Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 8: Tu Tập Giải Thoát

19 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10420)
Chương 8: Tu Tập Giải Thoát

Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay
BƯỚC SEN
NỮ TU VÀ CƯ SĨ PHẬT GIÁO
CUỘC SỐNG, TÌNH YÊU VÀ THIỀN ĐỊNH
Walking On Lotus Flowers: Buddhist Women Living, Loving and Meditating
Tác Giả: Martine Batchelor - Biên Tập Viên: Gill Farrer-Halls
Việt Dịch: Diệu Ngộ -Mỹ Thanh & Diệu Liên-Lý Thu Linh
Nhà xuất bản Phương Đông 2010

Chương 8: Tu Tập Giải Thoát

Hiuwan Fashih

 

 Pháp Sư Hiuwan, người Hoa thuộc trường phái Thiên Thai, hiện đang sinh sống tại Đài Loan. Sư đã 81 tuổi, là hoạ sĩ, thiền sư, nhà học giả, nhà giáo dục. Vừa qua Sư đã xây dựng được một trường kỹ thuật có thể chứa khoảng 600 sinh viên. Không thể ngờ dù tuổi đã cao, Sư vẫn rất năng động; tuy nghiêm nghị nhưng Sư cũng rất tử tế.

 PHẬT XUỐNG NÚI

Từ lâu, tôi đã thích về giáo dụcPhật giáo. Năm 1942, trong chiến tranh Nhật Bản, tôi đang trú ngụ tại một chùa trên Đỉnh Omei, Trung Quốc. Một buổi sáng, đọc thơ của một vị tăng thời xưa, tôi bắt đầu có ý muốn xuất gia để tránh khỏi những rắc rối của thế gian. Tôi bắt đầu sống trong chùa và dạy học ở một trường dành cho các vị ni. Sau đó tôi viếng thăm Ấn Độ một thời gian. Khi trở về, tôi dựng nên bốn trường học ở Hồng Kông và dạy học cho trẻ tỵ nạn người Hoa.

Tôi được mời vẽ chân dung đức Phật, vì thế tôi đọc rất nhiều sách về nghệ thuật Phật giáo. Tôi đã bỏ ra sáu năm để vẽ 10 bức họa. Cho đến lúc đó tôi rất thích văn hoá và nghệ thuật Trung Hoa, các tác phẩm hay của Khổng Tử, nhưng tâm trí tôi chưa cởi mở. Sau khi hoàn thành 10 bức hoạ, tôi nhận ra rằng cuộc đời cũng giống như tranh. Trước đó tôi chưa bao giờcảm xúc mạnh đối với đức Phật, cũng như tôi chưa bao giờcảm xúc về bất cứ việc gì chung quanh tôi; tôi chỉ thích các tư tưởng. Nhưng khi vẽ xong các tấm hình về đức Phật, trong tôi có một cái gì đó đã được thông suốt.

Một số học sinh tôi dạy rất nghèo nàn, dơ bẩn. Tôi đã hỏi đức Phật: “Tôi đang sống trong cuộc đời nầy, họ cũng thế. Tại sao họ lại quá nghèo?” Đức Phật đây là sự tử tế trong lòng tôi. Tôi nhận ra rằng nghệ sĩ thường có tấm lòng tràn đầy từ bi, vì người ấy nhìn và phải nhận thức được mọi thứ để vẽ. Lòng từ bi và trí tuệ của đức Phật -cả 40 năm sau những chữ nầy vẫn gây xúc động trong tâm tôi. Tôi trở thành một tu sĩ không phải chỉ cho tôi, nhưng vì đức Phật phải xuống núi để giúp những chúng sanh đang đau khổ.

GIÁO DỤC KHÔNG PHẢI CHỈ LÀ HỌC VỊ

Tôi rất lo lắng về sự xuống dốc của các giá trị đạo đức trong thời đại máy móc nầy, và nghĩ rằng các đề tài nhân văn cần phải được dạy trong chương trình khoa học và kỹ thuật. Giáo dục không chỉ là phổ biến kiến thức học vị, nhưng cũng cần phải dạy về các giá trị luân lý. Vì lẽ nầy, tôi bắt tay vào việc xây dựng trường Đại học Kỹ thuật Huafan vào năm 1987.

Đã từ lâu tôi có ý muốn xây dựng một trường học về văn hoá và Phật giáo Trung Hoa ở Đài Loan, nhưng Bộ Giáo Dục không còn cho phép mở trường đại học nhân văn. Họ chỉ muốn mở trường đại học cho sinh viên học những kỹ năng thiết thực, để tìm được việc làm. Tôi nhận thấy rằng kiến trúc cũng là nghệ thuật, vì thế chúng tôi quyết định là trường đại học của chúng tôi sẽ chuyên về ngành kiến trúc và các kỹ thuật liên quan.

Chúng tôi có một câu lạc bộ Phật giáo, nhưng không liên quan gì đến Phật giáo. Tuy nhiên, vì tôi là ni sư và là người sáng lập, điều nầy cũng phần nào ảnh hưởng cách điều hành trường, và các sinh viên mời tôi dạy thiền. Tôi hy vọng rằng họ sẽ phấn khởi với các giá trị Phật giáo và sẽ hâm mộ nghệ thuật.

Nền giáo dục giải thoát làm trong sạch tâm thức. Không phải từ ngôn ngữ hay sách vở - khi bạn nhìn một vật gì và có cảm giác thích thú bên trong, nghĩa là khi ấy bạn đã học được một điều gì đó. Nếu các sinh viên suy nghĩ về cuộc sống nhiều hơn, thì họ sẽ hiểu nó nhiều hơn. Biết áp dụng các giá trị đạo đức, có hiểu biết về trí tuệ siêu việt và có lòng từ bi đối với người khác là những nội quy của trường đại học kỹ thuật nầy.

GIÁO DỤC ĐỂ GIẢI THOÁT

Thầy của tôi là Thượng toạ Tan Hsu, người đã hiến cả cuộc đời để lo cho giáo dục. Khi mất, ông không nhắm mắt cho đến khi tôi lập thệ nguyện ngay lúc ấy, rằng tôi sẽ hiến dâng cuộc đời tôi cho sự nghiệp giáo dục.

Đây không phải là cho tôi, không có gì là cho tôi cả. Điều quan trọng là nơi đây sẽ thành trường đại học, cơ sở nghiên cứu về giáo dục Phật giáo. Kỹ thuật và văn hoá cần phải bổ sung cho nhau, và tôi muốn thực hiện điều nầy cho xã hội. Tôi mong muốn hoà hợp kỹ thuật, văn hoá, cùng với Phật giáo và nghệ thuật.

Khởi đầu giáo dục nhằm dạy cho con người biết “vươn tới điều tốt đẹp nhất”. Ngày nay giáo dục rất phát triển, nhưng dường như không thành công trong việc giúp đỡ con người vươn tới điều tốt đẹp nhất. Một nền giáo dục lý tưởng không phải chỉ trao tay kiến thức, mà còn bao gồm những phương cách thanh lọc tâm, để học giả không bị giao động bởi vật chất thế gian, và để đạt đến trí tuệ siêu việt. Giáo dục để giải thoát có nghĩa là nuôi dưỡng sự tỉnh thứcchuyển hoá ý thức trở thành trí tuệ.

GIÁO DỤC TỰ NHIÊN

Nền giáo dục hữu hiệu nhất là phát triển cá tính và dạy ta làm thế nào để có được sự an vui trong cuộc sống. Kết hợp môi trường thiên nhiên với giáo dục sẽ dễ thành công, và tạo được nhiều cơ hội. Từ lâu Ấn Độ đã nhận thấy sự cần thiết của giáo dục giữa môi trường thiên nhiên, để thực hiện được sự phát triển của thân tâm.

Một rễ cỏ nhỏ, một hạt cát; mỗi thứ là một vũ trụ thu nhỏ, giúp chúng ta nhận thức được mối liên hệ giữa một cá nhânthế giới, cũng như trạng thái vô hạn của trí tưởng tượng. Thiên nhiêncon người tương tác và phụ thuộc lẫn nhau, vì thế nên sống chung hoà hợp với nhau. Như thế, một nền văn hoá không bị giới hạn sẽ tự nhiên xuất hiện.

“Nền giáo dục tự nhiên” của đức Phật là một tiến trình của giải thoát; là bản tánh chân thật của con người để vươn tới giải thoát. “Giáo dục tự nhiên” không chỉ có nghĩa là truyền dạy sự hiểu biết, nuôi dưỡng tình thươnglòng từ bi, mà cũng là sự thực tậpchứng nghiệm thực sự.

Môi trường giáo dục cần phải xa những nơi đô thị bụi bặm, ồn ào, ở giữa rừng cây yên tịnh. Nhà ở cần phải đơn sơ, thoải mái. Môi trường học tập cần được trang trí với các tác phẩm văn chương, nghệ thuật, nên chứa đựng những sản phẩm đưa nguời ta đến với các tư tưởng tôn giáothiền định. Về mặt học vị, sức mạnh của trí tưởng tượng và phẩm chất của lòng từ bi cần được phát huy.

PHƯƠNG THUỐC HỮU HIỆU

Nếu muốn thanh tịnh tâm thức, gạt bỏ những lo âu đời thường và đạt được trí tuệ miên viễn, chúng ta phải giữ nội tâm tỉnh thức, quen dần với sự yên tịnh và trầm lắng. Một tâm thức an lạcthông thái sẽ giúp ta phân biệt được việc tốt xấu.

Nền giáo dục thông thường chỉ phát huy việc chia sẻ và thu thập kiến thức. Giáo dục giải thoát của Phật giáo rèn luyện về cả hai mặt kiến thứcđạo đức, nhằm mục đích trừ diệt si mê để trí tuệ được hiển lộ. Lý tưởng Phật giáo là để đạt mục đích của việc dạy đồng thời cũng là học.

Trong thời đại bùng nổ tri thức, kỹ thuật tân tiến dường như đang phát triển bằng các bước nhảy vọt. Nhưng tri thức nhân loại càng phát triển, thì tâm thức con người càng trở nên cô đơn, tuyệt vọng. Đây là lúc chúng ta cần phải khảo sát kỹ lưỡng, sâu sắc về những nhu cầu đích thực của nhân loại.

Làm thế nào để các bạn trẻ phát triển sự tự tin? Thanh lọc tư tưởng của họ sẽ mang lại lòng từ bi và trí tuệ, rồi họ sẽ nhìn thấy mọi thứ quanh họ đáng quý và họ sẽ thực sự tôn trọng sự tương quan giữa mọi vật. Như vậy, các bạn trẻ có thể cống hiến cho thế giới nầy, phấn đấu, lên kế hoạch cho sự phát triển tốt đẹp hơn của thế giới.

THANH TỊNHLINH HOẠT

Tôi thiền về mọi việc mà tôi làm. Khi còn trẻ tôi nghiền ngẫm về một công án Thiền trong vòng tám năm. Tôi tranh đấu ngày đêm, nhưng luôn có cảm giác còn một cái gì đó mà tôi chưa thấu triệt, các cánh cửa nội tâm của tôi dường như bị khoá chặt.

Sư Tan Hsu dạy Kinh Pháp Hoa (Lotus Flower Sutra) ở Hồng Kông. Sư thuộc trường phái Thiên Thai và đến từ miền đông Trung quốc. Khi tôi được biết về Kinh Pháp Hoa và trường phái Thiên Thai, tôi đã có một cảm nhận rõ rệt. Lần đầu tiên được gặp vị bổn sư, tâm tư và suy tưởng của tôi đã thay đổi. Có rất nhiều nguyên tắc và chân lý đáng được học hỏi từ truyền thống Thiên Thai.

Từ năm 1953 tôi đã thực hành samatha (thiền chỉ để được thanh tịnh) và vipassana (tuệ giác dẫn đến sự linh hoạt). Quan trọng là phải hiểu về trạng thái của “thanh tịnh và linh hoạt”. Nếu không hiểu điều nầy, thì ta không thể hiểu được thiền. Trạng thái thiền định của chúng ta phải trong sánglinh hoạt.

TRƯỜNG PHÁI THIÊN THAI

Các giáo lý căn bản của trường phái Thiên Thai dựa trên Kinh Pháp Hoa (Lotus Sutra). Ba đại ý đã được nhắc đến trong chương hai “Phẩm phương tiện”, về sự bình đẳng, độc lậpdũng cảm đều tương quan lẫn nhau. Đây là những mục đích táo bạo của trường phái Thiên Thai.

Bình đẳng có nghĩa là không có sự phân biệt giữa các đức Phậtchúng sanh; mọi người đều có cùng Phật tánhTình thương yêu và lòng bi mẫn chỉ có thể phát sinh từ tâm bình đẳng. Sự độc lập biểu lộ thể tánh giác ngộ của tất cả chúng sanh, là điều khiến cuộc đời tươi sáng hơn. Sự dũng cảm có nghĩa là một người có tình thươnglòng từ bi cao cả sẽ không dễ bị bất cứ điều gì chi phối. Nếu mọi người có thể phản ứng, hành xử dựa trên ba điểm căn bản nầy, thì thế giới sẽ đầy dẫy những con người có phẩm cách và sáng suốt.

Theo trường phái Thiên Thai, toàn bộ hệ thống tư tưởng Phật giáo được coi là “Kinh điển và thiền định”. Việc nghiên cứu kinh điển đi chung với thiền định, có nghĩa là: sẽ không có mâu thuẫn giữa tri thứctâm linh. Dựa trên các kết quả hổ trợ nhau của việc thực hànhnghiên cứu trí tuệ, đúng theo luật nhân quả, giáo Pháp vi diệu sẽ hiển bày.

Theo trường phái Thiên Thai về samatha/ vipassana, cả hai thiền địnhtrí tuệ đều đầy đủ. Có thể nói rằng: “Samatha bước đầu làm lắng dịu những yếu tố tinh thần đang ràng buộc con người vào đau khổ, vipassanaphương tiện thiết yếu để gạt bỏ hết cấu uế”. 

Phái Thiên Thai phân biệt ba loại thanh tịnh - chỉ - tri kiến - tuệ - đó là làm thanh tịnh tâm trí qua việc chấm dứt phân biệt giữa các đối nghịch, thực tập các phương tiện tinh xảo phù hợp với tình thếchân lý giác ngộ; và ba tri kiến siêu việt về tánh không, trạng thái hiện hữu do duyên hợp và trung đạo. Tất cả được tạo ra để mọi người tuỳ theo khả năng của mình mà ứng dụng các phương pháp.

ĐIỀU KHIỂN TÂM

Khi bạn đã vào trong thiền đường, tại sao bạn vẫn còn hỏi: “Cửa ở đâu?” Bạn có thể đến nơi nầy hoặc nơi kia để tìm kiếm một cái gì đó, nhưng bạn luôn phải quay trở về. Khi bạn đã hiểu về vấn đề sanh tử, bạn sẽ không còn cảm thấy buồn ngủ trong lúc thực tập thiền.

Nữa đêm khi mọi vật đều yên tỉnh, nếu chúng ta quan sát tâm trong cô tịch ta có thể thấy tận nơi sâu thẳm đó có một sự sáng suốt tuyệt diệuChúng ta ý thức trực tiếp mọi thứ với một trạng thái tỉnh thức rõ ràng. Khi đó chúng ta đã đạt đến trạng thái của thiền định [dhyana].

Phương cách để thanh tịnh tâm thức là điều khiển nó. Phật giáo đầy dẫy những cách thức để điều khiển tâm thức, một trong những phương thức ấy là đếm hơi thở. Đây là đếm hơi thở từ một đến mười và ngoài việc đếm số ra, không có một ý nghĩ nào khác có thể lọt vào tâm. Nếu bạn bị chi phối bởi những ý nghĩ khác, thì bạn phải bắt đầu đếm từ một trở lại.

Lúc ban đầu có thể bạn chỉ đếm “một” mỗi lần bạn hít vàothở ra, vì tâm thức bạn còn lăng xăng. Sau đó, khi tâm bạn trở nên lắng đọng hơn, bạn có thể đếm từ một, hai, ba, cho đến mười. Nếu bạn suy nghĩ về việc nào khác, bạn sẽ quên đếm, vì thế bạn luôn phải trở về với đếm số. Nghe giống như là mẫu giáo vậy, nhưng nhờ đó tâm bạn dần dần sẽ trở nên yên tịnh hơn cho đến khi bạn có thể đếm từ một đến mười mà không bị chi phối. Thì đấy là thiền định.

Tiếp theo, bạn có thể niệm hồng danh Phật A Di Đà: “Amitofo, Amitofo” (A Di Đà Phật, A Di Đà Phật). Bắt đầu bạn niệm lớn tiếng, sau đó bạn có thể niệm khẽ trong lòng. Niệm danh hiệu Amitofo có thể làm cho tâm ta rất yên tĩnh. 

Trước hết bạn phải nắm giữ con trâu cho thật chặt, sau đó bạn có thể để trâu tự do, bởi vì nó không còn gây phiền hà cho bạn nữa.

AN TRÚ TRONG THANH TỊNH

Phần đông chúng ta không biết “thanh tịnh” là gì, kể cả khi ta ngồi bất động. Chúng ta thấy khó mà an trú trong thanh tịnh vì thân và tâm hoạt động không phù hợp nhau; vì thế dù thân bất động, tâm vẫn chạy nhảy lung tung với đủ loại vọng tưởng. Trong lúc đếm hơi thở, thiền giả không thật sự ở trong trạng thái tỉnh lặng vì tâm vẫn còn đếm số. Tuy nhiên, bài tập có chủ định nầy giúp cho tâm lăng xăng được thuần hoá.

Tiến trình của sự thực tập là trước hết đếm hơi thở, thứ hai là theo dõi hơi thở, thứ ba lắng đọng, thứ tư quán, thứ năm quay trở vào, thứ sáu là thanh tịnh hoá. Đây là một quá trình thực tập từng bước từng bước đòi hỏi lòng kiên nhẫn.

Có ba giai đoạn thực tập thiền định đưa đến trí tuệ siêu việt. Giai đoạn đầu bao gồm việc làm lắng dịu tâm. Suốt ngày ta bị bao ý tưởng xuất hiện quấy rối, không có thời gian để suy gẫm sâu sắc hơn bao vấn đế, nhưng dẫu bận rộn bao nhiêu, ta cũng nên dành thời gian để quán sát về ý nghĩa sâu sắc của cuộc đời.

Giai đoạn thứ hai bao gồm sự thanh tịnh hoá tâm thức. Nếu tâm thanh tịnh, ta có thể quán sát xem cuộc sống thực sự có ý nghĩa gì, ta sẽ thấy thế giới nầy là vô thường. Nếu hiểu được tính chất tạm bợ của cuộc sống, ta sẽ hiểu chúng không thực sự hiện hữu. Và nếu hiểu được như thế, ta sẽ hiểu được sự không hiện hữu của cái ta. Như thế ta không phải lo lắng quá nhiều về việc ta thành công hay thất bại, được hay mất, sở hữu cái gì đó hay không. Tâm bình lặng nầy giúp ta thoát khỏi bao phiền não, ta không còn đau khổ vì thất bại hay phấn khích bởi thành công. Thay vào đó, tâm được thanh tịnh hoá và ta được an lạc.

 Giai đoạn ba bao gồm việc chuyển tâm ta thành tâm Phật. Thanh tịnh hoá tâm chỉ vì lợi ích cho bản thân, chưa phải đúng là mục đích của người Phật tử. Một Phật tử chân chánh không thể chỉ ngồi thiền trong rừng. Tuy nhiên, hành giả vẫn có thể sống trong rừng ngắn hạn để tìm phương cách giúp mọi người đạt giác ngộ. Chúng ta phải chia sẻ nỗi đau khổ mà tất cả chúng sanh đều phải hứng chịu và cố gắng giúp họ bớt khổ đau. Vì hiểu được tánh không, nên chúng ta có thể dang trãi lòng từ bi vô hạn đến tất cả muôn loài không phân biệt, như cha mẹ đối với con cái vậy.

TRÍ TUỆ VÀ SỰ TỰ BIẾT MÌNH

Căn bản quan trọng cho sự phát triển của một nền văn hoá Phật giáo hiện đại gồm có sự phát triển trí tuệ. Trí tuệ giống như nước, vì nó có thể làm sạch tâm, và giống như tấm gương nơi phản chiếu tâm ta thật rõ ràng. Trí tuệ có thể thanh tịnh hoá ta, cho ta ánh sáng và sức mạnh. Nhờ có trí tuệ, ta có thể tự hoàn thiện mình cũng như chia sẻ những hiểu biết của ta với người. Đó là tinh thần của lòng thương yêulòng bi mẫn, cũng là ý nghĩa căn bản về những lời dạy của Đức Phật.

Chúng ta phải hiểu rõ những vấn đề của mình và giải quyết chúng để có thể phát triển trí tuệ. Khi hiểu được như thế rồi, ta bắt tay hành động. Nếu không, đó không phải là trí tuệ thực sự. Chúng ta cần phải luôn kiểm soát tâm thức của mình, xem chừng, thí dụ, ta đang nói dối hay chân thật. Thường thì ta đã trở thành bạn với sự lừa dối mà không hay biết. Ta nghiền ngẫm về những việc không quan trọng, và có ý nghĩ tiêu cực về những người không đồng ý kiến với ta. Khi ta đau khổ, tức là đang có một cuộc chiến tranh tinh thần bên trong ta.

Làm sao chúng ta biết được những ý nghĩ nào là có hại cho tinh thần của ta? Điều nầy đòi hỏi sự thực tập thiền quán và sự tự vấn. Tâm ta cần được dọn trống trước khi có thể thâu nhập cái khác vào. Rồi ta mới có thể quyết định phải giải quyết các vấn đề của mình hay để chúng qua đi.

Điều quan trọng là ta phải có lòng tự trọng. Khi theo Phật giáo, đừng quan tâm đến những khuyết điểm, mà hãy nghĩ đến những lợi thế của mình. Bạn phải tự trọng, cũng như kính trọng đức hạnh của người khác, và lấy đó làm mẫu mực, khuyến khích cho bản thân. Lòng tự trọng là thiết yếu và rất khác với sự ngạo mạn. Thêm nữa, nếu bạn kính trọng người khác, họ sẽ kính trọng bạn. Chúng ta không xem thường ai, nhưng nên coi trọng các đức hạnh và cá tính của mình, vì đức hạnh đem lại trí tuệ.

BƯỚC KHOAN THAI

Thiền địnhđạo đức không thể tồn tại riêng rẻ. Là đệ tử Phật, chúng ta phải giữ giới, và khi ngồi thiền chúng ta phải ngồi yên lặng và thẳng lưng. Nếu là các tu sĩ, chúng ta đại diện cho Phật giáo, vì thế chúng ta phải cẩn thận trong lời nói, hành động và thân. Khi đi, chúng ta không nên hấp tấp, mà bước chậm rãi, từng bước một. Có một vị ni 90 tuổi ở Hồng Kông, khi băng qua đường, bà ấy quá trang nghiêm đến nỗi tất cả các xe đều ngừng lại. Nếu chúng ta giữ giới thì đức Phật sẽ che chở cho chúng ta.

Việc quan trọng là biết rõ bạn có thái độ đạo đức hay không. Nếu bạn làm một điều gì đó, thì đấy là pháp nếu như điều đó hợp đạo lý. Những việc làm chỉ cho lợi ích của bản thân thì không phải là pháp. Không nên làm việc gì với sự tính toán, ích kỷ. Phật pháp thật vi diệu. Bạn có thể làm bất cứ việc chi, bạn có thể đi mọi nơi, nhưng vị bổn sư của bạn luôn dõi mắt theo bạn. Nếu bạn làm việc bất thiện, thì sẽ thất bại, vì pháp là chánh niệm.

Có một câu nói như sau “con mọt chết trong sách”. Có nghĩa là nếu bạn không hiểu được ý nghĩa hoặc giáo lý trong kinh điển, thì kinh điển không lợi ích gì. Nếu bạn không thực tập điều mình đã học mà chỉ chấp vào ngôn từ, bạn sẽ chết giống như con mọt trong sách. Bạn phải nghiên cứu kinh điển, nhưng cũng phải biết đem chúng ra áp dụng bên ngoài. Khi đó mới đúng là bạn biết hành pháp.

Tâm Phậttừ bi. Chúng ta cần có lòng từ bi, và luôn mong muốn nó được phát triển thêm. Tôi tin tưởng mãnh liệt rằng kinh điển là pháp, nhưng hành giả phải làm sống lại những lời Phật dạy ngay trong hiện tại, chứ không phải 2500 năm trước. Đức Phật vẫn còn sống trong hiện đời; đây là cõi Phật.

TRANH TRONG TIM

Đến năm học thứ bảy trong ngành hội hoạ tôi đã khóc, tuyệt vọng vì tôi vẫn không thể vẽ đẹp như thầy tôi. Tôi nghĩ đến việc bỏ hội hoạ để học y khoa. Nhưng có người bảo nếu tôi thấy máu là sợ thì làm sao học y khoa? Vì thế tôi đành lê bước theo hội hoạ và văn chương.

Thầy tôi bảo phải kiên trì thêm ba năm nữa. Vì thực tập hoài thì sẽ giỏi, sau 10 năm thực tập, tôi đã có thể làm chủ cây cọ của mình. Có thể vẽ bất cứ gì mà tôi muốn. Trong 10 năm, tôi đã đặt một nền móng vững chắc cho mình.

Các hoạ sĩ bình thường vẽ vì hội hoạ, nhưng người hoạ sĩ thực hành thiền thì vẽ từ những bức tranh xuất hiện một cách tự nhiên trong tim họ, được ấp ủ như một điều tự nhiên, chứ chủ yếu không phải là để được hoạ lại.

Một nhà thơ, nhà thư pháp Trung Hoa cổ xưa có nói: “Lúc đầu tôi không hiểu chi về hội hoạ, nhưng qua việc thực tập quán xét về chân lý của Phật giáo, tôi trở nên ý thức được sự có mặt của tính tự nhiên không gò bó”. Một họa sĩ phải phấn đấu để đạt được tính chất thanh thoát, tự nhiên trong tác phẩm của mình. Nghệ thuật xuất phát từ trí tuệ. Hội hoạ Trung Hoa rất phong phú về nét đẹp thơ mộng và các lý thuyết Trung Hoa về hội hoạ cũng được áp dụng trong văn chương và trong các nguyên tắc sống.

Đây là một bài thơ – hay có thể được gọi là một bức hoạ:

Tâm tôi sáng rỡ tựa trăng thu.

Soi chiếu trên mặt hồ phẳng lạnh.

Thanh khiết nầy có gì so sánh đặng,

Làm sao tôi diển tả được đây?


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11400)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11571)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13570)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14133)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10319)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10809)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11345)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11292)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11456)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10186)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9972)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10724)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11329)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42253)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10496)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11877)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10037)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10475)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10645)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45807)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32145)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11351)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10718)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11353)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10652)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13484)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12391)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11052)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10631)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12341)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11183)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11858)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29314)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9232)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10561)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10254)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10611)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10921)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10824)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32185)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27426)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17824)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11889)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12300)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10453)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11714)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10444)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10802)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28119)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10166)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10295)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10663)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10781)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11240)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10410)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10699)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11483)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18283)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10537)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12861)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11761)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29232)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28630)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28327)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13347)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22810)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13465)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11589)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13837)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25756)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26110)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22337)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14501)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12079)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11817)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11696)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11499)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33232)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31878)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12051)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39671)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22539)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11981)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14259)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13363)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14317)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12078)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10421)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11247)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13343)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34566)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12647)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12242)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13547)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12638)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12995)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16321)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11768)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27423)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28474)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant