỉ bên tai chúng ta một cách thoải mái-vô điều kiện! Tai của chúng ta cũng sẽ được nghe lời khen-chê; nịnh hót, hoặc bợ đỡ-dèm xiểm, hại người; hoặc lời khích lệ, an ủi, khuyên lơn, thức tỉnh-khai ngộ; hay lời chê bai, chà đạp, bày chuyện xấu xa gian hiểm hại người.

* Mũi ta cũng sẽ được ngửi mùi một cách bị cưỡng bức, không được chọn lọc những mùi thơm tho-dễ chịu; hay là mùi tanh, hôi, thối-khó chịu. (Ở các nước kém văn minh, môi trường không sạch sẽ)

* Lưỡi ta mỗi ngày cũng sẽ được tiếp xúc những vị chua, cay, mặn, lạt, đắng, chát, ngọt, bùi, … có vị làm ta khoái khẩu muốn ăn, uống thưởng thức hoài không biết chán; cũng có vị khi chạm đến lưỡi làm ta cảm thấy khó chịu ngay lập tức, cảm thấy bực bội, có khi nổi sân lên đùng đùng.

* Thân ta thì sẽ xúc chạm đến những vật mịn màng, trơn láng, êm tay, êm người làm ta khoan khoái, dễ chịu. Rồi ta cũng có thể sẽ gặp những vật thô cứng, xù xì, bén nhọn, gai góc, … làm ta khó chịu, đau đớn, trầy xước, thương tích, …

* Ý của ta cũng sẽ nhảy nhót lăng xăng suốt ngày, suốt đêm (không hề lười mỏi!). Khi thì vui vẻ, hân hoan, phấn khởi, nhiệt tình, chân thật, hòa nhã, … với những suy nghĩ, những công việc, hoặc với những ai đó. Khi thì buồn bực, cau có, thụ động, thiếu nhiệt tình, giả dối, khiếm nhã, … với cả trong suy nghĩ của chính mình, với công việc, hoặc với một số người quanh ta.

Đó là cái “động” chung quanh chúng ta và rất có thể một số người muốn chạy trốn, bỏ các động này để tìm một thế giới êm đềm, tĩnh lặng cho riêng mình chăng? Rất có thể lắm!

 

Nhưng cũng có loại người không thể chịu được sự vắng vẻ, tĩnh lặng, không ồn náo. Họ sẽ cảm thấy buồn chán, thấy như mình bị bỏ rơi, thấy như mình trở nên vô dụng. Cũng có khi sự vắng lặng, êm đềm, tịch mịch gây cho một số người có cảm giác sợ hãi, hoặc rơi vào bệnh trầm cảm.

 

CƯ SĨ PHÙ HỢP VỚI ĐỘNG HAY TỊNH?

 

Rõ ràngthế giới quanh ta luôn luôn động dù ta có muốn hay không! Như thế thì ta có nên vận dụng cách nào để tránh né hoặc làm tiêu đi những động loạn chung quanh ta chăng?

Tôi nhớ trong dân gian có câu: “Nhất tu thị, nhị tu sơn”. Vậy là qua câu nói ngắn gọn này, ông bà ta xưa kia rõ ràng đã trải qua cuộc sống muôn màu muôn vẻ và đúc kết kinh nghiệm quý báu bằng suốt cuộc đời con người, bằng sự nhận thức của biết bao thế hệ để truyền cho hậu thế về bản lĩnh sống và cách áp dụng Phật pháp vào đời sống

 

Thông thường thì chúng ta bắt gặp cách suy nghĩ rất đơn giản, đó là: Ở núi thì vắng vẻ, thanh tịnh, êm đềm, tịch mịch cho nên rất dễ lắng tâm tu học, hành trì Phật pháp. Còn ở chợ thì quanh năm suốt tháng ồn ào, động loạn; tranh danh-đoạt lợi; mê đắm vật chất xa hoa; lăn lộn theo những ham muốn thú vui trần tục; suốt ngày chỉ loay hoay trong vòng thị phi: Khen-Chê; Phải-Quấy; Được-Mất; Hơn-Thua, Thắng-Bại; Trắng-Đen; Vinh-Nhục; Giàu-Nghèo; Sang-Hèn; Già-Trẻ; Khôn-Dại; …Cho nên chúng ta nghĩ ra một phép so sánh trực quan, đó là: TU Ở CHỢ THÌ KHÓ HƠN LÊN NÚI ĐỂ TU!

 

Nếu suy nghĩ như vậy có đúng hay không? Đúng! Nhưng tại sao lại cho rằng đúng? Mà đúng ở mức độ nào? Và cái đúng này có ích gì cho đời tu của chúng ta hay không? Và ông bà ta xưa kia đã dựa vào đâu để khẳng định “Nhất tu thị, nhị tu sơn”. Và câu nói này có ý nghĩa thế nào, áp dụng như thế nào vào sự hành trì Phật pháp trong cuộc sống hằng ngày của người cư sĩ.

Thật ra ông bà ta xưa kia hiểu rất thấu đáo, sâu nhiệm về nghĩa lý ẩn tàng trong Phật pháp, và các vị đã khéo léo chuyển ngữ lại theo cách nhìn trực quan để người đời dễ hiểu hơn và có thể ứng dụng thực hành Phật pháp ngay trong cuộc sống bận rộn này. Vậy là câu nói nào trong Phật pháp là câu nền tảng? Trong “Pháp Bảo Đàn kinh” bài kệ tụng phần sau của phẩm Bát nhã Đức Lục Tổ Huệ Năng dạy rằng: “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác, ly thê mích Bồ Đề, kháp như cầu thố giác”. Nghĩa là: Phật pháp nơi thế gian, Không lìa thế gian (để tìm) giác, Lìa thế tìm Bồ Đề, Giống như tìm sừng thỏ. Tạ ơn chư Phật luôn từ bi gia hộ, thương yêu chúng sanh. Lời dạy dỗ của chư Phật thấm nhuần vào lòng dân tộc Việt Nam chúng con. Ông bà xưa của chúng con đã luôn biết áp dụng, hành trì Phật pháp ngay trong cuộc sống bận rộn hằng ngày. Từ sự giải ngộ sâu sắc, các vị Phật tử ngày xưa đã sống mạnh mẽ, trung kiên ngay trong cuộc đời! Dù gian nguy, bão tố nhưng những người con Phật vẫn thấm nhuần lời dạy của Phật và luôn sách tấn, hỗ trợ nhau đi trọn con đường tự giác - giác tha. Đến đây, có thể có người nói rằng những lời tôi tán thán vể ông bà, tổ tiên người Việt Nam chúng ta giác ngộ giáo lý Phật Đà sâu sắc, thực hành rốt ráo pháp tu Phật dạy; ấy là xuất phát từ sự chủ quan và tưởng tượng lạc quan thần tượng về dân tộc. Nên xin phép cho tôi được trình bày một vài từ tiếng Việt để minh chứng cho sự phong phú, sâu sắc về ý nghĩa Phật học ẩn tàng trong ngôn ngữ Việt Nam.

 

Trước hết tôi xin thuật một câu chuyện mà một người bạn đạo của tôi hay kể: “Phạm Công Thiện có nói rằng tiếng Việt theo ông là rất khó hiểu. Và đến lúc ông nói điều đó, ông vẫn chưa hiểu được. Đó là từ ‘TỰ NHIÊN’”. Thú thật rằng anh bạn tôi nhắc đến chuyện đó nhiều lần, thì tôi chỉ cười lấy lệ chứ thật tình tôi không hiểu điều ông Phạm Công Thiện nói là gi???!!! Rồi đến một ngày (lâu lắm), tôi hốt nhiên bừng tỉnh. À thì ra! Quả đúng “Tự Nhiên” là từ vô cùng khó hiểu trong tiếng Việt. Quý vị, thấy từ này “dễ hiểu” hay “khó hiểu”. theo tôi thì ông Phạm Công Thiện bày tỏ rất đúng, rất chân thật. Bởi vì: …..Làm sao mà một hành giả trên bước đường học Phật, đang lần mò từng bước trên sự hành trì Phật pháp, chưa nhận rõ chân tướng chư pháp đúng-sai, chân-giả, … thì làm sao có thể hiểu được sự “TỰ TẠI - AN NHIÊN”. Đây là một từ ghép vô cùng hay, vô cùng thâm thúy, … và quả thậtvô cùng “KHÓ HIỂU”.

 

Từ thứ hai thì tôi phát hiện trong một giây phút bất chợt trong một ngày nọ. Tôi bỗng dưng nghĩ đến từ “TẾ NHỊ”. (Từ này tiếng Việt diễn tả tính chất của một người lịch sự, khôn khéo, nội tâm thấu đáo-sâu sắc. Quí vị có đồng ý như vậy không?). Ngay giây phút ấy, như một tia chớp lóe lên trong trí tôi và tôi hốt nhiên chợt hiểu ý nghĩa đặc biệt, quan trọng của từ này. Tổ tiên chúng ta quả vô cùng “tế nhị” khi sáng tạo từ này. Tôi xin phép được phân tích: NHỊ có nghĩa là hai; TẾ có nghĩa tinh tế, vi tế. Như vậy, người tế nhị là người thấu được sự vi tế hai đầu đối đãi của chư pháp. Đó là chỗ tôi cảm nghĩ về từ “Tế nhị” ngày xưa; nhưng mới đây tôi được cư sĩ Nguyễn Minh Tiến phân tích chữ “Tế Nhị” theo gốc Hán tự thì nghĩa của nó càng rành mạch, chính xác hơn: 

“Tế nhị (細膩), trong đó chữ tế là nhỏ nhặt, tinh vi đúng rồi, nhưng chữ nhị không phải là hai, mà chữ nhị này nghĩa là trơn láng, trơn nhẵn”. (Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến)

Như vậy là chỗ thấy của tôi trước đây khi nghĩ từ “Tế nhị” là không kẹt hai đầu đối đãi; nhưng thật ra là do tâm tôi bị kẹt ở hai đầu nên đã gán ghép nghĩa cho từ như thế. A Di Đà Phật! Nay nhờ cư sĩ Nguyễn Minh Tiến phân tích chân tướng của từ này, tôi càng yêu quí biết bao sự vun bồi tiếng Việt của tổ tiên. Ông bà ta xưa kia muốn con cháu người Việt sống với tâm hồn thánh khiết, thiện lành trong mọi điều tinh tế, nhỏ nhiệm nhất. Nếu  được  như thế thì thì xã hội, cộng đồng sẽ an lành, hạnh phúc biết bao. Và đó cũng là nhân thù thắng cho những ai thiết tha, thành khẩn tìm cầu, nghiên cứu, và nỗ lực thực hành Phật pháp

Người giữ tâm hồn mình luôn an bình - thanh tịnh (trơn láng, phẳng phiu) dầu việc nhỏ nhiệm, vi tế nhất (vọng tưởng) cũng không để gợn lên tí nào gai góc, xù xì, đó là người “tế nhị”. Ôi, tiếng Việt thật là thâm thúy - diệu kỳ! Thật tổ tiên người Việt chúng ta sâu sắc và chu đáo biết bao!

Như thế, ta có thể vô cùng tự hào về sự thâm trầm-tao nhã nhưng vô cùng phong phú và sâu sắc của tiếng Việt; cũng như không thể nào không tán thán về trình độ am tường Phật pháp của tổ tiên người Việt chúng ta. Các vị đã sáng tạo các từ ngữ để diễn tả sự thâm sâu của giáo pháp Đại thừaTối Thượng Thừa. Điều này minh chứng rằng tổ tiên chúng ta tinh thông Phật pháp và khéo léo ứng dụng, hành trì Phật pháp ngay trong cuộc đời, ngay trong cuộc sống bận rộn này mà tu, mà sống với Tự Tánh Di Đà thanh tịnh, sáng suốt.

 

Tôi nhớ hồi tôi còn nhỏ nghe má tôi sử dụng một từ mà bà hay dùng để “mắng yêu”, nghe rất ngộ nghỉnh. Nhưng sau này lớn lên, nghiên cứu và hiểu Phật pháp phần nào thì tôi rất ngạc nhiên về tính chất sâu sắc, hóm hỉnh của từ này. Đó chính là từ “GIẢ NGỘ”. Vâng chính hồi xưa má tôi hay mắng: Á, cái thằng “giả ngộ” này! Giờ nhớ lại, tôi thấy thật lý thú! Như vậy là hồi xưatình trạng này: “không tu mà nói là tu”; “không ngộ mà nói rằng ngộ”. Từ này được lưu truyền phổ biến trong dân gian. Đây cũng là một điều xác chứng rằng Phật học gắn liền với mạch sống của dân tộc Việt Nam. Phật pháp hầu như gắn liền cùng sinh hoạt của toàn dân. 

 

GIỜ CHÚNG TA CÙNG TRAO ĐỔI, BẮT ĐẦU TỪ VIỆC TU CÙNG SỰ “ĐỘNG” CỦA THẾ GIAN NHÉ?

Đức Lục Tổ Huệ Năng dạy rằng: “Phật pháp tại thế gian, Bất ly thế gian giác, Ly thế mích Bồ Đề, Cáp như tầm thố giác”. Ta vâng lời dạy của Lục Tổ: ta chỉ tìm Phật pháp tại thế gian này, vì lìa thế gian mà tìm Phật pháp chẳng khác nào đi tìm sừng thỏ. Như vậy, kể từ giờ trở đi ta sẽ không sợ sự “động loạn” của thế gian nữa bởi vì ta đang tìm Phật pháp nơi chính sự “động loạn” của thế gian này. Nhưng ta sẽ hành trì như thế nào? Ta sẽ …

Bắt đầu một ngày mới ngay khi vừa mở mắt thức giấc, ta mỉm cười với lòng thành kính tạ ơn thập phương chư Phật, Tổ, chư vị Tông sư, ân sư, … đã ban mọi ân lành cho ta và khởi niệm hồng danh “Lục Tự Di Đà”. Kính chào cha hoặc mẹ ta và niệm hồng danh A Di đà Phật. Chào vợ (hoặc chồng) ta và niệm A Di Đà Phật. Chào các con và niệm A Di Đà Phật. Đi đánh răng, súc miệng luôn niệm hồng danh A Di Đà Phật. Giả sử định lau mặt, nhưng khăn bị rớt; thay vì bực bội, ta hãy mỉm cười, cúi xuống nhặt chiếc khăn mặt lên trong khi niệm A Di Đà Phật. Bước ra nhà trước, ta nghe trước nhà ta có tiếng người gây lộn, cãi nhau ỏm tỏi, họ đang dùng lời lẽ tục tĩu chửi nhau rất ồn ào. Thay vì trước kia ta rất bực tức, mở cửa ra và quát họ đi chỗ khác ngay lập tức. Nhưng bây giờ, biết tu rồi ta làm thinh bỏ qua như không nghe gì; chỉ một lòng niệm Phật và lo việc của ta. Thay đồ xong dẫn xe ra để đi làm mới chợt nhớ ra hôm qua đi làm về tới nhà thì xe vừa hết xăng; nhưng vì trời mưa nên không đi đổ xăng. Giờ nhận ra, thay vì trước kia ta nổi sân lên; nhưng giờ mỉm cười: “Lỗi tại ta!”, miệng niệm Phật và dẫn xe đi đến trạm xăng để đổ xăng cho chiếc xe; lòng cảm thấy an vui vì câu Phật hiệu luôn hiện hữu cùng ta trên đường. Trên đường đi làm, nhiều xe chạy không lịch sự lấn đường, ép ngay bánh trước làm ta suýt bị ngã xe (xe gắn máy mà bị ép bánh trước rất nguy hiểm). Dầu rất bực bội, phiền lòng nhưng ta vẫn cố bỏ qua vì Phật không bao giờ muốn chúng ta nổi sân. Thật là khó làm! Nhưng cố gắng làm thì thần lực của Phật sẽ gia hộ cho chúng ta vượt qua. A! ta làm được rồi! Rồi đến lần thứ hai, lần thứ ba, lần thứ tư, … ta sẽ làm được, ngày càng dễ dàng hơn, vui vẻ hơn vì chư Phật luôn gia hộ cho chúng ta khi làm được việc tốt mỗi ngày. Rồi đến cuối ngày, khi ra về thì trời mưa thật lớn. Chắc chắn rằng mình sẽ ướt loi ngoi mặc dầuáo mưa. Nhưng nếu không đội mưa để về thì nếu mưa ngày càng to và mưa dai nữa thì đường sẽ ngập lụt mất thôi. Chán quá đi mất! Nhưng đó là chuyện ngày xưa, khi gặp hoàn cảnh như vậy thì ta sẽ lo cuống cuồng, nghĩ biết bao nhiêu chuyện. Rồi lòng cảm thấy bất an. Rồi lòng cảm thấy phiền muộn. Thậm chí còn mắng trời, trách đất. Rồi nhùng nhằng không quyết định được là sẽ đi hay ở lại đụt mưa tiếp. Lằm bằm, rồi lằm bằm; than thở rồi thở than; nhăn mày nhăn mặt rồi chắt lưỡi hít hà. Ôi phiền não cứ nối tiếp phiền não! Vọng tưởng cứ như chuỗi xích sắt quay tròn liên tục, liên tục không dừng không nghỉ. Giờ mới thấy được thế nào là chân tướng chúng sanh si mê, vọng tưởng. Ôi những làn sóng vô minh, phiền não nhấn chìm ta xuống bễ thẳm sinh tử, luân hồi

Nhưng giờ ta có lời dạy của Phật, Tổ rồi. Đấy chính là thế gian hư ảo! Ta sẽ tìm Phật pháp ngay tại vọng tưởng điên đảo ấy. Nam Mô A Di Đà Phật! Câu Phật hiệu vang lên như ánh bình minh rực rỡ xua tan bóng đêm tăm tối, hắc ám. Nam Mô A Di Đà Phật! Phật ban cho ta nụ cười, niềm an lạc diệu kỳ hiện hữu cùng với thần lực A Di Đà Phật trong thân ta, trong tâm ta, trong trí ta. Ôi, con vô cùng biết ơn Phật, Tổ luôn từ bi gia hộ cho chúng con có thể nếm được pháp vị ngay tại thế gian này, ngay chính nơi vọng tưởng điên đảo nếu chúng con chỉ một lòng nhớ Phật A Di Đà.

 

GIỜ CHÚNG TA HÃY TRAO ĐỔI VỀ CẢNH “TỊNH” TRONG PHÁP TRÌ DANH NIỆM PHẬT. Có phải trong cảnh giới vắng lặng, thanh tịnh thì hành giả dễ hành trì pháp môn niệm Phật không? Nghe qua thì có vẻ là như vậy. Rõ ràng là khung cảnh vắng lặng, yên tịnh thì ta dễ tập trung tư tưởng vào việc thực hiện một công việc nào đó. Giả dụ như quý vị tập đàn, đánh bóng bàn, lau nhà, lau xe, lau kiếng, làm bài tập toán, làm bài luận văn, làm bếp, giặt đồ, … thì mọi việc thấy tốt phải không? Nhưng ngẫm nghĩ lại thì những công việc đó thật ra là “Tịnh trong Động”. Giờ chúng ta sẽ tìm một việc “TỊNH” hơn hẳn xem sao nhé?

 

Ta thử chọn thời điểm cuối cùng trong ngày, xong hết cả mọi việc cần làm trong ngày rồi. Giờ, ta sẽ dành một khoảng thời gian trong khung cảnh vắng lặng, yên tỉnh để hành trì niệm hồng danh “Lục Tự Di Đà”. Ta tập trung tâm trí hoàn toàn vào câu Phật hiệu. Ôi, thật là tốt đẹp. Sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật” nghe thật ngọt ngào, khoan thai; tuy mềm mại nhưng thật tha thiết, ẩn chứa nỗi lòng thành khẩn, tôn kínhxưng tán hồng danh A Di Đà Phật. Được hai phút, rồi năm phút, rồi mười phút, rồi mười lăm phút, … bỗng dưng đang niệm Phật ta lại sực nhớ là ngày mai có một người bạn từ phương xa hẹn về thăm gia đình ta. Ô là la! Vậy mà suýt nữa là ta quên rồi. Chết chữa! Vậy là mai phải tìm một cớ nào để xin phép nghỉ làm một ngày; vì anh bạn này lâu lắm mới có dịp về thăm ta. Nhưng vợ ta không biết có sắp xếp thời gian rảnh để tiếp vợ của người bạn được không? Vì cô ấy cũng đi làm mà. Tuần này công việc bề bộn quá, nhiều việc lo đến bù đầu bù cổ thôi! May là đến giờ chót này mình lại nhớ được cuộc hẹn. Chứ không thì không biết ra sao nữa! Ôi chà, lát nữa mình sẽ nói cùng bà xã. Chắc lại nghe bã cằn nhằn quá. Thôi kệ, chứ biết làm sao? Rồi sau khi bã đã vui vui thì mình sẽ bàn với bã làm món nào đãi khách nữa chớ. Mình đến nhà người ta tiếp đãi ân cần, giờ mà sơ sót thì kỳ lắm, và có lỗi với họ nữa! Ôi, chết rồi! Nãy giờ chỉ lo chuyện khách ngày mai mà quên bẳng đi việc niệm Phật rồi. Thôi giờ cứ niệm cho xong. Làm nhanh rồi còn bàn công việc với bã nữa. Hôm khác thì chúng ta lại có việc khác. Có khi việc này chưa xong thì việc khác đã xuất hiện trong tâm trí chúng ta rồi. Ta rán bỏ qua việc này thì việc nọ lại đến. Như vậy xét cho cùng thì trong cảnh tịnh, mọi vọng tưởng điên đảo càng làm việc ráo riết hơn cả trong cảnh động nữa. Nếu vậy thì chúng ta có cách nào khắc phục, có cách nào đối trị vọng tưởng không? 

 

Vâng quả là có cách. Rất cám ơn là Ông bà chúng ta xưa kia đã tìm mọi phương tiện để bỗ trợ cho phương cách trì danh niệm Phật. Nếu “TỊNH” làm duyên cho vọng niệm sanh khởi thì ta sẽ biến thế tịch tịnh này thành ra “Động trong Tịnh” hay “Tịnh trong Động” bằng cách rất đơn giản ta là sẽ lần chuỗi trong khi trì danh niệm Phật. Thì trong khi tâm hướng vê Phật, miệng niệm “Lục Tự Di Đà”, tay lần từng hạt chuỗi: vọng tưởng điên đảo nếu móng khởi, ta sẽ niêm chúng dính vào từng hạt chuỗi và như thế chúng sẽ không vùng vẫy mà làm tâm ta loạn động, bất an nữa.

Nhưng nếu giả dụ như dịp nào đó phải đi xa nhà, và khi ấy lại không có chuỗi bên cạnh thì làm thế nào? Nếu quen dùng chuỗi làm neo để cột trói vọng tưởng, mà không có chuỗi thì khó mà an tâm cho được!!! Không sao! Tôi đề nghị quí vị sử dụng ngay chính phương tiện hữu dụng mà chúng ta sẽ không bao giờ quên, không bao giờ thiếu vắng; phương tiện này luôn hiện hữu để giúp đỡ chúng ta. ĐÓ LÀ:

Quí vị sẽ lấy ngón tay Cái của mình tì ngay đầu ngón tay Út và niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, xong quí vị sẽ kéo ngón Cái qua và tì vào đầu ngón Đeo nhẫn và niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, kế tiếp lại kéo ngón Cái qua ngón Giữa và niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, rồi thì kéo tiếp ngón Cái qua đầu ngón Trỏ và niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”. Xong một lượt quí vị có thể trở lại tư thế ban đầu và cứ tiếp tục, tiếp tục, tiếp tục.

Hoặc giả quí vị có thể niệm Phật với bàn tay trái một lần, rồi chuyển qua niệm Phật với bàn tay phải. Và rồi cứ tiếp tục niệm Phật với sự luân phiên trợ giúp của hai bàn tay, thì quí vị vừa có thể cột trói mọi vọng tưởng loạn động mà còn có thể khống chế được con “ma buồn ngủ” nữa đấy!

 

Tạ ơn Phật, Tổ đã bày mọi phương tiện giúp chúng con vượt thoát sông mê, bể khổ. Chúng con biết rằng chỉ khi chúng con lập chí dõng mãnh, tinh tấn hành trì niệm “Lục Tự Di Đà” miên mật, ngày đêm luôn nhớ tưởng Đức Từ Phụ thì dầu “Động” hay “Tịnh” chúng con sẽ luôn an lạc trong hồng danh A Di Đà Phật!

 

 

Nam Mô A Di Đà Phật!

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

 

Kính ghi,

 

Nguyễn Tấn Phát

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11553)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13544)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14125)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10311)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10777)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11330)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11284)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11440)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10178)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9969)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10716)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11321)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42226)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10488)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11865)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10019)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10460)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10636)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45784)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32126)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11327)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10707)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11329)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10636)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13461)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12377)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11031)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10621)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12328)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11173)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11849)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29285)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9219)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10546)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10245)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10596)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10911)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10810)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32153)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27396)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17804)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11879)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12291)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10447)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11700)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10437)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10789)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28085)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10154)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10283)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10658)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10771)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11227)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10403)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10696)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11480)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18265)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10525)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12849)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11755)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29203)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28601)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28306)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13329)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22788)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13443)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11581)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13826)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25732)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26085)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22318)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14490)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12073)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11809)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11691)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11492)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33201)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31851)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12042)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39636)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22499)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11964)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14234)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13350)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14306)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12074)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10411)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11236)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13318)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34535)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12627)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12234)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13534)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12626)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12984)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16308)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11758)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27403)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28440)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 13428)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant