Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

14-Kỷ luật tự tạo

28 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 9423)
14-Kỷ luật tự tạo

NGHĨ VỀ NHỮNG ĐIỀU NÀY
Nguyên tác: Think on These Things by Jiddu Krishnamurti
Lời dịch: ÔNG KHÔNG Bản dịch 2006 – Hiệu đính 7- 2008

Chương 14
Kỷ luật tự tạo

Bạn có khi nào suy nghĩ tại sao chúng ta lại bị kỷ luật, hay tại sao chúng ta lại kỷ luật chính mình? Những đảng phái chính trị khắp thế giới quả quyết rằng kỷ luật của đảng phái phải được tuân theo. Cha mẹ của bạn, những giáo viên của bạn, xã hội quanh bạn – tất cả đều bảo rằng bạn phải được kỷ luật, được kiểm soát. Tại sao vậy? Và kỷ luật có thực sự cần thiết hay không? Tôi biết chúng ta quen suy nghĩ rằng kỷ luật là cần thiết – kỷ luật được áp đặt hoặc bởi xã hội, hoặc bởi một vị thầy tôn giáo, hoặc bởi một luật lệ luân lý đặc biệt, hoặc bởi trải nghiệm riêng của chúng ta. Cái con người tham vọng muốn thành tựu, muốn kiếm nhiều tiền, muốn là một nhà chính trị vĩ đại – chính tham vọng của anh ấy trở thành phương tiện cho kỷ luật riêng của anh ấy. Vì vậy mọi người quanh bạn đều nói rằng kỷ luật là cần thiết: bạn phải đi ngủ và thức dậy vào một giờ nào đó, bạn phải học, đậu những kỳ thi, vâng lời cha mẹ, và vân vân.
 
Bây giờ, tại sao bạn phải được kỷ luật? Kỷ luật có nghĩa gì? Nó có nghĩa là điều chỉnh chính bạn vào một điều gì đó, phải vậy không? Điều chỉnh suy nghĩ của bạn vào điều gì những người khác nói, kháng cự một hình thức ham muốn nào đó và chấp nhận những hình thức khác, thỏa hiệp với phương pháp thực hành này và không thỏa hiệp với phương pháp kia, qui phục, đè nén, tuân theo, không chỉ trên bề mặt của cái trí, mà còn sâu thẳm bên trong – tất cả điều này được hàm ý trong từ ngữ kỷ luật. Và trong hàng thế kỷ, thời đại này tiếp nối thời đại khác, chúng ta đã được chỉ bảo bởi những giáo viên, những vị đạo sư, những vị giáo sĩ, những nhà chính trị, những vị vua, những luật sư, bởi cái xã hội trong đó chúng ta sống, rằng phải có kỷ luật.
 
Vì vậy tôi đang hỏi chính mình – và tôi hy vọng bạn cũng đang hỏi chính bạn nữa – liệu rằng kỷ luật có cần thiết hay không, và liệu rằng có một sự tiếp cận hoàn toàn khác hẳn đến vấn đề này hay không? Tôi nghĩ rằng có một cách tiếp cận khác hẳn, và đây là vấn đề thực sự mà không chỉ những trường học nhưng toàn thế giới đang phải đương đầu. Bạn thấy không, với mục đích đạt được hiệu quả, thông thường người ta đã chấp nhận rằng, bạn phải được kỷ luật, hoặc bởi một luật lệ luân lý, một niềm tin chính trị, hoặc bởi được huấn luyện để làm việc giống như một cái máy trong một cơ xưởng; nhưng qui trình kỷ luật này đang làm cho cái trí đờ đẫn qua sự tuân phục.
 
Bây giờ, kỷ luật có làm cho bạn được tự do, hay nó làm cho bạn tuân phục đến một khuôn mẫu học thuyết, dù rằng nó là khuôn mẫu không tưởng của chủ nghĩa cộng sản, hay một loại khuôn mẫu thuộc tôn giáoluân lý nào đó? Kỷ luật có cho bạn tự do hay không? Đã trói buộc bạn, đã làm cho bạn trở thành một tù nhân, như tất cả những hình thức kỷ luật đã áp dụng, vậy thì nó có thể buông trôi cho bạn đi hay sao? Làm thế nào có thể được? Hay có một cách tiếp cận hoàn toàn khác hẳn – mà là đánh thức một thấu triệt sâu thẳm bên trong vào toàn thể vấn đề kỷ luật? Đó là, liệu rằng bạn, cái cá thể, chỉ có một ham muốn chứ không phải là hai hay nhiều ham muốn đang mâu thuẫn lẫn nhau? Bạn có hiểu điều gì tôi nói hay không? Khoảnh khắc bạn có hai, ba, hay nhiều ham muốn, bạn có vấn đề của kỷ luật, phải vậy không? Bạn muốn giàu sang, có những chiếc xe hơi, những ngôi nhà, và cùng lúc bạn lại muốn từ bỏ những sự việc này bởi vì bạn nhận thấy rằng khi sở hữu rất ít hay không sở hữu gì cả là có luân lý, đạo đức, tôn giáo. Và liệu có thể được giáo dục một cách đúng đắn để toàn thân tâm của bạn được hòa đồng, không còn mâu thuẫn, và vì vậy không còn nhu cầu của kỷ luật nữa? Được hòa đồng ám chỉ một ý thức tự do và khi hòa đồng này đang xảy ra chắc chắn không có nhu cầu kỷ luật. Hòa đồng có nghĩa là nguyên vẹn trong một sự việc ở mọi mức độ tại cùng thời điểm.
 
Bạn thấy không, nếu chúng ta có thể có giáo dục đúng đắn từ cái tuổi mỏng manh nhất, nó sẽ tạo ra một trạng thái không còn mâu thuẫn, cả bên trong lẫn bên ngoài; và rồi thì không còn nhu cầu của kỷ luật hay cưỡng bách bởi vì bạn đang làm một việc gì đó một cách trọn vẹn, tự do, cùng toàn thân tâm của bạn. Kỷ luật nảy sinh chỉ khi nào có một mâu thuẫn. Những chính trị gia, những chính phủ, những tôn giáo có tổ chức muốn bạn chỉ có một hướng suy nghĩ, bởi vì nếu họ có thể làm cho bạn trở thành một người cộng sản hoàn toàn, một người Thiên chúa giáo hoàn toàn, hay bất kỳ người gì chăng nữa, lúc đó bạn không còn là một vấn đề, bạn chỉ tin tưởng và làm việc như một cái máy; vậy thì không còn mâu thuẫn bởi vì bạn chỉ tuân theo. Nhưng tất cả những tuân theo đều hủy hoại bởi vì nó là máy móc, nó chỉ là tuân phục trong đó không còn tánh giải thoát đầy sáng tạo.
 
Bây giờ, từ cái tuổi mỏng manh nhất, liệu chúng ta có thể tạo ra một ý thức an toàn hoàn toàn, một cảm thấy ở nhà, để cho trong bạn không còn đấu tranh để là cái này và không là cái kia? Bởi vì khoảnh khắc có một đấu tranh bên trong liền có xung đột, và muốn dập tắt xung đột đó phải có kỷ luật. Trái lại, nếu bạn được giáo dục đúng đắn, vậy thì mọi thứ bạn làm là một hành động hòa đồng; không có mâu thuẫnvì vậy không có hành động cưỡng bách. Chừng nào còn không có hòa đồng phải cần kỷ luật, nhưng kỷ luật là hủy diệt bởi vì nó không dẫn đến tự do.
 
Muốn hòa đồng không đòi hỏi bất kỳ hình thức nào. Đó là, nếu tôi đang làm điều gì tốt lành, điều gì xác thực, điều gì thực sự đẹp đẽ, đang làm nó bằng toàn thân tâm của tôi, vậy thì không có mâu thuẫn trong tôi và tôi không đang tuân phục một điều gì đó. Nếu điều gì tôi đang làm hoàn toàn tốt lành, đúng đắn trong chính nó – không phải đúng đắn theo một truyền thống Ấn độ giáo hay lý thuyết cộng sản nào đó, nhưng đúng đắn không có thời gian trong mọi tình huống – vậy thì tôi là một con người hòa đồng và không còn nhu cầu kỷ luật. Và bộ không phải chức năng của một ngôi trường là tạo ra trong bạn ý thức tự tin hòa đồng này để cho điều gì bạn đang làm không chỉ là ao ước của bạn, mà còn hoàn toàn đúng đắn, tốt lành, và trung thực mãi mãi, hay sao?
 
Bạn biết rồi, nếu bạn yêu thích thì không còn nhu cầu kỷ luật nữa, phải vậy không? Tình yêu mang lại hiểu rõ sáng tạo riêng của nó, vì vậy không có chống đối, không có xung đột; nhưng thưong yêu bằng một hòa đồng tron vẹn như thế chỉ xảy ra được khi nào bạn cảm thấy rất an toàn, hoàn toàn như ở nhà, đặc biệt khi bạn còn bé. Thật ra, điều này có nghĩa rằng người giáo dục và em học sinh phải có niềm tin gấp bội trong lẫn nhau, nếu không chúng ta sẽ tạo ra một xã hội xấu xa và hủy hoại giống như xã hội hiện nay. Nếu chúng ta có thể hiểu rõ sự quan trọng của hành động hòa đồng trọn vẹn trong đó không còn xung đột, và vì vậy không còn nhu cầu kỷ luật, vậy thì tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ tạo ra một loại văn hoá hoàn toàn khác hẳn, một văn minh mới mẻ. Nhưng nếu chúng ta chỉ kháng cự, đè nén, vậy thì điều gì bị kháng cự, đè nén hiển nhiên sẽ tác động lại trong những phương hướng khác và khởi sự vô số những hoạt động ma mãnh lẫn những tình huống hủy hoại.
 
Vì vậy rất quan trọng phải hiểu rõ toàn vấn đề kỷ luật. Đối với tôi kỷ luật là một điều gì đó rất xấu xa; nó không là sáng tạo, nó là hủy diệt. Nhưng chỉ ngừng ở đó, với một câu phát biểu như thế, dường như ám chỉ rằng bạn có thể làm bất kỳ việc gì bạn thích. Trái lại, một người thương yêu không làm bất kỳ việc gì anh ta thích. Chính tình yêu tự nó dẫn đến hành động đúng đắn. Điều gì mang lại trật tự trong thế giớithương yêu và hãy để cho tình yêu làm việc gì nó muốn.

Người hỏi: Tại sao chúng ta lại ghét những người nghèo khổ?

Krishnamurti: Bạn có thực sự ghét những người nghèo khổ hay không? Tôi không đang chỉ trích bạn; tôi chỉ đang hỏi, bạn có thật sự ghét những người nghèo khổ hay không? Và nếu bạn ghét họ, tại sao vậy? Đó có phải bởi vì bạn có lẽ cũng nghèo khổ một ngày nào đó, và tưởng tượng cái thảm hoạ riêng của bạn lúc đó, bạn chối bỏ nó? Hay chính bởi vì bạn không thích sự hiện hữu lôi thôi bẩn thỉu hèn hạ của những người nghèo khổ? Không thích sự bề bộn, vô trật tự, dơ dáy, nghèo túng, bạn nói rằng, “Tôi không muốn liên quan gì với những người nghèo khổ.” Đó là như vậy phải không? Nhưng ai đã tạo ra sự nghèo khổ, sự đói khát và vô trật tự trong thế giới? Bạn, cha mẹ của bạn, chính phủ của bạn – toàn xã hội của chúng ta đã tạo ra chúng; bởi vì, bạn thấy không, chúng ta không có tình yêu trong tâm hồn của chúng ta. Chúng ta không yêu quý con cái của chúng ta hay những người hàng xóm của chúng ta, chúng ta cũng không yêu quý những người còn sống lẫn những người đã chết. Chúng ta không có tình yêu cho bất kỳ cái gì cả. Những chính trị gia sẽ không thể xóa bỏ mọi đau khổxấu xa này trong thế giới, và những người tôn giáo lẫn những người đổi mới sẽ như vậy, bởi vì họ chỉ quan tâm đến những công việc nhỏ nhoi đó đây; nhưng nếu có tình yêu, vậy thì tất cả những sự việc xấu xa này sẽ biến mất vào ngày mai.
 
Bạn có thương yêu cái gì không? Bạn biết thương yêu có nghĩa gì hay không? Bạn biết không, khi bạn thương yêu một cái gì đó trọn vẹn, bằng toàn thân tâm, tình yêu đó không là cảm xúc, nó không là bổn phận, nó không bị phân chia thành dục vọng hay thiêng liêng. Bạn có thương yêu bất kỳ ai hay bất kỳ việc gì bằng toàn thân tâm của bạn – cha mẹ bạn, một người bạn, con chó của bạn, một cái cây, hay không? Bạn thương yêu à? Tôi nghĩ rằng bạn chẳng thương yêu gì cả. Đó là lý do tại sao bạn có những khoảng không gian rộng lớn trong tâm hồn của bạn để chứa đựng những xấu xa, hận thù, ganh tị. Bạn thấy không, con người thương yêu không có chỗ cho bất kỳ điều gì khác cả. Chúng ta thực sự nên dành chút ít thời gian thảo luận tất cả việc này và tìm ra phương cách xóa sạch những sự việc xấu xa đang chồng chất trong cái trí của chúng ta đến độ chúng ta không thể thương yêu; bởi vì chỉ khi nào chúng ta thương yêu chúng ta mới có thể có tự dohạnh phúc. Chỉ có những người đang thương yêu, sinh động, vui vẻ, mới có thể tạo ra một thế giới mới – không phải những chính trị gia, không phải những người đổi mới hay một vài vị thánh học thuyết nào đó.

Người hỏi: Ông nói về sự thật, tốt lành và hòa đồng, mà ngụ ý rằng ở mặt khác không có sự thật, không có hòa đồng và rất xấu xa. Vậy thì làm thế nào người ta có thể chân thật, tốt lành và hòa đồng mà không cần kỷ luật.

 Krishnamurti: Nói một cách khác, ganh tị, làm thế nào người ta được tự do khỏi ganh tị mà không cần kỷ luật? Tôi nghĩ rất quan trọng phải hiểu rõ chính câu hỏi đó; bởi vì câu trả lời ở trong câu hỏi, nó không tách rời câu hỏi.
 
Bạn biết ganh tị có nghĩa là gì hay không? Bạn trông xinh xắn, bạn ăn mặc đẹp đẽ, có một cái khăn đội đầu hay một cái sari đẹp, và tôi cũng muốn ăn mặc giống như thế đó; nhưng tôi không thực hiện được, vì vậy tôi ganh tị. Tôi ganh tị bởi vì tôi muốn cái gì bạn có; tôi muốn khác hẳn cái gì tôi là.
 
Tôi ganh tị bởi vì tôi muốn xinh đẹp như bạn; tôi muốn có những bộ quần áo thanh lịch, ngôi nhà đẹp đẽ, một địa vị cao mà bạn có. Không thỏa mãn với cái gì tôi là, tôi muốn giống như bạn; nhưng, nếu tôi hiểu rõ sự bất mãn của tôi và nguyên nhân của nó, vậy thì tôi sẽ không muốn giống như bạn hay ao ước những thứ mà bạn có. Nói khác đi, nếu ngay khi tôi bắt đầu hiểu rõ tôi là gì, vậy thì tôi sẽ không bao giờ so sánh với người khác hay ganh tị với bất cứ ai. Ganh tị nảy sinh bởi vì tôi muốn thay đổi chính tôi và giống một người nào đó. Nhưng nếu tôi nói rằng, “Dù tôi là gì chăng nữa, tôi muốn hiểu rõ nó,” vậy thì ganh tị biến mất; vậy thì không có nhu cầu kỷ luật, và từ hiểu rõ tôi là gì, hòa đồng xuất hiện.
 
Giáo dục của chúng ta, môi trường sống của chúng ta, toàn nền văn hóa của chúng ta quả quyết rằng chúng ta phải trở thành một điều gì đó. Những triết thuyết của chúng ta, những tôn giáo và những quyển sách thiêng liêng của chúng ta, tất cả đều nói như vậy. Nhưng bây giờ tôi hiểu rằng chính qui trình trở thành một cái gì đó ám chỉ sự ganh tị, mà có nghĩa rằng tôi không thỏa mãn với cái gì tôi là; và tôi muốn hiểu rõ tôi là gì, tôi muốn tìm được tại sao tôi luôn luôn so sánh mình với người khác, cố gắng trở thành một cái gì đó; và trong hiểu rõ tôi là gì không còn nhu cầu kỷ luật nữa. Trong tiến hành hiểu rõ đó, hòa đồng hiện hữu. Mâu thuẫn trong tôi nhường lối cho hiểu rõ về chính tôi, và đáp lại việc này mang lại một hành động mà là hòa đồng, nguyên vẹn, tổng thể.

Người hỏi: Năng lượng là gì? 133

Krishnamurti: Có năng lượng thuộc máy móc, năng lượng được sinh ra bởi những động cơ đốt cháy bên trong, bởi hơi nước hay bởi điện lực. Có năng lượng ở trong một cái cây, tạo ra nhựa chảy toàn cái cây, sinh ra chiếc lá. Có năng lượng dùng suy nghĩ rất rõ ràng, năng lượng dành cho thương yêu, năng lượng để căm hận, năng lượng của một nhà độc tài, năng lượng để trục lợi con người nhân danh Chúa, nhân danh những vị Thầy, nhân danh một quốc gia. Đây là mọi hình thái của năng lượng.
 
Bây giờ, năng lượng như năng lượng điện, ánh sáng, hạt nhân và vân vân – tất cả những hình thức của năng lượng đều tốt trong chính chúng nó, phải vậy không? Nhưng năng lượng của cái trí mà sử dụng chúng cho những mục đích hung hăng và tàn bạo, để thu được một cái gì đó cho chính nó – năng lượng như thế đó luôn luôn xấu xa trong mọi hoàn cảnh. Người đứng đầu của bất kỳ xã hội, nhà thờ hay tổ chức tôn giáo nào sử dụng năng lượng để gây áp lực vào những người khác là một con người xấu xa, bởi vì anh ấy đang kiểm soát, đang định hình, đang hướng dẫn những người khác mà không biết chính anh ấy đang đi đâu. Điều này không chỉ đúng cho những tổ chức to lớn, nhưng còn cho những tổ chức nhỏ bé khắp thế giới. Khoảnh khắc một con người được rõ ràng, không rối loạn, anh ấy ngừng là người lãnh đạovì vậy anh ấy không có năng lượng, quyền hành.
 
Vì vậy rất quan trọng phải hiểu rõ tại sao cái trí con người cần năng lượng để áp đặt quyền hành vào những người khác. Cha mẹ có quyền hành với con cái của họ, người vợ với người chồng, hay người chồng với người vợ. Bắt đầu trong một gia đình nhỏ, điều xấu xa lan rộng cho đến khi nó trở thành sự độc tài của những chính phủ, của những người lãnh đạo chính trị và những người trung gian tôn giáo. Và liệu người ta có thể sống mà không còn thèm khát tìm kiếm cái năng lượng này, mà không muốn gây ảnh hưởng hay bóc lột người khác, mà không muốn có quyền hành cho chính mình, cho một nhóm người hay một quốc gia, hay cho một vị thầy, một vị thánh? Tất cả những hình thức như thế của năng lượng đều hủy diệt, chúng mang lại đau khổ cho con người. Trái lại, khi hoàn toàn tốt lành, khi ân cần, khi thương yêu – đó là một sự việc lạ lùng, nó có ảnh hưởng không thời gian riêng của nó. Tình yêu là sự vĩnh hằng riêng của nó, và nơi nào có tình yêu không còn năng lượng xấu xa.

Người hỏi: Tại sao chúng ta tìm kiếm sự nổi tiếng?

Krishnamurti: Bạn không bao giờ nghĩ về điều đó hay sao? Chúng ta muốn nổi tiếng như một văn sĩ, như một thi sĩ, như một họa sĩ, như một chính trị gia, như một ca sĩ, hay người nào bạn thích. Tại sao vậy? Bởi vì chúng ta không thực sự thương yêu cái gì chúng ta đang làm. Nếu bạn yêu ca hát, yêu vẽ, hay viết những bài thơ – nếu bạn thực sự yêu nó – bạn không bận tâm với việc bạn có nổi tiếng hay không? Muốn nổi tiếng là giả tạo, hời hợt, tầm thường, ngu xuẩn, nó không có ý nghĩa gì cả; nhưng bởi vì chúng ta không thương yêu cái gì chúng ta đang làm, chúng ta muốn làm phong phú chính mình bằng sự nổi tiếng. Giáo dục hiện nay của chúng ta bị hư hỏng bởi vì nó dạy chúng ta thương yêu sự thành công nhưng không thương yêu cái gì chúng ta đang làm. Kết quả đã trở nên quan trọng hơn hành động.
 
Bạn biết không, che giấu tài năng, thông minh của bạn vì khiêm tốn, sống không là ai cả, yêu quí cái gì bạn đang làm và không phô trương nó, là rất tốt lành. Sống tử tế, rộng lượng mà không một danh tính là rất tốt lành. Việc đó không làm cho bạn nổi tiếng, hình ảnh của bạn không được đăng trên báo chí. Những chính trị gia không gõ cửa nhà bạn. Bạn chỉ là một con người sáng tạo đang sống và không là ai cả, và trong đó có cả phong phú lẫn vẻ đẹp lớn lao.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18415)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19890)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19581)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33472)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34586)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54585)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37796)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21191)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17944)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63742)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17436)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49736)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16904)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16414)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14512)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22525)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57057)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13886)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29052)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33368)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38431)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31276)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13941)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14655)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14319)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12673)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14861)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19230)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13851)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12700)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30445)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11864)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30715)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29437)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30652)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31264)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37152)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32306)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23724)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12248)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14243)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14113)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34013)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27769)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12478)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28683)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29405)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12449)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29272)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28064)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25718)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26079)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22308)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33183)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39623)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22482)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34518)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27390)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28428)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant