Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

08. Ân phụ mẫu

05 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10281)
08. Ân phụ mẫu

HAI CHỮ MẸ CHA
Chân Hiền Tâm
Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 2007

ÂN PHỤ MẪU 

Này Thiện nam tử! Ân phụ mẫu là: Cha có từ ân, mẹ có bi ân. Bi ân của mẹ, nếu ở thế gian một kiếp thuyết cũng không hết. Ta nay vì ông chỉ nói ít phần. Giả như có người vì cầu phúc đức lấy chiên đàn trầm hương lập các phòng xá, dùng muôn báu trang nghiêm v.v… cung kính cúng dường cho 100 đại Bà-la-môn tu tịnh hạnh, 100 đại thần tiênngũ thông, 100 thiện hữu v.v… nhất tâm cúng dường như thế mãn đến ngàn kiếp, không bằng một niệm trụ tâm hiếu thuận, dùng chút sắc vật cúng dường bi mẫu, tùy thời cung phụng hầu hạ. So với công đức trước, dù có trăm ngàn vạn phần cũng không sánh được.

NHẤT TÂM, là một lòng hướng về đó. 

MỘT NIỆM TRỤ TÂM HIẾU THUẬN là có tâm hiếu thuận dù chỉ một tíc tắc ngắn ngũi.

DÙ ... CŨNG KHÔNG SÁNH ĐƯỢC, thì biết cái nhiều phải thua cái ít. Tức dùng một chút phẫm vật phụng dưỡng hầu hạ cha mẹ, phước đức nhiều gấp bội so với việc dùng trân châu mã não cúng dường cho các thần thánh ngàn kiếp. Cho nên, muốn cầu phú quí phúc lộc không gì bằng thật lòng phụng dưỡng cha mẹ cho đầy đủ. Phụng dưỡng cha mẹ đầy đủ thì phúc lộc dư giả là chuyện đương nhiên.

Phần sau là nêu lý do vì sao phụng dưỡng cung kính cha mẹ lại được phúc lộc như thế. 

Bi mẫu thế gian nghĩ tưởng đến con không gì sánh được. Từ lúc thọ thai cho đến mười tháng, đi đứng nằm ngồi chịu các khổ não không thể nào nói. Dù được bao thứ dục lạc, y phục, đồ ăn thức uống cũng không sinh thích. Một lòng lo lắng nghĩ tưởng đến con. Khi sắp sinh sản, phải chịu các khổ ngày đêm không dứt. Chẳng may sinh khó, như trăm ngàn dao cắt xẻ. Bằng không khổ não, người thân kẻ thuộc vui vẻ vô cùng. Như kẻ bần cùng được châu như ý. Nghe tiếng của con như nghe âm nhạc. Lòng mẹ là chỗ nghỉ ngơi. Ngực mẹ tuông suối cam lồ. Ân trưởng dưỡng che khắp trời đất. Đức thương yêu bao la khó bì. Chỗ cao ở thế gian không gì hơn núi, ân của bi mẫu vượt cả Tu di. [06] Cái trọng ở thế gian đại địa là đầu, ân của bi mẫu còn hơn cả đó. 

Đây là nói về BI MẪU. Vì những việc nêu ra đó mà con cái khó đền đáp cái ân của bà.

Nếu nam nữ nào bội ân không thuận, khiến cha mẹ sinh niệm ai oán, mẹ phát lời ác con liền theo đó mà đọa, có khi rơi vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Sự mau chóng ở thế gian không gì bằng gió mạnh, biểu hiện của ai oán cũng nhanh như thế. Tất cả Như Lai cho đến tiên nhân có đủ ngũ thông v.v… đều không thể cứu. 

Đây, nói về cái quả mà con cái phải chịu khi khiến cha mẹ mình sinh niệm ai oán. Phật trời không thể cứu. Thật ra, thứ gì ở đời cũng có nhân duyên. Ngày nay con cái không hiếu thuận với mình, một phần là do cái nhân mình đã gây ra trong kiếp trước, không hoàn toàn lỗi ở con cái. Nhưng hiện tại nếu nó không hiếu thuận, nó lại phải chịu cái quả của việc không hiếu thuận đó. Nhân quả trói buộc người ta theo kiểu đau khổ như vậy. Thành đã thật là bi mẫu, thương con, mình nên tỉnh giác vào những lúc thế này. Nếu con lỡ khiến mình buồn, thì biết đó là do cái nhân mình đã gây ra trong quá khứ. Cố gắng tỉnh giác, buông đi những niệm oán hận sầu khổ. Bình tâm được thì nghiệp cũ sẽ qua. Phước đức đủ rồi, dù con bất hiếu bao nhiêu, cũng sẽ trở thành ngoan hiền hiếu mực. Còn cứ để mọi thứ theo dòng nghiệp lực, giận lên là buộc miệng rủa con, thì không phải chỉ có con khổ mà mình cũng khổ lây. Vì một lời ai oán của mình, con liền đọa địa ngục v.v… Đừng nói địa ngục, chỉ cần hiện đời nó nghèo túng khốn khổ hay mắt bệnh hiểm nghèo là mình đã đủ đứt ruột không yên. Thành cần phải cẩn thận với tâm thứckhẩu nghiệp của mình. 

Nhiều khi giận quá, nói cho hả giận, nhưng cái hả giận của mình có khi rút lại không kịp. Thành giận bao nhiêu cũng gắng tỉnh giác, đừng để tâm thức phát khởi. Người gặp họa mình cũng họa theo. 

Có những chuyện, mình tưởng đó là bình thường, nhưng đọc kinh đọc luận rồi mới biết nó không bình thường chút nào. Song kinh luận là thứ phải đủ phước báu, mình mới nhận được. Phật nói “Gặp được kinh luận là khó”. Không đủ phước báu, không gặp được kinh luận mà đọc. Không đủ phước báu, kinh luận có tới tay, cũng không muốn đọc. Thành gặp được kinh luận để đọc, hiểu, và áp dụng vào đời sống thường nhật của mình là một phước báu rất lớn. Thành bố thí pháp là loại bố thícông đức lớn nhất trong các loại bố thí.

Nếu nam nữ nào theo lời mẹ dạy, vâng thuận không trái, chư thiên hộ niệm phúc lạc vô biên. Nam nữ như thế là hạng trời người tôn quí. Bằng không cũng là Bồ tát vì độ chúng sanh, hiện làm nam nữ để khiến mẹ cha được nhiều lợi ích

Thuận theo lời cha mẹ không làm cha mẹ buồn lòng sẽ được phúc lạc vô biên. Nhưng nếu cha mẹ bảo mình giết người thì sao? Theo nhân quả mà nói thì một nhân, đủ duyên sẽ cho ra một quả tương ưng. Phật đã nói có, thì cái quả từ cái nhân nghe lời ấy nhất định sẽ có. Do sự hiếu thuận, cái phúc ấy vẫn có. Nhưng bù lại, cha mẹ giết người và mình giết người lại có cái quả của việc giết người. 

Một lần, có người hỏi Hòa thượng “Cha mẹ con muốn ăn cá mà phải làm khi nó còn sống. Con học đạo, biết việc đó không tốt, nhưng trái ý thì cha mẹ buồn, mang tội bất hiếu. Vậy nếu làm thì có tránh được báo nghiệp sát sanh không?”. Ở đây tôi không thể lập lại nguyên văn lời Hòa thượng đã nói, cũng không nhớ nó nằm trong cuốn băng nào để trích được nguyên văn câu trả lời, chỉ xin ghi lại ý chính mà Hòa thượng đã dạy : Nếu vì chữ hiếu thì làm cho cha mẹ ăn. Nhưng không vì cái hiếu đó, mà nghiệp quả sát sanh có thể tránh được. Có nhân rồi, đủ duyên quả vẫn xảy ra. Cho nên, đây Phật nói “Được phúc vô biên”, thì phải hiểu cái nhân NGHE LỜI đó, phải đi liền với một duyên thiện. Còn không, cái phúc ấy không thể trọn vẹn

Cho nên, cái phước lớn nhất của con ngườicha mẹ con cái đồng biết đạo và sống đạo. Có biết đạo thì mới biết cái gì nên tránh, cái gì nên làm. Có biết đạo thì mới biết khuyên cha mẹ không gieo nhân xấu. Con cái cũng không vì những đòi hỏi không đúng của cha mẹ mà phải khó xử hay lãnh những cái quả bất hạnh. Cha mẹ cũng không vì những mong muốn không đúng của mình, khiến đứa con hiếu thuận phải chịu những nghiệp quả không tốt, bản thân mình cũng bị cái quả không hay, làm đau lòng đứa con hiếu hạnh. Đây là lý do vì sao, Phật khuyên chúng ta nên cúng dường Tam bảo. Là để có cái duyên gặp được chánh pháp, hiểu và sống chân chánh, cuộc sống của mình mới hạnh phúc

Thiện nam tử, thiện nữ nhân nào vì muốn báo ân cha mẹ, trải qua một kiếp, mỗi ngày ba thời cắt thịt của mình dâng hiến cha mẹ cũng không báo nổi cái ân một ngày. Vì sao? Vì khi còn ở trong thai, máu mẹ dưỡng nuôi các căn[07] . Khi ra khỏi thai, sữa mẹ dưỡng nuôi ngàn trăm vạn đấu. Mẹ được vị ngon trước dành cho con. Quần áo đẹp đẽ cũng lại như vậy. Xưa có nữ nhân đi đến nước khác, ôm con vượt sông Căng-già. [08] Chẳng may nước lớn, ôm con lội sông không được. Vì niệm thương con không bỏ, cả hai cùng chết. Do lực thiện căn của từ tâm đó, bà được sinh lên cõi Sắc Cứu Cánh làm Đại Phạm Vương. Từ các nhân duyên trên, bi mẫu có được 10 đức : 

1. Như đại địa : Khi còn trong thai, bụng mẹ là chỗ y tựa cho con, dưỡng con như đất dưỡng cây. 

2. Trải qua các khổ mà vẫn sinh nở.

3. Thường dùng tay mẹ chỉnh lý ngũ căn

4. Tùy thời trưỡng dưỡng con cái : Hạ thì làm mát, lạnh thì mặc ấm, đau thì nuôi cháo v.v… 

5. Khéo nhờ phương tiện mà sinh trí tuệ : Trí tuệ phát sinh từ kinh nghiệm đối với con cái. Biết lúc nào cần nhẹ nhàng, lúc nào cần nghiêm khắc v.v… khiến con được nên người.

6. Dùng anh lạc trang sức cho con : Xưa, ở Ấn Độ, không kể là nam hay nữ, nếu đủ khả năng, đều dùng chuỗi anh lạc trang sức cho mình. Muốn nói mẹ hay dùng mọi thứ đẹp tốt trang sức cho con . 

7. Lòng mẹ là chỗ nghỉ ngơi an ổn : Mẹ là chỗ che chở khi con còn nhỏ, là chỗ dựa tinh thần khi con đã lớn. 

8. Khéo dùng phương tiện dẫn dạy con thơ : Dạy con hiếu nghĩa, đạo đức làm người v.v… 

9. Dùng lời thiện xả bỏ các ác : Khuyên răn nhắc nhở con trẻ tránh xa các ác nghiệp. Thường những đứa trẻ có những suy nghĩ và hành động hàm hồ như người lớn trong rất dễ thương. 6 tuổi, nhưng con bé có những cử chỉlời nói như bà chủ đầy uy quyền khi nói huyện với chị bếp. Trông thật ngộ nghĩnh đáng yêu. Nhưng mỗi lần con trẻ có những hành động như thế, mà mình vui cười tán thưởng, là mình đang để con trẻ phát triển một nhân bất thiện. Cũng như khi thấy con trẻ dí chết một con kiến hay bẻ cánh con gà một cách thích thú, mà mình không ngăn cản, không giải thích, là mình đang giúp cho nghiệp sát ở con trẻ lớn dần. 

10. Giao phó gia nghiệp cho con.

Trên, Phật kể ra 10 đức mà mọi BI MẪU đều có. Được 10 đức này chính là BI MẪU. Gọi là đức vì 10 việc này thuộc thiện nghiệp, đưa đến quả báo lành. Thường thì nhân cách của một đứa con liên quan đến mẹ nhiều hơn cha, vì sự chăm sóc, gần gũi … nên Phật nêu mẹ có 10 đức. Nếu cha là người săn sóc lo lắng cho con, thì ân đức đó dành cho cha. Hoặc không riêng vị nào. 

Này thiện nam tử! Ở thế gian, thứ gì giàu nhất? Thứ gì nghèo nhất? Bi mẫu còn, là giàu nhất. Bi mẫu không còn, là nghèo nhất. Bi mẫu còn, là trời giữa trưa. Bi mẫu mất, là trời tắt nắng. Bi mẫu còn, là đêm trăng sáng. Bi mẫu mất, là đêm không trăng. Cho nên, các ông cần tăng tu hành, hiếu dưỡng mẹ cha. Phúc đức đó không khác người cúng dường Phật. Phải biết báo ân cha mẹ như vậy.

Ca dao thường nói :
Còn cha gót đỏ như son
Đến khi cha chết gót con như bùn

Cha nếu là trụ cột vững chắc của gia đình thì khi ông mất, mới thấy cái son hóa bùn này thế nào. Khi cha mất, tôi 12 tuổi. Ngoài những đêm nằm canh quan tài, ruột quặn lên quặn xuống không có lý do, tôi không thấy có gì để buồn hay đáng khóc. Nhưng cậu em 10 tuổi thì khác, nó hình dung “Bà Tiên! cuộc đời mình từ nay khác rồi”. Đúng là mọi thứ đổi khác rất nhiều dù mẹ cố còng lưng lo đủ cho con, để mọi thứ vẫn y nguyên. Nhưng không thể y nguyên, khi quyền lực và tiền bạc là thứ gắn liền với cha. Cha đi nó cũng theo.

Mẹ còn, dù mình lớn bao nhiêu, giấc ăn miếng ngủ, mẹ cũng lo. Mẹ mất, mọi thứ trở thành trơ trụi. Muốn sắm một cái áo, muốn mua một thỏi son … cũng không còn ai để mua ... 

Cho nên, từ phụ và bi mẫu còn, là phước đức rất lớn của con cái. 

Cúng dường phụng dưỡng mẹ cha, phước ngang bằng với việc cúng dường đức Phật. Cho nên, những ai đối với cha mẹ hiếu nghĩa vuông tròn, sẽ luôn được giàu sang phú quí, phúc lộc vun đầy. Chưa giàu sang phú quí, chẳng qua vì còn bị những nghiệp quả trong quá khứ chi phối. Nghiệp quả đó trả xong, nhất định sẽ giàu sang phú quí.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18415)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19890)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19581)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33472)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34587)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54586)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37796)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21191)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17945)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63743)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17437)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49736)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16904)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16415)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14513)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22526)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57059)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13886)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29053)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33369)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38431)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31278)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13942)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14655)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14319)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12673)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14861)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19230)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13851)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12701)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30445)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11866)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30718)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29438)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30652)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31265)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37152)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32306)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23724)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12248)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14243)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14113)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34014)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27771)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12478)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28683)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29406)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12449)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29272)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28064)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25719)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26079)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22308)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33184)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39624)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22482)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34518)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27390)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28431)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant