- Chương Một: Vì sao phải quan tâm đến thiền?
- Chương Hai: Những gì không phải là thiền?
- Chương Ba: Thiền là gì?
- Chương Bốn: Thái độ
- Chương Năm: Sự thực tập
- Chương Sáu: Phương cách điều thân
- Chương Bảy: Phương pháp điều tâm
- Chương Tám: Ngồi thiền
- Chương Chín: Chuẩn bị trước khi ngồi thiền
- Chương Mười: Những khó khăn trong lúc ngồi thiền
- Chương Mười Một: Đối trị với sự xao lãng - Phần I
- Chương Mười Hai: Đối trị với sự xao lãng - Phần II
- Chương Mười Ba: Chính niệm (Sati)
- Chương Mười Bốn: Niệm và định
- Chương Mười Lăm: Thiền tập trong đời sống hằng ngày
- Chương Mười Sáu: Được gì cho ta?
- Lời Kết: Năng lực của tâm từ
CHÍNH NIỆM - THỰC
TẬP THIỀN QUÁN
Nguyễn Duy Nhiên dịch,
Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Nhà xuất bản: Thanh Hóa 2009
Chương
Ba
Thiền là gì?
Thiền là một danh từ. Và từ ngữ thì được sử dụng qua nhiều cách khác nhau, bởi
nhiều người khác nhau. Điều này nghe qua có vẻ rất tầm thường, nhưng không phải
vậy. Bao giờ chúng ta cũng cần phải hiểu được chính xác ý nghĩa của những từ
ngữ mà một người nào đó sử dụng. Điều đó rất quan trọng. Có thể là trên toàn
thế giới này, bất cứ một nền văn hóa nào cũng có những phương pháp đào luyện
tâm linh, mà họ gọi là thiền (meditation). Tất cả tùy thuộc vào việc bạn
định
nghĩa thiền như thế nào. Phương pháp thiền thì trên thế giới này có rất nhiều
và khác biệt nhau, nhưng chúng ta sẽ không bàn đến ở đây. Có nhiều sách khác đã
làm việc ấy. Ở đây, chúng ta chỉ giới hạn vào những phương pháp thiền quen
thuộc và phổ thông đối với người phương Tây.
Trong truyền thống Thiên chúa giáo, chúng ta thấy có hai phương pháp chồng lấn
lên nhau, đó là cầu nguyện (prayer) và trầm tư (contemplation). Cầu nguyện là
một hình thức dâng lên hoặc nói chuyện trực tiếp với một đấng linh thiêng nào
đó. Trầm tư là dành một thời gian dài suy tư mặc tưởng về một đề tài nhất định,
thường là những lý tưởng tôn giáo hoặc một đoạn kinh nào đó. Theo quan điểm của
thiền tập thì cả hai phương pháp trên đều là những bài tập thuộc về thiền định.
Những tư tưởng tạp nhạp, ồn ào trong đầu đều bị hạn chế, hành giả đem tâm ý
mình tập trung vào một đề mục duy nhất. Và kết quả cũng giống với những gì ta
tìm thấy trong mọi phương pháp thiền định khác: một sự tĩnh lặng sâu sắc, những
hoạt động tâm sinh lý chậm lại, với một cảm giác rất an vui và khỏe khoắn.
Trong truyền thống Ấn độ giáo (Hindu), ta có pháp môn yoga, và đây cũng là một
pháp môn thuần túy thuộc về thiền định. Phương pháp thực tập căn bản là đem tâm
ý tập trung vào một đối tượng duy nhất - như là một hòn đá, một ngọn nến, một
âm thanh, hay một điều gì đó - và không suy nghĩ lan man. Sau một thời gian
thực hành thuần thục, hành giả sẽ tiếp tục nới rộng sự thực tập của mình
ra
bằng cách chọn những đối tượng khác phức tạp hơn - như là những bài kinh, những
hình ảnh tâm linh màu sắc, những luân xa trong người... Nhưng cho dù đề mục
thiền tập của họ có phức tạp, cầu kỳ đến đâu, phương pháp cũng vẫn là một,
thuần túy đó chỉ là những bài tập về định.
Trong truyền thống của đạo Phật thì thiền định có một giá trị rất cao. Nhưng nó
còn có cộng thêm một yếu tố mới, và được nhấn mạnh hơn, đó là yếu tố tỉnh giác.
Tất cả những phương pháp thiền tập trong đạo Phật đều nhắm đến cùng một mục
tiêu là sự phát triển tuệ giác, và định lực được dùng như là một công cụ
để đi
đến đó. Pháp môn của đạo Phật thì rất mênh mông, và vì vậy mà có nhiều con
đường khác nhau để đi đến mục tiêu ấy.
Trong truyền thống của Zen thì người ta sử dụng hai phương cách. Cách thứ nhất
là trực tiếp đi thẳng vào tâm thức bằng nghị lực và ý chí của chính mình. Ta
chỉ việc ngồi xuống, và cứ ngồi yên đấy, có nghĩa là ta bỏ ra ngoài tất cả
những gì trong đầu, chỉ trừ cái ý thức tỉnh giác về sự ngồi thiền của mình mà
thôi. Nghe thì có vẻ rất là giản dị. Nhưng thật ra là rất khó. Nếu bạn không
tin cứ thử ngồi xuống thực hành trong giây lát đi, bạn sẽ hiểu những gì tôi
nói. Phương cách thứ hai, được dùng trong truyền thống thiền Lâm Tế, là khéo
léo lừa tâm ý của ta ra khỏi những lối suy nghĩ thông thường và đi vào một sự
tỉnh giác đơn thuần. Theo phương cách này người ta sử dụng công án, tức là
những vấn đề không thể giải đáp được, những câu hỏi không có câu trả lời, và
thiền sinh bị bắt buộc phải giải quyết, trong một hoàn cảnh huấn luyện rất gian
nan. Và vì thiền sinh không thể nào trốn chạy đi đâu được, họ bắt buộc phải
nhảy thẳng vào cái kinh nghiệm thật của giây phút hiện tại, chứ đâu còn một nơi
nào khác hơn nữa? Zen là một pháp môn thực tập khá gian nan. Nó có thể mang lại
hiệu quả cho nhiều người, nhưng là một pháp môn rất cam go.
Một pháp môn khác nữa là Phật giáo Mật tông, (Tantric Buddhism) phương pháp này
thì hoàn toàn trái ngược lại. Những tư tưởng bình thường, thường ngày của ta là
những biểu hiện của một tự ngã, một cái “tôi” mà ta nhận đó là mình. Mọi
ý thức
của ta đều có liên hệ đến một ý niệm về cái ngã. Thật ra ý niệm về một cái tôi,
hay cái ngã chỉ là những phản ứng và những hình ảnh đã được đặt lên trên
những
ý thức đơn thuần của mình. Pháp môn tantra này cố gắng đập tan đi những hình
ảnh đó, để giúp ta trở về với ý thức thanh tịnh. Và phương pháp của họ dùng là
quán tưởng. Thiền sinh được trao cho một hình ảnh thiêng liêng nào đó để
quán
tưởng, ví dụ như là một vị thần trong truyền thống của họ. Người thiền sinh sẽ
thực tập cho đến khi nào họ trở thành vị thần linh ấy. Ta bỏ cái ngã của
mình
đi và mang lên một cái ngã khác. Công việc này, như bạn thấy nó đòi hỏi nhiều
thời gian, nhưng rất có hiệu quả. Qua tiến trình ấy, hành giả sẽ hiểu được cách
cấu thành bản ngã và hoạt động của nó. Từ đó, họ có thể nhận diện được tính
chất vô nền tảng của mọi cái ngã, bao gồm cả bản ngã của chính mình, và nhờ đó
mà họ có thể giải thoát khỏi sự trói buộc với bản ngã. Họ cũng nhận thức
rằng,
ta có thể chọn lấy bất cứ một cái ngã nào nếu muốn, và ta cũng có thể không
chọn một cái nào hết, tùy tiện. Và kết quả là một ý thức đơn thuần. Nhưng pháp
môn tantra này cũng không phải dễ.
Thiền quán vipassana là một pháp môn thiền tập xa xưa nhất của đạo Phật.
Phương
pháp này bắt nguồn từ kinh Tứ niệm xứ (Bốn lĩnh vực quán niệm - Satipatthana
Sutta, Trung bộ, 10) do chính đức Phật dạy. Thiền quán vipassana là một phương
pháp trực tiếp và từ tốn, nó nuôi dưỡng và giúp ta phát triển chính niệm
và tuệ
giác. Thiền quán là một phương pháp tiến chậm rãi từng bước, từng bước một, qua
nhiều năm tháng. Hành giả đem sự chú ý của mình chiếu soi thật cặn kẽ vào một
số phương diện nào đó trong đời sống của chính mình. Ta ghi nhận mọi kinh
nghiệm của đời sống. Thiền quán là một pháp môn rất nhẹ nhàng, nhưng nó cũng
rất là tỉ mỉ và hoàn toàn. Nó là một pháp môn cổ truyền và là một truyền
thống
rất nghiêm túc, gồm những bài thực tập giúp ta phát huy chính niệm, và ý
thức
được những kinh nghiệm trong cuộc sống mình rõ ràng hơn. Đó là nhờ ta biết lắng
nghe chăm chú hơn, quán sát tỉnh thức hơn, và thực nghiệm kỹ càng hơn. Chúng ta
thực tập ngửi nếm mùi vị tinh nhuệ hơn, xúc chạm trọn vẹn hơn, và ý thức
được
hết những biến đổi xảy ra trong tất cả những kinh nghiệm ấy. Chúng ta học cách
lắng nghe những tư tưởng của mình mà không bị vướng mắc vào chúng.
Mục đích của thiền quán là để thấy được tự tính của vô thường, vô ngã và
sự bất
toại nguyện có mặt trong tất cả mọi hiện tượng. Chúng ta cứ tưởng rằng mình đã
biết hết chúng rồi, nhưng thật ra đó chỉ là một ảo tưởng mà thôi. Trong cuộc
đời, chúng ta rất ít khi nào chú ý đến những kinh nghiệm sống của mình, nhiều
khi chúng ta hành xử như một người đang mơ ngủ. Chúng ta không có chính niệm đủ
để ý thức được rằng mình không có chính niệm!
Qua sự thực tập chính niệm, dần dần chúng ta sẽ ý thức được mình là ai. Chúng
ta sẽ nhìn xuyên qua được tấm màn của tự ngã. Ta tỉnh dậy và tiếp xúc với sự
sống đang có mặt. Cuộc sống không phải chỉ là những cuộc thăng trầm, hơn
thua,
còn mất. Chúng không thật. Sự sống sâu sắc hơn thế, nếu ta biết nhìn, và
nhìn
bằng một con mắt quán chiếu.
Thiền quán là một phương pháp tôi luyện tâm ý, dạy cho ta biết kinh nghiệm sự
sống này qua một đường lối hoàn toàn mới lạ. Lần đầu tiên, ta sẽ thực sự
trải
nghiệm được những gì đang xảy ra cho ta, chung quanh ta và trong ta. Nó là một
tiến trình tự khám phá, một sự khảo sát mà trong đó ta vừa quán sát những kinh
nghiệm của mình, lại vừa trực tiếp tham gia vào đó. Chúng ta thực tập với một
thái độ: “Không cần biết những gì tôi đã học. Bỏ qua hết một bên những lý
thuyết, ý niệm và thành kiến của mình. Tôi chỉ muốn hiểu được tự tính của sự
sống này. Tôi muốn biết được thế nào là một kinh nghiệm sống thực sự. Tôi muốn
được hiểu thấu và sâu sắc tính chất của cuộc đời này, và tôi không muốn chỉ
nghe lời giải thích của bất cứ một người nào khác. Tôi muốn tự chính mình nhìn
thấy.”
Và nếu bạn theo đuổi con đường thực tập thiền quán với thái độ ấy, tôi tin chắc
bạn sẽ thành công. Bạn sẽ biết cách nhìn sự vật bằng con mắt khách quan,
như
chúng thật sự đang hiện hữu - biến chuyển và thay đổi trong từng mỗi giây phút.
Cuộc sống lúc ấy sẽ tự nhiên trở nên vô cùng phong phú và kỳ diệu. Ngôn ngữ
không thể nào diễn tả được, ta chỉ có thể tự trải nghiệm mà thôi.
Trong tiếng Pali, danh từ chuyên môn của thiền quán là vipassana bhavana.
Bhavana có ngữ căn là bhu, có nghĩa là tăng tiến hay trở thành. Vì vậy, bhavana
có nghĩa là một sự tôi luyện, và luôn luôn nó được dùng có liên quan đến
tâm ý.
Bhavana có nghĩa là sự đào luyện tâm ý. Chữ vipassana được ghép từ hai chữ gốc:
Passana có nghĩa là thấy, hay là nhận biết. Vi là một tiếp đầu ngữ (prefix) bao
gồm nhiều nghĩa mà ta có thể tạm dịch là “bằng một cách đặc biệt”, và cũng có
thể là “đi vào” hay “xuyên qua một cách đặc biệt”. Toàn nghĩa của chữ vipassana
là nhìn thẳng vào một vật, hay một đối tượng nào đó, một cách rõ rệt và chính
xác, thấy rõ được từng yếu tố riêng biệt, và xuyên thấu qua tất cả để nhận diện
được bản chất thực sự của nó. Vipassana còn được dịch là minh sát tuệ. Tiến
trình ấy dẫn ta đến một tuệ giác về tự tính căn bản của đối tượng mà ta đang
quán sát. Ghép hai chữ ấy lại với nhau, vipassana bhavana có nghĩa là sự
đào
luyện tâm ý, giúp ta nhìn sự vật qua một phương cách đặc biệt để mang lại tuệ
giác và một sự hiểu biết trọn vẹn.
Trong thiền quán vipassana, chúng ta thực tập một cách nhìn đặc biệt đối
với sự
sống. Chúng ta tập tiếp xúc với thực tại đúng thật như chúng đang hiện hữu, và
ta gọi cách nhìn này là chính niệm. Chính niệm là một cách nhìn mới mẻ, khác
với cách nhìn thông thường của ta.
Thường ngày, chúng ta có nhìn nhưng không thấy được những gì đang thật sự có
mặt ở ngay trước mắt mình. Chúng ta nhìn cuộc đời qua một lăng kính của tư
tưởng và ý niệm, và rồi ta nhầm lẫn chúng với thực tại. Chúng ta bị chìm
trôi
trong dòng sông ý tưởng bất tận này, trong khi thực tại vẫn đi ngang qua
mà ta
không hề hay biết đến. Ta miệt mài trong những sinh hoạt của đời sống, đeo đuổi
theo những thú vui và sự thoả mãn, trốn tránh những khổ đau và sự thất vọng.
Chúng ta dồn hết năng lực để cố gắng làm sao cho mình được dễ chịu hơn, che
giấu đi những lo lắng và sợ hãi và không ngừng tìm kiếm một sự an ổn. Trong khi
ấy, thực tại vẫn đi ngang qua, mà ta không hề tiếp xúc, không hề hay biết đến.
Trong thiền quán vipassana, chúng ta thực tập buông bỏ hết những thôi thúc mong
muốn được dễ chịu hơn. Thay vào đó, chúng ta tiếp xúc trực tiếp và hòa nhập với
thực tại. Bởi vì điều nghich lý ở đây là, hạnh phúc thật sự chỉ có mặt khi
chúng ta không còn theo đuổi nó. Đây cũng là một tình huống bế tắc cho hầu hết
chúng ta!
Khi ta biết dừng lại, không để cho sự ham muốn những cảm giác dễ chịu thúc đẩy
mình nữa, hạnh phúc thật sự sẽ có mặt. Khi ta thôi không còn theo đuổi ngoại
cảnh, sự sống mầu nhiệm sẽ bắt đầu hiển lộ. Khi ta sẵn sàng muốn biết một thực
tại trọn vẹn, không ảo tưởng, gồm cả những đau đớn và hiểm nguy, khi ấy ta sẽ
có được tự do và an ổn thật sự. Đây không phải là một kiểu giáo thuyết mà tôi
muốn bạn tin theo, nhưng là một sự thật rất hiển nhiên mà bạn có thể và nên tự
mình kiểm chứng.
Đạo Phật đã có từ hơn 2.500 năm, và bất cứ một hệ thống tư tưởng nào được trao
truyền lâu đời như vậy đều có đủ thời gian để tạo dựng nên nhiều tầng lớp giáo
thuyết và nghi thức. Dù vậy, thái độ căn bản của đạo Phật vẫn là sự thực
nghiệm
và không dựa vào thần quyền. Đức Phật Cồ-đàm (Gotama) là một người không
bị
trói buộc vào truyền thống và chống lại chủ nghĩa giáo điều. Ngài không bao giờ
xem những lời dạy của mình như là những tín điều độc đoán, mà chỉ xem đó
như là
những ý tưởng đề xuất mà mỗi người phải tự mình kiểm chứng. Lời mời gọi của đức
Phật lúc nào cũng vẫn là “Hãy đến và thấy.” Ngài dạy rằng: “Đừng bao giờ
đặt
thêm lên đầu mình một cái đầu nào khác nữa.” Có nghĩa là ta đừng bao giờ
chấp
nhận lời giải thích của bất cứ một ai khác. Hãy tự mình thấy.
Và tôi muốn bạn cũng có cùng một thái độ ấy khi đọc quyển sách này. Tôi sẽ
trình bày những điều mà bạn không nên tin và chấp nhận chỉ vì uy tín của
tôi
trong lĩnh vực này. Một niềm tin mù quáng không có ích lợi gì. Tất cả những sự
thật này đều có thể chứng nghiệm được. Bạn hãy học biết thay đổi cách nhìn của
mình theo những chỉ dẫn trong sách này, và rồi bạn sẽ thấy. Khi đó, và chỉ đến
khi đó bạn mới có được nền tảng cho niềm tin của mình. Thiền quán nhất thiết
phải là một sự thực hành quán xét khám phá tự thân.
Và giờ đây tôi xin phép được trình bày sơ lược một số điểm chính trong giáo lý
đạo Phật. Tôi không muốn nói nhiều, vì tôi nghĩ bạn có thể tìm thấy đầy đủ hơn
ở những nơi khác. Nhưng những điều tôi trình bày ở đây có liên hệ trực tiếp và
sẽ giúp ta hiểu rõ thêm về thiền quán.
Theo cách nhìn của đạo Phật thì loài người chúng ta đang sống theo một cung cách
rất kỳ lạ. Chúng ta nhìn thấy những sự vật vô thường, thay đổi chung quanh
mình, nhưng cứ vẫn tin rằng chúng sẽ tồn tại vĩnh cửu. Những thay đổi xảy ra
liên tục và không ngừng nghỉ. Ngay cả trong khi bạn đang đọc những dòng chữ
này, cơ thể của bạn cũng đang già nua đi. Nhưng bạn đâu có chú ý đến việc ấy
đâu! Quyển sách bạn cầm trên tay đang mục nát đi. Những dòng mực đang phai mờ,
và những tờ giấy đang vụn vỡ ra. Những bức tường chung quanh bạn đang đổ
nát
đi. Những phân tử bên trong bức tường ấy đang rung động với một tầng số rất
cao, tất cả đều đang trong tiến trình đảo ngược, tan vỡ và từ từ tiêu hủy. Và
bạn cũng chẳng hề để ý gì đến việc ấy.
Rồi cho đến một ngày, bạn chợt nhìn lại. Da mình sao lại nhăn nheo và những
khớp xương bắt đầu đau nhức. Quyển sách này bây giờ chỉ còn là những tờ giấy ố
vàng, phai mờ, rời rã. Căn nhà, những bức tường là những đống gạch vụn. Bạn
tiếc nuối tuổi trẻ đã mất, khóc thương cho những gì đã là của mình. Nhưng nỗi
đau ấy phát xuất từ đâu? Nó phát xuất từ sự thiếu tỉnh thức của chính mình. Ta
đã không chịu nhìn cho rõ sự sống. Ta đã không nhìn thấy một dòng sông biến đổi
trôi chảy liên tục trong cuộc đời này. Chúng ta xây dựng lên những ý niệm, hình
ảnh về “tôi”, “quyển sách”, “căn nhà”, và rồi ta cứ đinh ninh cho chúng là
thật, là bất biến, không bao giờ thay đổi! Ta nhất định cho rằng chúng sẽ tồn
tại mãi mãi. Điều đó chẳng bao giờ có được! Nhưng bạn có thể thực tập tiếp xúc
với những sự biến đổi liên tục ấy. Bạn có thể học cách nhận thức đời mình như
là một dòng chuyển động không ngừng, như một vũ điệu hay một nhạc khúc rất
tuyệt vời. Bạn có thể học cách tìm được niềm vui trong sự trôi qua liên tục của
tất cả mọi hiện tượng. Bạn có thể học cách sống với dòng chảy của thực tại thay
vì là liên tục chống lại những đổi thay. Bạn có thể làm được tất cả những điều
ấy. Vấn đề chỉ là thời gian và sự thực tập mà thôi.
Thói quen nhận thức của con người chúng ta rất là sai lầm. Chúng ta bỏ ra ngoài
hết 99% những cảm xúc thu nhận qua các giác quan của mình. Và 5% còn lại, ta
đem đông cứng lại thành một nhận thức kiên cố trong tâm. Và rồi ta phản ứng với
nhận thức ấy bằng những tập quán và thói quen của mình.
Ví dụ, bạn đang ngồi một mình yên tĩnh trong một buổi tối thanh vắng. Bỗng từ
xa có tiếng chó sủa. Bản thân sự nhận biết âm thanh ấy thật tuyệt vời đến mức
không thể mô tả được, nếu như bạn chịu để tâm phân tích nó. Trong màn đêm tịch
mịch như mặt biển im lặng bỗng nổi lên những con sóng âm thanh rung động. Tai
bạn tiếp nhận những âm thanh phức tạp đáng yêu đó, biến chúng thành những điện
từ li ti kích thích tế bào thần kinh. Bản thân tiến trình nhận thức đó thật
tuyệt vời và hoàn hảo. Nhưng con người chúng ta thường có khuynh hướng bỏ qua
không nhận biết tất cả những điều đó. Thay vì vậy, chúng ta đông cứng sự
nhận
thức ấy lại thành một đối tượng tâm ý. Ta dán thêm lên đó một hình ảnh, và rồi
tiếp theo là một chuỗi phản ứng tâm lý và vật lý: “Cũng lại con chó đó nữa! Hễ
tới khuya tối là cứ sủa om lên. Không ai chịu được. Đêm nào cũng như đêm
nấy
thì ai đây mà chịu nổi! Phải có ai làm gì đi chứ! Chắc là mình phải gọi cảnh
sát! Không được, gọi chỗ bắt chó mới phải! Thôi, để mình viết một lá thư
thật
nặng rồi gửi thẳng cho người chủ chó. Mà cũng phiền phức quá, thôi mình cứ nhét
bông gòn vào tai cho xong chuyện.” Thật ra, tất cả những cái đó chỉ là những
tập quán và thói quen nhận thức. Chúng ta đã được học cách suy nghĩ và phản ứng
như thế từ lúc còn nhỏ, từ những người sống quanh ta. Lối phản ứng ấy không
phải là một cơ cấu di truyền có sẵn trong hệ thần kinh của ta. Những mạch điện tuy
đã có ở đấy rồi, nhưng đó không phải cách duy nhất ta có thể sử dụng chúng.
Những gì ta đã học được thì cũng có thể bỏ được. Bước đầu tiên là nhận diện rõ
ràng những hành động của mình đang làm, và bước lùi lại, lặng yên quán sát.
Theo quan điểm của đạo Phật thì con người của chúng ta có một cái nhìn khá đảo
ngược về cuộc đời. Chúng ta nhìn những nguyên nhân gây nên khổ đau, và lại thấy
đó là hạnh phúc. Nguyên nhân của khổ đau là cái bệnh ham muốn và ghét bỏ
mà ta
đã nói đến trước đây. Một nhận thức nào đó khởi lên. Có thể là bất cứ một điều
gì, một cô gái dễ thương, một anh chàng đẹp trai, một chiếc xe hơi đời mới, mùi
thơm của một chiếc bánh mới nướng, một chiếc xe tải lao thẳng vào bạn...
bất cứ
một nhận thức nào. Và ngay sau đó sẽ là cái phản ứng thương ghét của mình đối
với nó.
Ví dụ như sự lo lắng chẳng hạn. Chúng ta lo lắng rất nhiều. Lo lắng tự nó chính
là một vấn đề. Sự lo lắng là một tiến trình có thứ lớp. Lo lắng không phải chỉ
là một trạng thái của sự sống, mà nó còn là một tiến trình rất rõ ràng. Chúng
ta chỉ việc nhìn vào giai đoạn đầu của tiến trình ấy, lúc sơ khởi trước khi nó
bắt đầu phát triển lớn mạnh. Móc đầu tiên trong sợi dây xích lo lắng chính là
cái phản ứng thương-ghét của ta. Ngay khi có một hiện tượng nào đó vừa khởi lên
trong tâm thức, lập tức ta phản ứng bằng cách hoặc có ý nắm giữ, hoặc xua đuổi
nó đi. Và từ đó vòng quay lo lắng bắt đầu xoay chuyển. Nhưng may mắn thay,
thiền quán là phương cách có thể giúp chúng ta làm cho chiếc bánh xe ấy dừng
lại.
Thiền quán dạy cho chúng ta cách quán sát tỉ mỉ tiến trình nhận thức của
mình
một cách chính xác. Ta sẽ học theo dõi sự sinh khởi của những tư tưởng và nhận
thức của mình, với một thái độ tĩnh lặng khách quan. Ta sẽ nhìn thấy rõ ràng
những phản ứng của ta khi bị kích động, với một sự an tĩnh. Và từ đó, ta
sẽ
thấy được mình đang phản ứng, nhưng không hề bị dính mắc vào những phản ứng ấy.
Chúng ta vẫn có thể lập gia đình. Chúng ta vẫn có thể tránh sang một bên
mỗi
khi có một chiếc xe tải lao thẳng vào mình. Nhưng ta không cần phải khổ đau vì
chúng.
Khi ta giải thoát ra khỏi được những ràng buộc của tư tưởng, một chân trời mới
sẽ mở rộng ra. Đó là một biến chuyển rất lớn lao, một cách nhận thức mới
hoàn
toàn khác biệt. Nó mang đến cho ta một niềm vui được giải thoát ra khỏi sự
khống chế. Vì những lý do đó mà đạo Phật xem cách nhìn này là một cách nhìn
chân chính về cuộc đời. Trong kinh Phật gọi đó là nhìn sự vật đúng thật như
chúng đang hiện hữu.
Thiền quán là một phương thức thực tập giúp chúng ta dần dần mở ra một cách
nhìn mới về thực tại đúng thật như nó đang hiện hữu. Và cùng với thực tại mới
mẻ ấy là một cách nhìn mới về khía cạnh quan trọng nhất của thực tại, đó
là cái
“tôi”. Thật ra, cách ta xử sự với cái “tôi” này, cũng giống y như cách ta xử sự
đối với những nhận thức khác. Chúng ta đem những biến chuyển không ngừng
của tư
tưởng, cảm thụ, cảm xúc đông cứng lại thành một cấu trúc tâm linh. Rồi chúng ta
dán lên đó một nhãn hiệu là “tôi”. Từ đó, chúng ta hành xử như nó là một
thực
thể có thật, bất biến và vững bền. Ta xem cái “tôi” đó như là một cá thể
riêng
biệt và độc lập với những thứ khác. Chúng ta tự tách rời ra khỏi một sự sống mà
lúc nào cũng đổi thay, và rồi than thở rằng mình cảm thấy quá cô đơn. Chúng ta
quên đi bản chất liên hệ mật thiết giữa ta với mọi sinh thể khác, và cứ nhất
định là “tôi” phải gom góp mọi thứ về thành “của tôi”, rồi trách móc sao
con
người lại quá tham lam và vô tình. Và chu kỳ ấy cứ tiếp tục mãi. Tất cả mọi
hành động ác tâm, những thái độ vô tình của con người đối xử với nhau trên thế
giới này, đều bắt nguồn trực tiếp từ cái nhận thức sai lầm về một cái “tôi”
riêng rẽ này.
Nếu bạn đập vỡ được ý niệm về cái tôi ấy, toàn thể vũ trụ của bạn sẽ thay đổi.
Nhưng bạn cũng đừng kỳ vọng rằng mình có thể thực hiện được việc ấy một cách
quá nhanh chóng. Bạn đã bỏ ra một đời mình để xây dựng nên ý niệm ấy, bảo vệ và
nuôi dưỡng nó với mỗi tư tưởng, trong từng lời nói và hành động, qua biết bao
nhiêu là năm tháng. Nó sẽ không dễ dàng gì mà tan biến ngay. Nhưng nó sẽ
thay
đổi nếu bạn dành đủ thời gian và sự chú ý. Thiền quán là một phương thức
giúp
ta hóa giải được ý niệm sai lệch về cái “tôi”. Từng chút, từng chút một,
bạn sẽ
làm vỡ nó ra, chỉ bằng sự quán chiếu của mình.
Ý niệm về cái “tôi” là một tiến trình. Và chúng ta lúc nào cũng ở trong tiến
trình ấy. Nhờ thiền quán, chúng ta nhận thấy được rõ mình đang làm việc ấy, khi
nào ta làm việc ấy, và ta làm như thế nào. Chừng đó, ý niệm về một tự ngã sẽ
tan rã như sương mù buổi sáng, như mây trôi qua bầu trời tĩnh lặng. Ta ý
thức
rằng mình có tự chủ, ta có thể quyết định làm hay không làm, tùy theo việc có
thích hợp với hoàn cảnh hay không. Sự bắt buộc không còn nữa, ta bây giờ
đã có
một sự chọn lựa.
Đó là những tuệ giác lớn. Mỗi tuệ giác là một sự hiểu biết rất sâu sắc về những
vấn đề căn bản của hiện hữu. Nhưng việc ấy sẽ không xảy ra trong một sớm
một
chiều, và cũng đòi hỏi khá nhiều công phu. Nhưng lợi ích của nó rất là to tát,
sẽ chuyển hóa được đời mình. Mỗi giây phút sống của ta sẽ hoàn toàn thay
đổi.
Hành giả đi đến giai đoạn này sẽ chấm dứt hết mọi khổ đau, có được một hạnh
phúc trọn vẹn, một tình thương chân thật đối với mọi loài. Việc đó dĩ nhiên
không phải là dễ. Nhưng thật ra bạn cũng không cần phải đi đến cuối con đường
mới thấy được kết quả. Những kết quả nho nhỏ sẽ có mặt ngay lập tức, và chúng
sẽ tích tụ thêm theo ngày tháng. Càng ngồi thiền lâu ta lại càng nhìn thấy rõ
được tự tính của mình. Càng bỏ ra nhiều giờ thực tập, ta lại càng có khả
năng
quán sát, trong tĩnh lặng, mỗi tác ý, tư tưởng và cảm thụ khi chúng vừa khởi
lên trong tâm. Sự tiến bộ trên con đường giải thoát được đo lường bằng những
giờ ngồi trên tọa cụ. Và bạn cũng có thể dừng lại bất cứ lúc nào, khi bạn cảm
thấy đã quá đủ. Không có một quy luật tuyệt đối nào bắt bạn phải tuân theo, tất
cả chỉ là vì ta muốn thấy được tự tính của sự sống, muốn làm cho cuộc đời của
mình và người chung quanh được tươi đẹp hơn thêm.
Thiền quán là một pháp môn thực nghiệm chứ không phải là lý thuyết suông. Thực
tập thiền quán sẽ khiến ta trở nên nhạy cảm trước những kinh nghiệm sống, giúp
ta tiếp xúc được với những gì đang thật sự có mặt quanh ta. Ta không ngồi suy
tưởng, mơ mộng về cuộc đời. Ta thực sự sống. Và thiền quán, trên hết tất
cả,
chính là một phương cách sống!