Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 6: Đôi mắt thiên thần

04 Tháng Chín 201100:00(Xem: 7267)
Chương 6: Đôi mắt thiên thần

ĐÔI BẠN HÀNH HƯƠNG
Chiêu Hoàng

Chương 6: Đôi mắt thiên thần

Cả hai rời tiệm bán hương và đi xuôi vào dòng phố chính. Tuy gọi là phố nhưng đây cũng còn là một tỉnh lỵ nhỏ gần bìa rừng, nên không đến nỗi tấp nập như những đô thị lớn. Dù vậy, vì từ bé công chúa chỉ sống quanh quẩn trong cung, cần gì cũng có kẻ hầu, người hạ, chẳng bao giờ có dịp ra ngoài, nếu có thì cũng đi với phụ vương và mẫu hậu đến đúng nơi muốn đến, tiền hô, hậu ủng, quân lính và cận vệ đầy chung quanh, xong việc rồi về, không bao giờ được đi lang thang, thoải mái thế này. Nên thấy cái gì cũng làm cho công chúa lạ lùng, tò mò muốn tìm hiểu. Nàng cho rằng, mình đang lạc vào “thế-giới-bên-ngoài”, một thế giới rất kỳ lạ và cũng rất thật, khác hẳn cái thế giới ngà ngọc trong cung.

Cả hai đi một đỗi thì thấy xa xa có một đám đông tụ tập, ồn ào. Công chúa cũng chen chân vào xem cho biết. Hóa ra, đó là một gã Sơn Đông bán thuốc đang ba hoa quảng cáo thuốc gia truyền mấy đời của cha ông gã. Gã mặc một bộ đồ của con nhà võ, lưng thắt đai đen, dáng to lớn, khoẻ mạnh, trên trán cột một giải khăn đỏ. Bên cạnh là một chiếc xe thổ mộ được kéo bởi một con ngựa cột dây cương rất sặc sỡ, trên để vài chiếc thùng, một chiếc mở rộng bày ra những túi thuốc tễ đen nhánh. Điểm đặc biệt thu hút thiên hạ nhiều nhất là gã mang theo một con khỉ nhỏ, lông nó ngà ngà vàng như râu bắp, trên người cũng được khoác một chiếc áo lòe loẹt như kiểu một gánh xiếc rẻ tiền. Trông nó không đẹp nhưng vì biết làm trò và khôn lanh nên cũng làm cho thiên hạ nhiều phen phải bật cười. Nó luôn luôn nhảy nhót, chuyền từ vai gã bán thuốc rồi nhảy lên nóc chiếc xe thổ mộ. Nhiệm vụ của nó là nhảy cẫng lên khi nghe tiếng trống và thanh la đánh choang choảng, rồi sau đó ngả mũ chào thiên hạ và đi một vòng để thâu tiền.

Tiếng gã Sơn Đông lơ lớ giọng chệt, rống lên quảng cáo thuốc, hai tay hươi chập choả lên cao thỉnh thoảng chêm thêm một tiếng trống tùng tùng:

– Tùng... tùng...xoèng! Mại zô... mại zô... Bà con ơiiiii! Rẻ zồi... rẻ zồi! Thuốc gia truyền mấy đời từ Sơn Đông tới. Bảo đảm, không hết không tính tiền. Tùng... tùng... xoèng!

Gã nhào lộn mấy vòng rồi hươi hai cái chập chỏa lên cao đánh một cái “xoèng”, rồi rống cổ quảng cáo tiếp.:

– Em nhỏ hay “lái” đêm, cho em nhỏ “ún” thuốc. Em nhỏ hết “lái” đêm...

Có tiếng ồm ồm như vịt đực từ trong đám thính giả:

– Vì em nhỏ... bí “lái”!

Đám người nghe như vậy cười rộ lên. Chính gã Sơn Đông cũng nhe hàm răng vàng khè, cáu bẩn ra cười theo. Nhưng sau đó lại tròng thêm câu đính chánh:

– Ầy... zààà ... Hông phải đâu à! Cái nị nói zậy là tội nghiệp ngộ lắm ààà... Thuốc gia truyền của ông cha ngộ tài giỏi lắm! Em nhỏ nào mà uống thuốc ngộ zồi là khỏi lái đêm, nhưng sáng mai vẫn lái được như thường mà. Bảo đảm, bảo đảm! Không hết, ngộ không có lấy tiền mấy nị đâu!

Nói xong, gã lại nhào lộn mấy vòng. Con khỉ lập tức vỗ tay đôm đốp, nhảy từ vai gã xuống đất, ngả cái mũ vừa đen, vừa bẩn đi một vòng để xin tiền. Cũng có nhiều người vui vẻ bỏ vào vài đồng bạc cắc. Sau khi nhào lộn thêm mấy vòng, gã lại quảng cáo tiếp:

– Tùng... tùng... xoèng! Em nhỏ hay khóc đêm... tùng...tùng... Cho em nhỏ ún thuốc... tùng... xoèng... em nhỏ hết khóc đêm...

Lại cái giọng bỡn cợt lúc nãy nổi lên:

– Vì em nhỏ... câm! Hi...hi..hi!

Lần này, thiên hạ cười rộ hơn lần trước. Nhìn lại, đó là một gã hán tử vừa cao, vừa gầy. Hắn đứng lẫn trong đám người quây chung quanh. Hắn vừa nói, vừa cười, khuôn mặt búng ra đầy chất tếu. Trông hắn không có vẻ gì muốn phá gã Sơn Đông, nhưng cái tính tếu không chừa được nên ngứa miệng cứ chỏ mỏ vào mà phá gã.

Sơn Đông bán thuốc chắc là đã gặp những tình cảnh “cười ra nước mắt” như thế này rồi nên vẫn lờ đi, lấn át sự trêu chọc của gã hán tử bằng cách đánh thùng thùng liên tiếp trên mặt trống. Nhào lộn thêm mấy vòng rồi hươi hai cái chập chỏa lên làm một cái xoèng!

Bà con ơi! Mại dzô... mại dzô!

Nói rồi, gã cầm mấy bọc thuốc tễ đen nhánh mang đến từng người mời chào. Nhưng chẳng ai dám mua cả, vì dù gã có bảo đảm rằng thuốc hiệu nghiệm, nhưng lời nói đùa của gã hán tử cũng làm cho thiên hạ ái ngại. Mà nếu thuốc không hiệu nghiệm thì kiếm gã đâu mà bắt đền?

Công chúa đứng xem mà cười khúc khích. Nàng không thể ngờ thế giới ngoài cung cấm lại vui và náo nhiệt đến thế. Đang ồn ào vui vẻ, bỗng dưng có tiếng còi tu huýt của đám vệ binh đằng xa dồn dập ùa tới. Đám đông chạy toán loạn, gã Sơn Đông cũng vội vã đóng sập thùng bán thuốc rồi nhảy phóc lên con ngựa, cong lưng quất thật mau trước khi vệ binh ập tới bắt. Chiếc xe thổ mộ chao đảo, xộc xệch, bị kéo lê theo sau. Con khỉ nhảy tót lên vai gã Sơn Đông ngoác miệng ra cười và vỗ tay đôm đốp. Không khí nhốn nháo chỉ trong vòng vài phút thì không còn ai ở đó nữa. Một vài người vệ binh chạy vụt qua công chúa cố đuổi theo gã Sơn Đông. Nhưng chân chạy đâu nhanh bằng ngựa, nên chỉ thoáng chốc gã đã mất hút tận cuối đường.

Còn lại công chúa và Ếch. Nàng rẽ qua con đường nằm ngang đi vào nơi có những ánh đèn thấp thoáng. Buổi tối, những tiếng rao, tiếng cười, tiếng nói v.v... tạo nên một âm thanh hỗn độn, ầm ì... Ngoài đường xuất hiện khá nhiều ăn mày, lem luốc, bẩn thỉu. Đôi khi chạy theo chân du khách liều lĩnh nắm áo nài nỉ xin ít tiền xu. Đôi khi họ tụ tập ở những vỉa hè gần các quán rượu (nhất là những nơi có bày những chiếc bàn trước cửa tiệm), chờ cho thực khách vừa ăn xong đứng dậy là trờ tới, tranh nhau nhặt những đồ ăn thừa hay húp ít nước súp còn đọng trong tô.

Nhìn cảnh đói khổ của người dân, công chúa bỗng thấy dậy trong tim một nỗi thương tâm tha thiết. Lần vào túi, tiền bạc cũng chẳng còn bao nhiêu, mà nếu công khai cho chác nhiều khi lại để lộ chân tướng. Nên nàng không dám làm gì cả, chỉ biết cầu nguyện cho họ vơi bớt được ít nhiều nỗi đói khổ mà thôi...

Đang ngẩn ngơ, bỗng công chúa thấy một đứa nhỏ chỉ khoảng độ 7,8 tuổi. Chẳng hiểu chuyện gì đã xảy ra mà nó bị cụt hai chân lên đến bẹn. Nó phải nằm trên một tấm ván vuông dưới có bốn bánh xe và di chuyển bằng hai tay đẩy mạnh xuống mặt đất. Thân hìnhgầy gò, yếu đuối. Mặt mũi lem luốc, trên người mặc một chiếc áo rách tả tơi... Động mối thương tâm, công chúa vội vã đi theo nó, gọi khẽ:

– Em nhỏ... em nhỏ... Chờ ta với...(vừa nói, công chúa vừa lần tay trong túi lấy hết mớ bạc vụn cầm trong tay) Khi nó ngừng lại, nàng cúi xuống dúi vào tận tay nó mớ bạc vụn. Khi nó ngước mặt lên, cả Ếch và công chúa đều “Ồ” lên một tiếng lớn...

Trên khuôn mặt lem luốc bẩn thỉu của đứa bé, Công chúa nhìn thấy một đôi mắt rất trong sáng. Đôi-mắt-thiên-thần. Trong đôi mắt đó, không có sự hiện diện của khổ đau và đói khát. Đứa bé nhoẻn miệng cười, một nụ cười bao dung và hình như trong ánh mắt có một chút gì tinh quái, lung linh...

***

Cả hai chưa hết bàng hoàng vì ánh mắt của đứa bé. Không một lời cảm ơn, nó phóng về phía con đường hẻm chênh chếch trước mặt. Ếch thì thầm:

– Ta hãy theo dõi xem nó đi đâu...

– Được!

Công chúa vội vã bước theo. Nhưng đường trong hẻm chằng chịt, lại tối. Thoáng một cái đã không thấy bóng dáng nó đâu cả. Đi thêm một đỗi, công chúa sợ lạc bèn bảo:

– Ta đã mất dấu nó rồi. Thật tiếc! Phải trở ra thôi trước khi bị lạc.

Ếch biểu đồng tình:

– Phải! Cũng không nên cố tìm hiểu một sự thật cuối cùng. Vì đôi khi, chúng ta chưa có đủ duyên nên dù có muốn tìm hiểu cũng không được. (đổi giọng) Công chúa cũng nhận ra điều ta thấy chăng?

– Ý Ếch muốn nói, cặp mắt trong sáng như thiên thần của thằng bé?

– Phải! Ta trộm nghĩ, có lẽ nó không phải là một người bình thường đâu!

Vậy thì nó là ai?

– Chưa biết được! Nhưng trong kinh sách thường bảo, chư Phật và chư Đại Bồ Tát thường xuất hiện trong các cõi nhiều như bụi để cứu độ chúng sanh. Nhất là cõi người, vì cõi người là một nơi nằm giữa bờ mé của thiện và ác. Lại nữa, con người có được trí thông minh vừa đủ để có thể tu tập đạt đến Giác Ngộ. Về việc độ sanh, thì các ngài có rất nhiều phương tiện thiện xảo. Tùy theo đối tượng độ sanhứng biến một cách tương ứng. Chẳng hạn như các ngài có thể thị hiện làm một gã ăn mày ghẻ lác, một vị vua, một người bán hàng rong, một kẻ cướp v.v... Nhẫn đến một người kỹ nữ... Tuỳ mọi cơ duyên để hóa độ. Tuy nhiên trong sáu cõi (Trời, Người, A Tu La, Địa ngục, Ngạ quỷSúc sanh) cõi người là có nhiều cơ duyên hơn cả. Vì sao? Vì cõi Trời sung sướng quá nên không ai muốn tu. Còn ba cõi xấu ác như Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh thì ngu si, không có trí huệ, và vì quả báo sâu dày nên khó tu, khó độ. Đó là nói trên nguyên tắc thôi. Nhưng vì lòng từ bi vô giới hạn, các ngài vẫn thị hiện trong tất cả các cõi để tùy duyênhóa độ chúng sanh một cách không nhàm mỏi...

– Như vậy, ý Ếch muốn nói thằng bé ta vừa gặp có thể là một bậc Bồ Tát hay sao?

– Cũng có thể. Nhưng theo ta nghĩ, có lẽ đó là một vị ẩn sĩ tu lục độ đã thuần, đắc được nhiều thần thông, vì cơ duyên nào đó, ngài đã hạ sơn để cứu độ cho một vài người. (trầm ngâm một lúc) Không biết công chúa có thấy không? Lúc đứa bé ngước nhìn, ta thấy trong ánh mắt có một chút hóm hỉnh với nụ cười trên môi và toàn thân thì toả hào quang...

– Ồ! Thật vậy sao? (tặc lưỡi) Tiếc quá, phải chi mình có thể đuổi kịp được Ngài, vấn nạn về đạo pháp.

– Có lẽ chúng ta không có đủ duyên, nên Ngài không cho gặp hoặc thời cơ chưa chín mùi. Nếu quả thực như thế thì dù có cưỡng cầu cũng chẳng được gì...
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6184)
Phật dạy rằng tất cả nhân quả thiện ác trên thế gian như bóng theo hình, không sai chạy tơ hào. Song, những kẻ không tin tưởng luật nhân quả thì cho đó là lời rỗng tuếch.
(Xem: 7258)
Minh Tâm là một yếu pháp trong hết thảy các pháp và Tịnh Tâm là một yếu hạnh trong hết thảy các hạnh. Nhưng cái yếu pháp Minh Tâm không chi bằng niệm Phật.
(Xem: 6774)
Khi tâm mình nhẹ nhàng, thảnh thơihạnh phúc thì ba nẻo đường đen tốiđịa ngục, ngạ quỷsúc sanh không thể xuất hiện.
(Xem: 6189)
Đã mấy chục năm trôi qua, sinh ra làm người giữa cuộc đời này, cho đến hôm nay, hương linh đã chính thức kết thúc cuộc đời con người,
(Xem: 5677)
Nếu bạn có bạn bè hay người thân đang lâm trọng bệnh hoặc sắp qua đời, tôi biết là không có ai bảo bạn hãy cứ thản nhiên với họ.
(Xem: 4950)
Mục đích thứ nhất của chúng ta khi tu học Phật Pháp đương nhiên là để liễu thoát sanh tử luân hồi, ra khỏi tam giới.
(Xem: 5360)
Hành giả tu học pháp môn Tịnh Độ, tất yếu đầy đủ tư lương Tịnh Độ. Những gì gọi là tư lương?
(Xem: 6666)
Bất cứ một ai khi trì tụng thần chú Đại Bi với tất cả tâm thành, chắc chắn sẽ đạt được tất cả những điều mong cầu, ước nguyện bởi vì oai lực của Thần chú là rộng khắp, vô biên...
(Xem: 5977)
Phật Pháp đến nơi nào thời cũng làm lợi ích cho chúng sanh, làm cho chúng sanh được vui vẻ và được an vui...
(Xem: 12032)
Nguyện con sắp đến lúc lâm chung, Trừ hết tất cả các chướng ngại, Tận mặt thấy Phật A Di Đà, Liền được sanh về cõi Cực lạc.
(Xem: 5757)
Tâm thức chánh niệm hay tán loạn của con người khi lâm chungyếu tố quyết định cho sự vãng sanh Tịnh độ hay đọa lạc về các cảnh giới khổ đau.
(Xem: 7058)
Người Nhật khi nghe đến Shinran Shonin (Thân Loan Thánh Nhân) họ liền hiểu ngay gần như là Giáo Tổ của Tịnh Độ Tông Nhật Bản,
(Xem: 5510)
Trong xã hội ngày nay, với nhiều biến loạn và nhiễu nhương, những người phát tâm học Phật chân chính cần phải có một nhận thức sáng suốt.
(Xem: 5898)
Do chúng sinh có nhiều bệnh, nên đức Phật mới lập ra nhiều pháp môn, nhưng tất cả giáo lý đều lấy giác ngộ làm đích đến.
(Xem: 4924)
Tu học pháp môn niệm Phật là có thể mang nghiệp vãng sanh, nhưng chúng ta cũng tận lực, hy vọng có thể mang đi ít một chút.
(Xem: 4466)
Chúng ta học được từ nơi Phật Bồ Tát là ở ngay trong cuộc sống thường ngày, nhất định phải dùng tâm chân thành, chân thì không giả, thành thì không hư vọng...
(Xem: 8253)
Thiền (hay Thiền–na) là âm của tiếng Phạn "Dhyana", là pháp môn "trực chỉ Chơn tâm, kiến tánh thành Phật".
(Xem: 6544)
Một câu A Di Đà Phật làm cho chúng ta tỉnh lại. Sau khi tỉnh rồi mới biết được chính mình vốn dĩ là A Di Đà Phật, chính mình vốn dĩ là Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 7418)
Tất cả chúng ta đang sống trong Ánh sáng Vô lượng (Vô lượng Quang) và Đời sống Vô lượng (Vô lượng Thọ), trong bổn nguyện của Phật A Di Đà,
(Xem: 5832)
Phật giáo không phải là tôn giáo, mà là giáo dục. Giáo dục Phật giáo cứu cánh viên mãn, giúp chúng ta phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui.
(Xem: 5485)
Ở Trung Hoa, kinh Quán Vô Lượng Thọ đóng một vai trò quan yếu trong giai đoạn đầu tiên của sự truyền bá Tịnh độ tông hơn bất kỳ kinh văn nào khác của tông nầy.
(Xem: 6428)
Niệm Phật là một trong những pháp môn tu hành rất căn bản được Đức Thế Tôn chỉ dạy rất rõ ràng, hiện còn lưu lại trong các bản kinh cổ nhất,
(Xem: 6757)
Tịnh Độphương cách thích hợp nhất để đạt thành tựu trong một kiếp, và là cách tốt nhất để cứu độ chúng sinh.
(Xem: 7570)
Gặp được Phật pháp rất khó! Trên đời này không có pháp nào thoát ly sanh tử, chỉ có giáo pháp của Phật mới ra khỏi sinh tử luân hồi.
(Xem: 4898)
Tâm thường đế trụ, độ thế chi đạo, ư nhất thiết vạn vật, tuỳ ý tự tại, vi thứ giá loại, tác bất thỉnh chi hửu.
(Xem: 4652)
Học Phật trước tiên phải làm người tốt, xử lý tốt mối quan hệ giữa người với người rồi, tiến thêm một bước, chúng ta phải xử lý tốt mối quan hệ với môi trường tự nhiên.
(Xem: 5277)
Trong bộ kinh này, đức Phật dạy chúng ta phương pháp để cái tâm được thanh tịnh.
(Xem: 12674)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9722)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10493)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10361)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9946)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 12035)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10176)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10810)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9935)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8825)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9528)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14568)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8794)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 9123)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 9363)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8827)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10547)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9244)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8390)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 9448)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 9011)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9603)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9033)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 8387)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8969)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 9004)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8766)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9397)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 9059)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8807)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 4103)
Ngày nay, nhiều người niệm Phật A Di Đà để cầu vãng sinh Tây phương Cực Lạc. Điều này phù hợp với đại nguyện của đức Phật A Di Đà cứu độ chúng sinh về cõi Tịnh độ của Ngài để tiếp tục tu hành tới ngày thành Phật.
(Xem: 9064)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 9910)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant