Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

08. Ân phụ mẫu

05 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10274)
08. Ân phụ mẫu

HAI CHỮ MẸ CHA
Chân Hiền Tâm
Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 2007

ÂN PHỤ MẪU 

Này Thiện nam tử! Ân phụ mẫu là: Cha có từ ân, mẹ có bi ân. Bi ân của mẹ, nếu ở thế gian một kiếp thuyết cũng không hết. Ta nay vì ông chỉ nói ít phần. Giả như có người vì cầu phúc đức lấy chiên đàn trầm hương lập các phòng xá, dùng muôn báu trang nghiêm v.v… cung kính cúng dường cho 100 đại Bà-la-môn tu tịnh hạnh, 100 đại thần tiênngũ thông, 100 thiện hữu v.v… nhất tâm cúng dường như thế mãn đến ngàn kiếp, không bằng một niệm trụ tâm hiếu thuận, dùng chút sắc vật cúng dường bi mẫu, tùy thời cung phụng hầu hạ. So với công đức trước, dù có trăm ngàn vạn phần cũng không sánh được.

NHẤT TÂM, là một lòng hướng về đó. 

MỘT NIỆM TRỤ TÂM HIẾU THUẬN là có tâm hiếu thuận dù chỉ một tíc tắc ngắn ngũi.

DÙ ... CŨNG KHÔNG SÁNH ĐƯỢC, thì biết cái nhiều phải thua cái ít. Tức dùng một chút phẫm vật phụng dưỡng hầu hạ cha mẹ, phước đức nhiều gấp bội so với việc dùng trân châu mã não cúng dường cho các thần thánh ngàn kiếp. Cho nên, muốn cầu phú quí phúc lộc không gì bằng thật lòng phụng dưỡng cha mẹ cho đầy đủ. Phụng dưỡng cha mẹ đầy đủ thì phúc lộc dư giả là chuyện đương nhiên.

Phần sau là nêu lý do vì sao phụng dưỡng cung kính cha mẹ lại được phúc lộc như thế. 

Bi mẫu thế gian nghĩ tưởng đến con không gì sánh được. Từ lúc thọ thai cho đến mười tháng, đi đứng nằm ngồi chịu các khổ não không thể nào nói. Dù được bao thứ dục lạc, y phục, đồ ăn thức uống cũng không sinh thích. Một lòng lo lắng nghĩ tưởng đến con. Khi sắp sinh sản, phải chịu các khổ ngày đêm không dứt. Chẳng may sinh khó, như trăm ngàn dao cắt xẻ. Bằng không khổ não, người thân kẻ thuộc vui vẻ vô cùng. Như kẻ bần cùng được châu như ý. Nghe tiếng của con như nghe âm nhạc. Lòng mẹ là chỗ nghỉ ngơi. Ngực mẹ tuông suối cam lồ. Ân trưởng dưỡng che khắp trời đất. Đức thương yêu bao la khó bì. Chỗ cao ở thế gian không gì hơn núi, ân của bi mẫu vượt cả Tu di. [06] Cái trọng ở thế gian đại địa là đầu, ân của bi mẫu còn hơn cả đó. 

Đây là nói về BI MẪU. Vì những việc nêu ra đó mà con cái khó đền đáp cái ân của bà.

Nếu nam nữ nào bội ân không thuận, khiến cha mẹ sinh niệm ai oán, mẹ phát lời ác con liền theo đó mà đọa, có khi rơi vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Sự mau chóng ở thế gian không gì bằng gió mạnh, biểu hiện của ai oán cũng nhanh như thế. Tất cả Như Lai cho đến tiên nhân có đủ ngũ thông v.v… đều không thể cứu. 

Đây, nói về cái quả mà con cái phải chịu khi khiến cha mẹ mình sinh niệm ai oán. Phật trời không thể cứu. Thật ra, thứ gì ở đời cũng có nhân duyên. Ngày nay con cái không hiếu thuận với mình, một phần là do cái nhân mình đã gây ra trong kiếp trước, không hoàn toàn lỗi ở con cái. Nhưng hiện tại nếu nó không hiếu thuận, nó lại phải chịu cái quả của việc không hiếu thuận đó. Nhân quả trói buộc người ta theo kiểu đau khổ như vậy. Thành đã thật là bi mẫu, thương con, mình nên tỉnh giác vào những lúc thế này. Nếu con lỡ khiến mình buồn, thì biết đó là do cái nhân mình đã gây ra trong quá khứ. Cố gắng tỉnh giác, buông đi những niệm oán hận sầu khổ. Bình tâm được thì nghiệp cũ sẽ qua. Phước đức đủ rồi, dù con bất hiếu bao nhiêu, cũng sẽ trở thành ngoan hiền hiếu mực. Còn cứ để mọi thứ theo dòng nghiệp lực, giận lên là buộc miệng rủa con, thì không phải chỉ có con khổ mà mình cũng khổ lây. Vì một lời ai oán của mình, con liền đọa địa ngục v.v… Đừng nói địa ngục, chỉ cần hiện đời nó nghèo túng khốn khổ hay mắt bệnh hiểm nghèo là mình đã đủ đứt ruột không yên. Thành cần phải cẩn thận với tâm thứckhẩu nghiệp của mình. 

Nhiều khi giận quá, nói cho hả giận, nhưng cái hả giận của mình có khi rút lại không kịp. Thành giận bao nhiêu cũng gắng tỉnh giác, đừng để tâm thức phát khởi. Người gặp họa mình cũng họa theo. 

Có những chuyện, mình tưởng đó là bình thường, nhưng đọc kinh đọc luận rồi mới biết nó không bình thường chút nào. Song kinh luận là thứ phải đủ phước báu, mình mới nhận được. Phật nói “Gặp được kinh luận là khó”. Không đủ phước báu, không gặp được kinh luận mà đọc. Không đủ phước báu, kinh luận có tới tay, cũng không muốn đọc. Thành gặp được kinh luận để đọc, hiểu, và áp dụng vào đời sống thường nhật của mình là một phước báu rất lớn. Thành bố thí pháp là loại bố thícông đức lớn nhất trong các loại bố thí.

Nếu nam nữ nào theo lời mẹ dạy, vâng thuận không trái, chư thiên hộ niệm phúc lạc vô biên. Nam nữ như thế là hạng trời người tôn quí. Bằng không cũng là Bồ tát vì độ chúng sanh, hiện làm nam nữ để khiến mẹ cha được nhiều lợi ích

Thuận theo lời cha mẹ không làm cha mẹ buồn lòng sẽ được phúc lạc vô biên. Nhưng nếu cha mẹ bảo mình giết người thì sao? Theo nhân quả mà nói thì một nhân, đủ duyên sẽ cho ra một quả tương ưng. Phật đã nói có, thì cái quả từ cái nhân nghe lời ấy nhất định sẽ có. Do sự hiếu thuận, cái phúc ấy vẫn có. Nhưng bù lại, cha mẹ giết người và mình giết người lại có cái quả của việc giết người. 

Một lần, có người hỏi Hòa thượng “Cha mẹ con muốn ăn cá mà phải làm khi nó còn sống. Con học đạo, biết việc đó không tốt, nhưng trái ý thì cha mẹ buồn, mang tội bất hiếu. Vậy nếu làm thì có tránh được báo nghiệp sát sanh không?”. Ở đây tôi không thể lập lại nguyên văn lời Hòa thượng đã nói, cũng không nhớ nó nằm trong cuốn băng nào để trích được nguyên văn câu trả lời, chỉ xin ghi lại ý chính mà Hòa thượng đã dạy : Nếu vì chữ hiếu thì làm cho cha mẹ ăn. Nhưng không vì cái hiếu đó, mà nghiệp quả sát sanh có thể tránh được. Có nhân rồi, đủ duyên quả vẫn xảy ra. Cho nên, đây Phật nói “Được phúc vô biên”, thì phải hiểu cái nhân NGHE LỜI đó, phải đi liền với một duyên thiện. Còn không, cái phúc ấy không thể trọn vẹn

Cho nên, cái phước lớn nhất của con ngườicha mẹ con cái đồng biết đạo và sống đạo. Có biết đạo thì mới biết cái gì nên tránh, cái gì nên làm. Có biết đạo thì mới biết khuyên cha mẹ không gieo nhân xấu. Con cái cũng không vì những đòi hỏi không đúng của cha mẹ mà phải khó xử hay lãnh những cái quả bất hạnh. Cha mẹ cũng không vì những mong muốn không đúng của mình, khiến đứa con hiếu thuận phải chịu những nghiệp quả không tốt, bản thân mình cũng bị cái quả không hay, làm đau lòng đứa con hiếu hạnh. Đây là lý do vì sao, Phật khuyên chúng ta nên cúng dường Tam bảo. Là để có cái duyên gặp được chánh pháp, hiểu và sống chân chánh, cuộc sống của mình mới hạnh phúc

Thiện nam tử, thiện nữ nhân nào vì muốn báo ân cha mẹ, trải qua một kiếp, mỗi ngày ba thời cắt thịt của mình dâng hiến cha mẹ cũng không báo nổi cái ân một ngày. Vì sao? Vì khi còn ở trong thai, máu mẹ dưỡng nuôi các căn[07] . Khi ra khỏi thai, sữa mẹ dưỡng nuôi ngàn trăm vạn đấu. Mẹ được vị ngon trước dành cho con. Quần áo đẹp đẽ cũng lại như vậy. Xưa có nữ nhân đi đến nước khác, ôm con vượt sông Căng-già. [08] Chẳng may nước lớn, ôm con lội sông không được. Vì niệm thương con không bỏ, cả hai cùng chết. Do lực thiện căn của từ tâm đó, bà được sinh lên cõi Sắc Cứu Cánh làm Đại Phạm Vương. Từ các nhân duyên trên, bi mẫu có được 10 đức : 

1. Như đại địa : Khi còn trong thai, bụng mẹ là chỗ y tựa cho con, dưỡng con như đất dưỡng cây. 

2. Trải qua các khổ mà vẫn sinh nở.

3. Thường dùng tay mẹ chỉnh lý ngũ căn

4. Tùy thời trưỡng dưỡng con cái : Hạ thì làm mát, lạnh thì mặc ấm, đau thì nuôi cháo v.v… 

5. Khéo nhờ phương tiện mà sinh trí tuệ : Trí tuệ phát sinh từ kinh nghiệm đối với con cái. Biết lúc nào cần nhẹ nhàng, lúc nào cần nghiêm khắc v.v… khiến con được nên người.

6. Dùng anh lạc trang sức cho con : Xưa, ở Ấn Độ, không kể là nam hay nữ, nếu đủ khả năng, đều dùng chuỗi anh lạc trang sức cho mình. Muốn nói mẹ hay dùng mọi thứ đẹp tốt trang sức cho con . 

7. Lòng mẹ là chỗ nghỉ ngơi an ổn : Mẹ là chỗ che chở khi con còn nhỏ, là chỗ dựa tinh thần khi con đã lớn. 

8. Khéo dùng phương tiện dẫn dạy con thơ : Dạy con hiếu nghĩa, đạo đức làm người v.v… 

9. Dùng lời thiện xả bỏ các ác : Khuyên răn nhắc nhở con trẻ tránh xa các ác nghiệp. Thường những đứa trẻ có những suy nghĩ và hành động hàm hồ như người lớn trong rất dễ thương. 6 tuổi, nhưng con bé có những cử chỉlời nói như bà chủ đầy uy quyền khi nói huyện với chị bếp. Trông thật ngộ nghĩnh đáng yêu. Nhưng mỗi lần con trẻ có những hành động như thế, mà mình vui cười tán thưởng, là mình đang để con trẻ phát triển một nhân bất thiện. Cũng như khi thấy con trẻ dí chết một con kiến hay bẻ cánh con gà một cách thích thú, mà mình không ngăn cản, không giải thích, là mình đang giúp cho nghiệp sát ở con trẻ lớn dần. 

10. Giao phó gia nghiệp cho con.

Trên, Phật kể ra 10 đức mà mọi BI MẪU đều có. Được 10 đức này chính là BI MẪU. Gọi là đức vì 10 việc này thuộc thiện nghiệp, đưa đến quả báo lành. Thường thì nhân cách của một đứa con liên quan đến mẹ nhiều hơn cha, vì sự chăm sóc, gần gũi … nên Phật nêu mẹ có 10 đức. Nếu cha là người săn sóc lo lắng cho con, thì ân đức đó dành cho cha. Hoặc không riêng vị nào. 

Này thiện nam tử! Ở thế gian, thứ gì giàu nhất? Thứ gì nghèo nhất? Bi mẫu còn, là giàu nhất. Bi mẫu không còn, là nghèo nhất. Bi mẫu còn, là trời giữa trưa. Bi mẫu mất, là trời tắt nắng. Bi mẫu còn, là đêm trăng sáng. Bi mẫu mất, là đêm không trăng. Cho nên, các ông cần tăng tu hành, hiếu dưỡng mẹ cha. Phúc đức đó không khác người cúng dường Phật. Phải biết báo ân cha mẹ như vậy.

Ca dao thường nói :
Còn cha gót đỏ như son
Đến khi cha chết gót con như bùn

Cha nếu là trụ cột vững chắc của gia đình thì khi ông mất, mới thấy cái son hóa bùn này thế nào. Khi cha mất, tôi 12 tuổi. Ngoài những đêm nằm canh quan tài, ruột quặn lên quặn xuống không có lý do, tôi không thấy có gì để buồn hay đáng khóc. Nhưng cậu em 10 tuổi thì khác, nó hình dung “Bà Tiên! cuộc đời mình từ nay khác rồi”. Đúng là mọi thứ đổi khác rất nhiều dù mẹ cố còng lưng lo đủ cho con, để mọi thứ vẫn y nguyên. Nhưng không thể y nguyên, khi quyền lực và tiền bạc là thứ gắn liền với cha. Cha đi nó cũng theo.

Mẹ còn, dù mình lớn bao nhiêu, giấc ăn miếng ngủ, mẹ cũng lo. Mẹ mất, mọi thứ trở thành trơ trụi. Muốn sắm một cái áo, muốn mua một thỏi son … cũng không còn ai để mua ... 

Cho nên, từ phụ và bi mẫu còn, là phước đức rất lớn của con cái. 

Cúng dường phụng dưỡng mẹ cha, phước ngang bằng với việc cúng dường đức Phật. Cho nên, những ai đối với cha mẹ hiếu nghĩa vuông tròn, sẽ luôn được giàu sang phú quí, phúc lộc vun đầy. Chưa giàu sang phú quí, chẳng qua vì còn bị những nghiệp quả trong quá khứ chi phối. Nghiệp quả đó trả xong, nhất định sẽ giàu sang phú quí.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 44)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Dịch giả Phạn-Hán: ngài Bát Lạt Mật Đế (?-?), dịch giả Hán Việt: Hòa thượng Thích Duy Lực (1923-2000)) là kinh thuộc hệ thượng thừa,
(Xem: 106)
Đức Phật dạy chúng ta nhìn bất cứ điều gì xuất hiện trước mắt cũng phải nhận biết rằng: sự vật không trường tồn.
(Xem: 342)
Người theo Đạo Phật thường tin rằng, có vô lượng Bồ tát thị hiện trong nhiều hình tướng và chủng tộc, trong nhiều không gian và thời gian khác nhau
(Xem: 553)
Thiền Phật giáo là chìa khóa giúp chúng tamột đời sống khỏe mạnh, là một phương thuốc trị liệu giúp chữa lành thân và tâm
(Xem: 727)
Nói một cách đơn giản: mọi khía cạnh của thiền đều tốt.
(Xem: 730)
Hãy để hơi thở trôi chảy nhẹ nhàng. Hãy để tâm trí được thoải mái. Đừng ép nén hơi thở hoặc cố gắng đưa tâm vào trạng thái định.
(Xem: 767)
Có ba phương pháp thiền chính giúp đưa chúng ta trở về với tinh túy của tâm và thân một cách cân bằng, giúp tâm thoát khỏi...
(Xem: 889)
Phật dạy chúng ta tu thiền định cốt để buông xả các niệm tạp loạn, tâm lặng lẽ thanh tịnh.
(Xem: 861)
Cơ sở của thiền định Phật giáo là sự quan sát chính xác, từng khoảnh khắc về bất cứ điều gì phát sinh trong kinh nghiệm của chúng ta.
(Xem: 992)
Khi thực hành thiền, chúng ta đã được trao các phương pháp để đối trị các triền cái (tham dục, sân hận, hôn trầm thụy miên, trạo cử hối quáhoài nghi).
(Xem: 778)
Để dập tắt ngọn lửa mà chúng ta đang phải chịu đựng, cần phải có dòng nước mát của thiền tập.
(Xem: 1107)
Theo giáo thuyết Thiền tông, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và...
(Xem: 1317)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận
(Xem: 1058)
Ở đâu có pháp, ở đó có nhân. Thế giới chúng ta trải nghiệm đến từ tâm, là nhân của nó. Nếu tâm tốt, thế giới sẽ tốt đẹp. Nếu tâm xấu, thế giới sẽ xấu.
(Xem: 1338)
Học giả Sarah Shaw giải thích tại sao chánh niệm phải kết hợp với đạo đức, từ bitrí tuệ - trong Phật giáo và trong cuộc sống.
(Xem: 1194)
Đây là bài cuối cùng trong số ba bài viết về chủ đề được thảo luận trong Hội nghị chuyên đề về “Cảm thọ” (Thọ, Vedanā)...
(Xem: 1143)
Để đánh giá cao thái độ khác biệt trong tư tưởng Phật giáo sơ thời đối với những cảm thọ dễ chịu, bản tường thuật về hành trình giác ngộ của chính Đức Phật đưa ra những chỉ dẫn hữu ích.
(Xem: 1365)
Chánh niệm cho phép chúng ta nhìn thấy ba khía cạnh này của thực tại: vô thường, không toại nguyện (khổ) và chẳng-phải-ta (vô ngã).
(Xem: 1653)
Đức Phật đã dạy các vị Tỳ kheo thực hành thiền như sau, “ Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác.
(Xem: 1459)
Tại sao chúng ta thiền? Khi được hỏi, những người tu thiền sẽ đưa ra nhiều lý do khác nhau cho việc tu tập thiền.
(Xem: 1573)
Hành thiền không dễ. Nó đòi hỏi thời giannghị lực. Nó cũng đòi hỏi sự kiên định, kỷ luật và đam mê.
(Xem: 2463)
Ngồi Thiền, ngồi tới lúc trong không có thân tâm, ngoài không có thế giới, xa gần đều trống rỗng thì mới đạt đến chỗ không có ngã-tướng,
(Xem: 1994)
Khi chúng ta thực hành chánh niệm mỗi ngày, chúng ta mở ra những điều tuyệt vời của đời sống, điều ấy cho phép chữa lành thế giớinuôi dưỡng chính chúng ta
(Xem: 3096)
Giả dụ như, có vị nói: Chánh niệmtỉnh thức trong giây phút hiện tại! Nếu lập ngôn như vậy, thì chánh niệm đồng nghĩa với tỉnh thức còn gì?
(Xem: 2284)
Phần lớn hành giả tưởng mình hành Thiền Vipassanā nhưng trên thực tế họ đang hành thiền Định
(Xem: 1796)
Thiền Minh Sát hay còn gọi là thiền Minh Sát Tuệ, tiếng Pāli là Vipassanā, có nghĩa là “Nhìn thấy mọi thứ như nó đang thực sự là”.
(Xem: 2650)
Lúc mới bước chân vào việc hành thiền, bạn chưa thấy rõ các chuyển biến của thân và tâm.
(Xem: 2239)
Trước nhất muốn xác định cách tu tập của dòng thiền Trúc Lâm, thì chúng ta ngược dòng lịch sử để dẫn chứng.
(Xem: 2609)
Thực hành thiền nó giúp đánh thức niềm tin của chúng ta, khôn ngoan và từ bi vốn cần và chúng ta sẵn có.
(Xem: 12334)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3015)
Hành thiền không dễ. Nó đòi hỏi thời giannghị lực. Nó cũng đòi hỏi sự kiên định, kỷ luật và đam mê.
(Xem: 6762)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4363)
Bài này dịch từ bài viết năm 2005 nhan đề “Two Styles of Insight Meditation” của Đại sư Bodhi, người đã dịch hầu hết Kinh Tạng Pali sang tiếng Anh.
(Xem: 2620)
Tôi muốn nhấn mạnh rằng Thiền, không phải là việc chúng ta chỉ làm khi rảnh rỗi, trái lại Thiền tối cần cho cuộc sống hạnh phúc, an lành của chúng ta.
(Xem: 3279)
Hôm nay đề tài mà tôi muốn nói với các bạn là tỉnh giác hay hiểu biết sáng suốt trong khi ăn.
(Xem: 2590)
Sách thuộc loại song ngữ Việt- Anh gồm 95 bài thi kệ thiền, dịch Việt bởi Thiền sư Thích Thanh Từ, Giáo sư Lê Mạnh Thát và nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn. Tác giả dịch sang Anh ngữ với lời ghi chú nơi mỗi bài. Sách đã được phát hành hạn chế tại Việt Namrộng rãi trên mạng Amazon.
(Xem: 3116)
Nếu như đi bộ là một môn thể dục không tốn tiền và lúc nào cũng có thể tập được thì thiền là một pháp tu không mất thời gian và lúc nào cũng có thể thực tập được.
(Xem: 2907)
Thiền Định nuôi dưỡng năng lượng để phòng ngừa dịch bệnh, giúp cho bạn có một đời sống Thân khỏe, Tâm an, Trí sáng.
(Xem: 3574)
Chánh niệm đã trở nên phổ biến trên thế giới trong những năm gần đây, nhưng ở Nhật Bản nó đã ăn sâu vào văn hoá hàng thế kỷ.
(Xem: 3770)
Không đoạn tận sáu pháp, này các Tỷ-kheo, không có thể chứng ngộ các pháp thượng nhân tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh.
(Xem: 3238)
Thiền Minh Sát có thể được xem như tiến trình phát triển một số tâm sở tích cực cho đến khi chúng đủ sức mạnh để hoàn toàn liên tục chế ngự tâm.
(Xem: 3080)
Dĩ nhiên chẳng ai muốn đau khổmọi người đều cố gắng tìm kiếm hạnh phúc.
(Xem: 4354)
Đây là bài thuyết pháp đầu tiên của Bồ Đề Đạt Ma tại Trung Hoa. Ngài thuyết giảng ngay tại triều đình của Lương Võ Đế có sự hiện diện của nhà vua và
(Xem: 6068)
Pháp thiền này không cửa để vào, nhưng vẫn lấy tam học (giới, định, huệ) để lìa tam độc (tham, sân, si).
(Xem: 5400)
Quá trình hóa giải sự hoang mang bối rối dựa trên việc làm cho tâm chúng ta ổn định và thêm sức mạnh cho tâm. Chúng ta thực hiện việc này bằng cách thực hành thiền.
(Xem: 5641)
Thực hành thiền đánh thức niềm tin của chúng ta rằng trí tuệtừ bichúng ta cần đã có sẵn trong chúng ta rồi.
(Xem: 3164)
Khi còn ở tuổi thiếu niên, tôi là kẻ luôn băn khoăn thao thức. Cuộc đời hình như chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi.
(Xem: 5272)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 2356)
Chánh niệm là một năng khiếu giúp chúng ta tạo một không gian giữa những cảm xúc / cảm thọ và sự phản hồi của mình.
(Xem: 2342)
Ngày mới đến với đạo, tôi không có trí để đọc học hay tham cứu các loại kinh luận bình thường, vì vậy tôi chỉ biết nương vào pháp Biết vọng không theo....
(Xem: 2654)
Trong khi thực hành thiền quán, hành giả thường hay vướng vào năm chướng ngại, mà thuật ngữ Phật học gọi là ngũ triền cái.
(Xem: 2479)
Sử dụng tư tưởng như một đề mục chánh niệm là một điều quan trọng. Nếu chúng ta không ý thức được tư tưởng của mình khi chúng vừa mới khởi lên
(Xem: 3354)
Stress : có nghĩa là sự dồn nén, cưỡng ép trên cả hai mặt sinh lýtâm lý, một trạng thái căn thẳng thần kinh, gây ra lo âu, sợ sệt và sau cùng là sự suy nhược cơ thể.
(Xem: 5079)
“Chánh niệm là tỉnh giác, tu tập bằng cách đặc biệt duy trì chú tâm: mục đích tập trung vào hiện tiền và không phán đoán.”
(Xem: 4917)
Thực tập thiền địnhchánh niệm không những giúp ích cho sức khoẻ chung trong cuộc sống cá nhân mà còn giúp cho cả bác sĩ và bệnh nhân trong việc chữa trị bệnh được hiệu quả hơn.
(Xem: 3988)
Khi còn là một chú tiểu mới mười sáu tuổi, Thầy tôi đã dạy tôi cách đóng cửa với sự chú tâm một trăm phần trăm.
(Xem: 5005)
Từ trước đến nay, trên sách báo, tạp chí, trong nhiều băng giảng, cho đến chư vị thiền sư, nhà nghiên cứu đó đây, ai cũng nói đến chánh niệm, và lại nói nhiều cách khác nhau.
(Xem: 4753)
Sự khác biệt là nhờ thiền mà bạn học hỏi về bản chất của tâm mình, thay vì thế giới giác quan của dục vọngtham ái.
(Xem: 4543)
Những năm gần đây, danh từ “chánh niệm” được xuất hiện tràn ngập khắp sách vở, báo chí, học thuyết, các khóa học...
(Xem: 3938)
Thiền là đường lối để thực hiện sự buông bỏ. Khi hành thiền, ta buông bỏ thế giới phức tạp bên ngoài, để có thể vươn đến thế giới an nhiên bên trong.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant