Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

III. Lưu thông phần

31 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 11644)
III. Lưu thông phần

BÀI VĂN KHUYÊN PHÁT TÂM BỒ ÐỀ
勸發菩提心文

Đại Sư Thật Hiền Soạn
Hòa Thượng Tuyên Hóa Lược Giảng

Lưu thông phần

Nguyên văn:

如是十緣備識,八法周知。則趨向有門,開發有地。相與 得此人身,居於華夏。六根無恙,四大輕安,具有信心,幸無魔障。況今我等,又得出家,又受具戒,又遇道場,又聞佛法,又瞻舍利,又修懺法,又值善友,又具 勝緣。不於今日發此大心,更待何日?惟願大眾,愍我愚誠;憐我苦志,同立此願,同發此心。未發者今發,已發者增長,已增長者今令相續。勿畏難而退怯,勿視 易而輕浮,勿欲速而不久長,勿懈怠而無勇猛,勿委靡而不振起,勿因循而更期待,勿因愚鈍而一向無心,勿以根淺而自鄙無分。譬諸種樹,種久則根淺而日深;又 如磨刀,磨久則刀鈍而成利。豈可因淺勿種,任其自枯;因鈍弗磨,置之無用?

Âm Hán Việt:

Như thị thập duyên bị thức, bát pháp châu tri, tắc xu hướng hữu môn, khai phát hữu địa. Tương dữ đắc thử nhân thân, cư ư Hoa Hạ. Lục căn vô dạng, tứ đại khinh an, cụ hữu tín tâm, hạnh vô ma chướng. Huống kim ngã đẳng, hựu đắc xuất gia, hựu thọ cụ giới, hựu ngộ đạo tràng, hựu văn Phật pháp, hựu chiêm xá lợi, hựu tu sám pháp, hựu trị thiện hữu, hựu cụ thắng duyên. Bất ư kim nhật phát thử đại tâm, cánh đãi hà nhật? Duy nguyện đại chúng, mẫn ngã ngu thành; lân ngã khổ chí, đồng lập thử nguyện, đồng phát thị tâm. Vị phát giả kim phát, dĩ phát giả tăng trưởng, dĩ tăng trưởng giả kim linh tương tục. Vật úy nan nhi thối khiếp, vật thị dị nhi khinh phù, vật dục tốc nhi bất cửu trường, vật giải đãi nhi vô dũng mãnh, vật ủy mĩ nhi bất chấn khởi, vật nhân tuần nhi cánh kỳ đãi, vật nhân ngu độn nhi nhất hướng vô tâm, vật dĩ căn thiển nhi tự bỉ vô phận. Thí chư chủng thọ, chủng cửu tắc căn thiển nhi nhật thâm; hựu như ma đao, ma cửu tắc đao độn nhi thành lợi. Khởi khả nhân thiển vật chủng, nhậm kỳ tự khô; nhân độn phất ma, trí chi vô dụng?

Dịch:

Như trên vậy mười nhân duyên đã hiểu rõ, tám tướng trạng đã biết, thì xu hướng có lối, phát tâm có chỗ. Chúng ta nay được thân người, ở xứ Hoa Hạ, sáu căn khỏe mạnh đầy đủ, tứ đại nhẹ nhàng an lạc, tín tâm đầy đủ, may mắn lại không có chướng. Huống chi chúng ta ngày nay còn được xuất gia, được thọ cụ túc giới, được gặp đạo tràng, được nghe Phật pháp, được chiêm bái xá lợi, được tu tập sám pháp, được gặp bạn lành, được nhân duyên thù thắng tốt đẹp. Nếu ngày nay không phát tâm rộng lớn, thì còn chờ đến ngày nào.

Cúi xin đại chúng thương cho tâm thành ngu muội của tôi, xót cho chí nguyện khổ sở của tôi, mà cùng lập nguyện ấy, đồng phát tâm này. Nếu chưa phát thì nay phát, phát rồi thì tăng trưởng, tăng trưởng rồi thì tương tục không gián đoạn. Chớ sợ gian nan mà khiếp sợ thối lui, đừng cho dễ mà khinh thường, hời hợt, đừng ham mau mà chẳng lâu bền, đừng biếng nhác giải đãi mà thiếu dũng mãnh, đừng uể oải mà không phấn khởi, đừng chần chờ mà kỳ hẹn mãi, đừng vì tối dốt mà cứ mãi vô tâm, đừng vì căn cơ cạn cợt mà tự khinh không có phần. Như trồng cây, trồng lâu thì rễ cạn ngày càng sâu; như mài dao, mài mãi thì dao đùi cũng thành sắc bén; chẳng nên vì rễ cạn mà không trồng, mặc cây khô héo, vì dao đùi mà không mài, để dao vô dụng.

 

Giảng:

Như thị thập duyên bị thức, bát pháp châu tri : Ở trên đã hiểu rõ mười loại nhân duyênbáo ân Phật, ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân thí chủ, ân chúng sanh, nhớ khổ sanh tử, tôn trọng tánh linh của mình, sám hối nghiệp chướng, cầu sanh Tịnh độ, khiến chánh pháp tồn tại lâu dài ; cũng hiểu rõ tám pháp tà chánh, chân ngụy, đại tiểu, thiên viên. Tắc xu hướng hữu môn, khai phát hữu địa : ông đã biết được đường lối tu hành như thế nào ; làm như thế nào để khai phát tâm Bồ đề, cũng đã có chỗ.

Tương dữ đắc thử nhân thân, cư ư Hoa Hạ : Ông nay đã có các thứ nhân duyên, đã được thân người, lại ở xứ Hoa Hạ là đất Trung Quốc. Lục căn vô dạng, tứ đại khinh an : Lục căn mắt tai mũi lưỡi thân ý đều không có tật bệnh gì, sáu căn đều đầy đủ. Tứ đại đất nước lửa gió cũng đều điều hòa, cũng tức là không có bệnh tật gì. Cụ hữu tín tâm, hạnh vô ma chướng : Lại đầy đủ tín tâm không có ma chướng làm chướng ngại sự tu hành học đạo của mình.

Huống kim ngã đẳng, hựu đắc xuất gia, hựu thọ cụ giới : lại nữa chúng ta hôm nay lại được xuất gia, được thọ Cụ túc giới. Hựu ngộ đạo tràng, hựu văn Phật pháp : lại gặp được đại đạo trường Vạn Phật Thành, lại có người vì ông giảng kinh thuyết pháp. Hựu chiêm xá lợi, hựu tu sám pháp ; Vạn Phật Thành của chúng ta cũng có Xá lợi của Phật ; lại được tu trì pháp hội "Ðại Bi Sám" v.v.Hựu trị thiện hữu, hựu cụ thắng duyên : Lại gặp được rất nhiều bạn tốt, được đầy đủ các thứ nhân duyên thù thắng đặc biệt. Bất ư kim nhật phát thử đại tâm, cánh đãi hà nhật? Nếu ông không phát tâm Bồ đề rộng lớn trong ngày hôm nay, thì còn đợi đến ngày nào nữa ?

Duy nguyện đại chúng, mẫn ngã ngu thành, lân ngã khổ chí : Ðại sư Tỉnh Am nói, cúi xin đại chúng các ông ! thương xót cho tâm thành ngu si của tôi, thông cảm tôi, thương cho chí nguyện khổ tâm của tôi. Ðồng lập thử nguyện, đồng phát thị tâm : Ðồng phát 48 đại nguyện, cũng là phát tâm nguyện này.

Vị phát giả kim phát : Nếu người chưa phát 48 nguyện này thì nay phát. Dĩ phát giả tăng trưởng : Ðã phát 48 nguyện rồi thì càng ngày càng làm cho nó tăng trưởng rộng lớn lên. tăng trưởng giả, kim linh tương tục : Ðã càng ngày càng làm cho tăng trưởng, nay cần phải tương tục không gián đoạn phát tâm Bồ đề.

Vật úy nan nhi thối khiếp : Ông không nên sợ gian nan mà sanh lòng khiếp sợ thối lui. Vật thị dị nhi khinh phù : Ông cũng không nên nhìn thấy những việc dễ dàng mà khinh thường hời hợt.

Vật dục tốc nhi bất cửu trường : ông cũng không nên ham mau; nếu không, tâm đã phát cũng sẽ chẳng lâu bền. Cần có tâm lâu bền. Không nên làm để cầu lợi, nói tôi đầu cơ, lợi dụng thời cơ kiếm lợi, thì có thể tu thành Phật ! Không bao giờ đầu cơ kiếm lợi mà có thể thành Phật ! Quý vị! ở đây tôi lại nhớ trước kia dạy 42 Thủ Nhãn, có người tu được vài năm, cảm thấy không có chi thành tựu, bèn không tu nữa. Ðó gọi là thối lui, không thể lâu bền được. Vật giải đãi nhi vô dũng mãnh : ông không nên giải đãi biếng nhác, một chút tâm dõng mãnh cũng không có.

Vật ủy mĩ nhi bất chấn khởi : ông cần phải phấn chấn, phấn khởi, chớ nên ủ rũ chán nản, lôi thôi không dứt khoát, cần đoạn mà không đoạn. Vật nhân tuần nhi cánh kỳ đãi : ông cũng không nên chần chờ kỳ hẹn mãi. "Nhân tuần" chính là chậm chạp, kỳ hẹn, không dõng mãnh tinh tấn. Kỳ đãi là lần lựa chờ đợi, nói : "Ta nay không tu hành, đợi khi nào sắp xếp xong mọi việc rồi sẽ tu hành", tu hành học đạo thì không thể chờ đợi kỳ hẹn mãi.

Vật nhân ngu độn nhi nhất hướng vô tâm : ông không nên vì mình ngu si mà không phát tâm Bồ đề. Vật dĩ căn thiển nhi tự bỉ vô phận : cũng không nên cho rằng căn cơ của mình cạn cợt, Phật đạo xa vời vợi không thể thành tựu, không có tư cách thành Phật. Không nên có tâm như thế !

Ở đây đưa ra ví dụ, thí chư chủng thọ, chủng cửu tắc căn thiển nhi nhật thâm ; như trồng cây, khi mới trồng thì rễ của nó rất cạn ; nhưng khi trồng lâu rồi, ngày này qua ngày kia thì rễ của nó cắm sâu vào lòng đất. Hựu như ma đao, ma cửu tắc đao độn nhi thành lợi : Lại thí dụ mài dao, vốn là dao rất cùn, nhưng mà mài lâu ngày thì nó cũng thành con dao sắc bén.

Khởi khả nhân thiển vật chủng, nhậm kỳ tự khô : ông không nên vì mới trồng cây rễ rất cạn mà không trồng nữa, mặc cho cây khô héo, ông không trồng nó thì nó sẽ chết khô. nhân độn phất ma, trí chi vô dụng? Cũng không nên vì dao cùn mà không dùng đá mài mài nó, quăng nó vào một góc, nói dao này rất cùn không dùng nữa.

Nguyên văn:

又若以修行為苦,則不知懈怠尤苦。修行則勤勞暫時,安 樂永劫;懈怠則偷安一世,受苦多生。況乎以淨土為舟航,則何愁退轉?又得無生為忍力,則何慮艱難?當知地獄罪人,尚發菩提於往劫;豈可人倫佛子,不立大願 於今生。無始昏迷,往者既不可諫;而今覺悟,將來猶尚可追。然迷而未悟,固可哀憐;苟知而不行,尤為痛惜。若懼地獄之苦,則精進自生;若念無常之速,則懈 怠不起。又須以佛法為鞭策,善友為提攜,造次弗離,終身依賴,則無退失之虞矣!勿言一念輕微,勿謂虛願無益。心真則事實,願廣則行深。虛空非大,心王為 大;金剛非堅,願力最堅。大眾誠能不棄我語,則菩提眷屬從此聯姻。蓮社宗盟,自今締好,所願同生淨土,同見彌陀,同化眾生,同成正覺。則安知未來三十二 相,百福莊嚴!不從今日發心立願而始也。願與大眾共勉之!幸甚幸甚!

Âm Hán Việt:

Hựu nhược dĩ tu hành vi khổ, tắc bất tri giải đãi vưu khổ. Tu hành tắc cần lao tạm thời, an lạc vĩnh kiếp; giải đãi tắc thâu an nhất thế, thọ khổ đa sanh. Huống hồ dĩ Tịnh độ vi chu hàng, tắc hà sầu thối chuyển? Hựu đắc vô sanh vi nhẫn lực, tắc hà lự gian nan? Ðương tri địa ngục tội nhân, thượng phát Bồ đề ư vãng kiếp; khởi khả nhân luân Phật tử, bất lập đại nguyện ư kim sanh. Vô thủy hôn mê, vãng giả ký bất khả gián; nhi kim giác ngộ, tương lai do thượng khả truy. Nhiên mê nhi vị ngộ, cố khả ai lân; cẩu tri nhi bất hành, vưu vi thống tích. Nhược cụ địa ngục chi khổ, tắc tinh tấn tự sanh; nhược niệm vô thường chi tốc, tắc giải đãi bất khởi. Hựu tu dĩ Phật pháp vi tiên sách, thiện hữu vi đề huề. Tháo thứ phất ly, chung thân y lại, tắc vô thối thất chi ngu hỹ! Vật ngôn nhất niệm khinh vi, vật vị hư nguyện vô ích. Tâm chân tắc sự thật, nguyện quảng tắc hạnh thâm. Hư không phi đại, tâm vương vi đại; kim cương phi kiên, nguyện lực tối kiên. Ðại chúng thành năng bất khí ngã ngữ, tắc Bồ đề quyến thuộc tùng thử liên nhân. Liên xã tông minh, tự kim đế hảo, sở nguyện đồng sanh Tịnh độ, đồng kiến Di Ðà, đồng hóa chúng sanh, đồng thành Chánh giác. Tắc an tri vị lai tam thập nhị tướng, bách phước trang nghiêm! Bất tùng kim nhật phát tâm lập nguyện nhi thủy dã. Nguyện dữ đại chúng cộng miễn chi! Hạnh thậm hạnh thậm!

Dịch:

Lại nữa, nếu cho tu hànhcực khổ mà không biết biếng nhác lại còn khổ hơn. Tu thì khó nhọc tạm thời mà an vui vĩnh kiếp, còn biếng nhác thì một đời tạm nhàn nhưng lắm kiếp chịu sự khổ đau. Huống chi lấy pháp môn Tịnh độ làm thuyền tàu thì lo gì thối chuyển, lại được vô sanh làm sức nhẫn thì sợ gì khó khăn. Nên biết, kẻ tội nhân trong cõi địa ngục mà còn phát Tâm Bồ đề từ bao kiếp trước, huống chi đã làm người, lại làm con Phật, mà không lập đại nguyện ngay trong đời này. Từ vô thỉ đến nay hôn mê mờ mịt, việc gì đã qua rồi đã không thể cản ngăn, mà ngày nay tỉnh ngộ, những việc trong tương lai còn có thể theo. Mê mà chưa ngộ, cố nhiên đáng thương; còn biết mà không làm, mới càng đáng tiếc. Nếu sợ cái khổ địa ngục thì sự tinh tấn tự sinh, nhớ cái vô thường tấn tốc thì tính biếng nhác không khởi. Lại nữa cần lấy Phật pháp làm roi dục, lấy thiện hữu làm tay dắt, trong khoảnh khắc cũng không tách rời, suốt cả một đời vẫn cố nương theo, thì không lo lắng còn có sự thối chuyển nữa. Chớ bảo một niệm phát nguyện là nhỏ nhặt, đừng cho nguyện suông là vô ích. Tâm chân thì sự thật, nguyện rộng thì hạnh sâu. Hư không chẳng rộng lớn, tâm vương mới lớn. Kim cương đâu có cứng chắc, nguyện lực mới chắc. Ðại chúng nếu không chê bỏ lời tôi, thì quyến thuộc Bồ đề từ đây kết hợp, bạn hữu Liên xã từ đây kết giao, sở nguyện đồng sanh Tịnh độ, đồng thấy Di đà, đồng hóa chúng sanh, đồng thành Chánh giác. Như vậy thì biết đâu ba mươi hai tướng tốt và trăm phước trang nghiêm sau này chẳng bắt đầu từ sự phát tâm lập nguyện trong ngày hôm nay. Nguyện cùng đại chúng chung nhau nỗ lực, như thế thật vô cùng may mắn.

 

Giảng:

Hựu nhược dĩ tu hành vi khổ : Nhược là giả thiết. Giả như ông cảm thấy tu hành là một việc cực khổ, không chịu nỗi ! Ăn một bữa cũng cảm thấy rất khó khăn, không ăn thịt thì cảm thấy rất thèm, điều này không được làm, điều kia cũng không được làm, há chẳng phải là không được tự do chăng ? Tắc bất tri giải đãi vưu khổ : Nhưng ông lại không biết, nếu ông không tu hành, giải đãi biếng lười còn khổ hơn tu hành. Khổ của tu hành chỉ là cực khổ nhất thời, mà được an vui vĩnh viễn ; nhưng nếu ông không tu hành thì vĩnh viễn ở trong biển khổ. Nhất thời ông cảm thấy : Ở nhà tốt mặc đồ đẹp, ăn món ngon, vui chơi hưởng thụ, nhưng đó chỉ là tạm thời, không phải là vĩnh viễn ; nếu ông tạo tội nghiệp, vĩnh kiếp đều là khổ đau.

Tu hành tắc cần lao tạm thời, an lạc vĩnh kiếp : tu hành chỉ là nhất thời, cảm thấy không được hưởng thụ. Nhưng nếu ông tu hành thành công thì vĩnh viễn an lạc trong thế giới Cực lạc, không còn chịu sự khổ đau. Giải đãi tắc thâu an nhất thế, thọ khổ đa sanh : ông giải đãi chính là làm biếng trốn việc, sống cầu an qua ngày đoạn tháng, đó chỉ là một đời này cảm thấy được hưởng phước, hưởng thụ, nhưng sau này vĩnh viễn vĩnh viễn, hoặc là đọa địa ngục sanh, hoặc là sanh vào ngạ quỷ, làm súc sanh chịu sự đau khổ.

Huống hồ dĩ Tịnh độ vi chu hàng, tắc hà sầu thối chuyển? Huống chi lấy pháp môn Tịnh độ làm chiếc thuyền đưa chúng ta ra khỏi biển khổ, thì không phải lo lắng chịu cảnh khổ đau nữa. Thối chuyển thì sẽ nhận lấy cảnh khổ đau. Hựu đắc vô sanh vi nhẫn lực, tắc hà lự gian nan? Ông được Vô sanh pháp nhẫn. Vô sanh pháp nhẫn thì không cảm thấy có gì là đau khổ để nhẫn, cũng không có gì an vui mà mong cầu ; đã không nhẫn, cũng không ham cầu. Vô sanh pháp nhẫn này, không thấy khổ, cũng không thấy vui, cũng không thấy sanh, cũng không thấy diệt, vậy ông còn sợ gian nan chi nữa ? không nên sợ gian nan cực khổ!

Ðương tri địa ngục tội nhân, thượng phát Bồ đề ư vãng kiếp : ông nên biết kẻ tội nhân đọa vào địa ngục, vì xưa kia họ cũng đã phát tâm Bồ đề ; cho nên tuy đọa địa ngục nhưng lại rất nhanh thoát khỏi cảnh địa ngục, lìa khổ được vui. Vậy thì khởi khả nhân luân Phật tử, bất lập đại nguyện ư kim sanh : đã là như thế, họ ở địa ngục phát tâm Bồ đề đều có thể lìa khổ được vui ; huống chi chúng tacon người tốt, lại là đệ tử tốt của Ðức Phật, tại sao không thể phát đại nguyện trong đời này ?

Vô thủy hôn mê, vãng giả ký bất khả gián : từ vô lượng kiếp cho đến hôm nay, chúng ta đều không hiểu, hôn mê mờ mịt ; nhưng việc quá khứ thì không cách nào vãn hồi. Nhi kim giác ngộ, tương lai do thượng khả truy : mà nay chúng ta đã hiểu rõ, đã giác ngộ. Ðã hiểu rồi thì những việc trong tương lai còn có cơ hội vãn hồi.

Nhiên mê nhi vị ngộ, cố khả ai lân : Nếu ông vẫn còn ở trong mê muội, không được giác ngộ, cố nhiên rất đáng thương xót ! Nhưng đó là vì ông ở trong mê, cũng không biết là mê. Cẩu tri nhi bất hành, vưu vi thống tích : mà ông đã biết đã hiểu thì nên phát nguyện ; nếu không phát nguyện thì càng đáng thương hơn !

Nhược cụ địa ngục chi khổ, tắc tinh tấn tự sanh : Nếu ông sợ quả báo khổ trong địa ngục thì tự nhiên sẽ tinh tấn dõng mãnh thêm. Nhược niệm vô thường chi tốc, tắc giải đãi bất khởi: nếu biết vô thường tấn tốc sẽ đến tìm chúng ta thì sự biếng nhác giải đãi sẽ không khởi lên.

Hựu tu dĩ Phật pháp vi tiên sách, thiện hữu vi đề huề : ông nên dùng Phật pháp để làm roi giục mình, khích lệ mình, khuyên nhắc mình ; lại thêm bạn lành cùng nhau giúp đỡ, cùng nhau dắt dìu. Tháo thứ phất ly, chung thân y lại : Tháo thứ, là thời gian rất ngắn. Cũng tức là dù trong khoảng thời gian rất ngắn cũng không lìa pháp môn này, không lìa Phật pháp. Chung thân y lai, tức là suốt đời nương theo Phật pháp. Tắc vô thối thất chi ngu hỹ! Nếu được như thế thì sẽ không thối thất tâm Bồ đề.

Vật ngôn nhất niệm khinh vi, vật vị hư nguyện vô ích : ông chớ bảo rằng một niệm phát nguyện thì rất nhỏ nhặt, không gì quan trọng ; cũng không nên nói rằng đó là phát cái nguyện lực hư vọng, không có ích lợi gì. Tâm chân tắc sự thật, nguyện quảng tắc hạnh thâm : Nếu tâm ông phát nguyện chân chánh, thì đó là sự thật. Nếu phát nguyện quảng đại thì hạnh nguyện của ông sẽ càng tinh tấn, càng sâu rộng. Hư không phi đại, tâm vương vi đại : Hư không còn chưa được xem là lớn, tâm vương của ông mới là lớn ; tâm vương thì không có hạn lượng. Kim cương phi kiên, nguyện lực tối kiên : trên thế giới này kim cươngkiên cố cứng chắc nhất, nhưng cũng không sánh bằng nguyện lực của ông ; ông không nên quên nguyện lực của ông đó mới là kiên cố nhất.

Ðại chúng thành năng bất khí ngã ngữ : Nếu có thể nghe lời của tôi, không quên lời của tôi, tắc Bồ đề quyến thuộc, tùng thử liên nhân : thì quyến thuộc Bồ đề từ đây kết hợp với nhau, đều làm bà con thân thích.

Liên xã tông minh, tự kim đế hảo : mọi người cùng nhau phát nguyện, cùng nhau niệm Phật thì bạn hữu Liên xã từ đây kết giao. Sở nguyện đồng sanh Tịnh độ, đồng kiến Di Ðà : Mọi người cùng vãng sanh Tịnh độ, cùng nhìn thấy Ðức Phật A Di Ðà. Ðồng hóa chúng sanh, đồng thành Chánh giác : Sau đó lại cùng nhau giáo hóa chúng sanh, đồng thành Phật đạo.

Tắc an tri vị lai tam thập nhị tướng, bách phước trang nghiêm! Bất tùng kim nhật phát tâm lập nguyện nhi thủy dã : "An tri", nghĩa là làm sao có thể biết được vị lai chúng ta có thể thành Phật, được ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm giống như Phật, chẳng phải bắt đầu từ sự phát tâm Bồ đề, lập nguyện Bồ đề trong ngày hôm nay sao ? chúng ta sau này thành Phật đều bắt đầu từ ngày hôm nay.

Nguyện dữ đại chúng cộng miễn chi! Hạnh thậm hạnh thậm! Nguyện cùng đại chúng chung nhau nỗ lực, cùng nhau phát nguyện không thối thất tâm Bồ đề, cùng nhau dõng mãnh tinh tấn hướng về phía trước. Nếu có thể được như thế thật là may mắn, thật là kiết tường !

Lời của Ban biên tập : Thượng Nhân năm 1979 và 1985 tại Vạn Phật Thánh Thành và Kim Sơn Thánh Tự giảng thuật "Khuyên Phát Bồ Ðề Tâm Văn", khuyến khích đệ tử phát tâm Bồ đề. Vì lúc đó thiết bị ghi âm sơ sài thiếu kém, cho nên một bộ phận ghi âm thiếu sót, hôm nay vì để cho đại chúng được nghe lời dạy của Thượng Nhân, trước đem các bài giảng năm 1985 chỉnh lý in ấn, vì trong đó có một số băng ghi âm thiếu sót, không cách nào lấy được nguyên âm năm đó, cho nên xin lấy bài giảng năm 1979 để thay thế.

(Nguồn: http://www.dharmasite.net/KPBDT.htm)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18436)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19921)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19597)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33506)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34662)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54616)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37858)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21213)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17956)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63788)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17454)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49777)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16926)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16456)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14526)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22549)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57114)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13900)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29085)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33390)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38452)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31301)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13954)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14668)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14336)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12707)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14886)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19246)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13864)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12711)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30492)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11889)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30785)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29470)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30689)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31331)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37210)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32345)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23755)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12264)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14256)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14122)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34052)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27799)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12496)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28717)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29463)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12472)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29315)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28119)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25756)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26110)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22337)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33232)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31878)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39671)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22539)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34566)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27423)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28474)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant