Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tuyển tập 18

27 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 14026)
Tuyển tập 18


TUYỂN TẬP THƠ MẶC GIANG

Tuyển tập 10 bài - thơ Mặc Giang - Số 18

(Từ bài số 171 đến số 180)

thnhattan@yahoo.com.au

 

Héo Hon, Còn Đó Nụ Cười ! 171

Nắng đổ ngày về 172

Tôi Người Cạo Mủ Cao Su 173

Tôi là Người Phu Hầm Mỏ 174

Ta đứng đó, nhìn ta cùng hư huyễn ! 175

Tôi đi Mở Cửa Thềm Hoang 176

Tôi đi Mở Cửa Ngày Mai 177

Tôi gởi bài thơ Thứ Nhất 178

Tôi gởi bài thơ Thứ Hai 179

Tôi gởi bài thơ Thứ Ba 180

 

Héo Hon Còn Đó, Nụ Cười !

 Tháng 9 - 2004

 

 Ai đem nước đổ về sông

Để cho con nước bềnh bồng trôi đi

 Ai đem lệ đổ bờ mi

Để cho đôi mắt nhiều khi hoen mờ

 Ai đem mộng phủ lên mơ

Để cho ước vọng vật vờ trời mây

 Ai đem gió để rung cây

Để cho lá rụng bay bay tháng ngày

 Ai đem đắng đổ vườn cay

Để cho nhân thế tỏ bày thiệt hơn

 Ai đem ải vắt lên non

Để cho rêu phủ đá mòn phong sương

 Ai gieo cát bụi bên đường

Để cho mờ mịt tang thương nỗi này

 Ai đem lăn lộn con quay

Để cho điên đảo đọa đày trần gian

 Ai đem trăng gởi trên ngàn

Để cho đêm tối bịt ngang lối về

 Ai làm loang lở bờ đê

Để cho non nước lỗi thề nước non

 Một năm xây xát mỏi mòn

Trăm năm thử hỏi có còn gì không

 Núi kia đứng đó nhìn sông

Sông kia hun hút, đá chồng non cao

 Đêm đêm tỉnh mộng rì rào

Ba sinh chìm nổi máu đào còn tươi

 Hương quê còn đó ! Nụ cười

Tình quê còn đó ! gởi người Việt Nam

 Nỗi lòng đeo đẳng, không cam

Đan tay vun vén, tay làm, tay xây

 Niềm đông rúng động niềm tây

Đá vàng, cơ cảm nỗi nầy tình ta.

 

Nắng Đổ Ngày Về !

 Tháng 9 - 2004

 

Kén mãi giăng tơ

Tơ tằm rút mãi

Nước kéo lên nguồn

Nước chảy về sông

Mây trắng giăng ngang

Mây ửng màu hồng

Máu chảy về tim

Máu hồng chưa cạn

Cầu gập ghềnh, ta bắt thêm miếng ván

Nẻo chông chênh, ta lót gạch bên đường

Leo ải, trèo non, dù có vạn phong sương

Ta vẫn còn nhau, trên quê hương ta đó

Giông tố nhiều rồi, ta hãy ngăn đầu gió !

Nước xoáy nhiều rồi, ta đắp lại bờ đê

Ta với ta, nào ai lỗi ước thề

Đường muôn nẻo, nên ta đi ngang dọc

Gió lộng Trường Sơn

Ngồi trên đỉnh dốc

Bóng cả cây cao

Ta thấy cả quê hương

Giẫm lối mòn xưa

Ta thấy vạn con đường

Những con đường quê hương

Nối dài lịch sử

Ta kể nhau nghe, quê hương tình tự

Ta kể nhau nghe, non nước ngàn năm

Ta nhìn nhau trong ánh mắt xa xăm

Bông lúa chín, đưa ta về đồng nội

Trời nghiêng bóng tối

Nắng đổ ngày về

Ta bước đi dọc theo lối bờ đê

Nghe sóng vỗ rì rào sông bến cũ.

 

Tôi, người cạo mủ cao su !

Tháng 9 - 2004

 

 Tôi người cạo mủ cao su

Màn đêm còn khép, mịt mù tôi đi

 Rừng cao su, chẳng nói gì

Lần mò từng gốc, tôi đi lần mò

 Một tay lấy mủng, trút vò

Một tay tôi xắn, sao cho sắc lằn

 Vỏ cây vừa đứt chưa quăng

Mủ cây trắng đục đã lăn thành dòng

 Một cây như thế là xong

Tôi đi cây khác giáp vòng mới thôi

 Đèn dầu leo lét rọi soi

Đến khi trời sáng thức rồi rừng khuya

 Trời lên đứng bóng tôi về

Một ngày cứ thế, kéo lê cả đời

 Cao su từng giọt đầy vơi

Nhựa tuôn tuôn mãi không lời tiếc than

 Gia công, chế biến, muôn ngàn

Muôn hình muôn vẻ bằng hàng cao su

 Tinh, thô, xấu, tốt, thanh, u

Đủ công đủ dụng trưng thu cho đời

 Cao su cạo mủ, người ơi

Nhà tôi nho nhỏ bên đồi hoang sơ

 Học hành ba chữ i tờ

Lớn lên cạo mủ đến giờ chưa lơi

 Nghề nào cũng sống trong đời

Quen nghề cạo mủ thì thôi cứ làm

 Cao su mùi mủ lên chàm

Nhà tôi ẩm thấp khói lam ven rừng

 Tháng ngày cơm gạo đầy lưng

Của tiền rỗng đáy, cầm chừng dần qua

 Cao su dính mủ trầm kha

Rừng su dính nhựa sắc pha phong trần

 Ai đi lên ải Hải Vân

Tôi vào rừng lá lựa lần trần ai

 Cao su mùi mủ chưa phai

Đời tôi cạo mủ, còn dài cao su !!!

 

Tôi Là Người Phu Hầm Mỏ

 Tháng 9 - 2004

 

Tôi là người phu hầm mỏ

Giữa núi rừng vắng lạnh

Giữa sa mạc hoang vu

Sơn lam chướng khí tỏa khói mịt mù

Thân chống đỡ giữa đất trời vũ trụ

Dã thú, ách tai, phong trần vá đủ

Đoàn dân phu cùng một toán phiêu hành

Mỗi bước đi là một bước mới toanh

Như trái đất mới tựu hình xuất hiện

Tôi là người phu hầm mỏ

Mỏ sắt, mỏ chì, mỏ than, chưa luyện

Mỏ vàng, mỏ bạc, mỏ thiết, mỏ đồng

Mỏ ngọc, mỏ ngà, mỏ thạch, mỏ nhôm

Mỗi một mỏ, ê mình, rởn gai, kinh dị

Xuyên thủng đường hầm, vang vang huyền bí

Đá tảng, hòn chồng, đập vỡ choang choang

Ám khí, oan khiên, độc địa, kinh hoàng

Tôi vẫn sống và thành công, mở đường khai phá

Mỗi chuyến đi là một vùng mới lạ

Ngày tháng dài hun hút những hoang vu

Hầm mỏ ơi, tiếng nói của dân phu

Trôi lạc lõng giữa mênh mông man dại

Tôi là người phu hầm mỏ

Đất phủ đầy người

Mồ hôi nhuễ nhoại

Bụi tấp tràn thân

Đôi mắt hoen mờ

Người phu một đoàn sống giữa hoang mơ

Như những vết nhỏ nhoi chấm vành đại địa

Ngày mới đến, còn thoạt nhìn ngắm nghía

Mỗi chiều về, như hình người dị hợm man khai

Nếu được quay phim, chiếu ảnh, lên đài

Chẳng khác những diễn viên chuyện dài huyền sử

Không, đó là thời đại hôm nay đó chứ

Là những người phu đào mỏ, đào hầm

Ngày cũng như đêm, lầm lũi âm thầm

Để phá vỡ những kho tàng mỏ quặng

Ngậm nuốt bồ hòn để nghe trái đắng

Đập giũa phong trần để nếm hy sinh

Trải tang thương mới xây đắp phồn vinh

Lăn gai góc mới kết thành nhung lụa.

 

Ta đứng đó, nhìn ta cùng hư huyễn !

 Tháng 9 - 2004

 

Kéo hoàng hôn cho bóng chiều xuống thấp

Đẩy trăng lên cho trăng vắt lưng trời

Xô sóng về cho sóng vỗ trùng khơi

Xới đồng ruộng cho thơm mùi lúa mạ

Gió xào xạc nghe rừng cây khua lá

Đêm dần khuya nghe tiếng dế nỉ non

Ta cùng ta để nói chuyện mất còn

Từng dòng sống đi qua, cơ hồ mộng mị

Đến là điểm tới, không ngừng không nghỉ

Đi là điểm về, không tiếng không vang

Ta ngồi đây, có phải một gạch ngang

Nối một móc giữa muôn bề như chứng tích

Ta nói ngươi nghe đêm dài cô tịch

Đêm từng đêm, thử hỏi, đó là những đêm nào

Ngày từng ngày, thử hỏi, một ngày nữa ra sao

Ngươi và ta, dùng chỗ nào để tựa ???

Dùng thời gian, bóng hư vô, mở cửa

Dùng không gian, một điểm sống, tượng hình

Cát bụi đi về không hữu lung linh

Đứng giữa mênh mông, đâu là khởi điểm

Nhưng ta có mặt, nên ta vào chuyện

Câu chuyện dài, hiện hữu xưa nay

Ngươi và ta, không một chút mảy may

Nhưng vạn hữu tồn sinh, nên muôn đời ta có mãi

Giữa hai bước không thời, vô ngại

Giữa hai cửa vào ra, không màng

Giữa hai nẻo đi về, không mang

Ta đứng đó, nhìn ta cùng hư huyễn !!!

 

 

Tôi đi mở cửa thềm hoang !

 Tháng 9 - 2004

 

 Tôi đi mở cửa thềm hoang

Tìm trong dĩ vãng có còn gì không

 Nơi này lạnh ngắt như đồng

Nơi kia loang lổ chất chồng phong sương

 Nơi này hoang vắng thê lương

Nơi kia rêu phủ vương vương bụi mờ

 Lặng thinh, một cõi hư vô

Ngậm câm, một cõi trơ trơ vô tình

 Không nghe một tiếng âm linh

Tâm quang chưa động cựa mình hồn mê

 Sao nghe “một cõi đi về”

Mênh mông, trống rỗng, cõi về là đâu

 Hay về một cõi nhiệm mầu

Không thinh không sắc không màu không vang

 Tôi leo lên thử trên ngàn

Lại càng huyễn mộng lại càng huyền mơ

 Ngàn sao lấp lánh xa mờ

Ngàn mây chìm nổi lững lờ bay bay

 Tôi về nghĩa địa loay hoay

Thử nghe âm phủ giải bày ra sao

 Mồ ma lổm ngổm thấp cao

Không lay động tĩnh không xao xuyến

 Ơ hờ tôi bước ra đi

Vô tình động cửa huyền vi, giật mình

 Trần gian là cõi sắc hình

Cõi không vô sắc vọng tình mà chi

 Thử vang một tiếng lên đi

Không vang tiếng nữa vô vi đã về

 Thì ra một cõi đi về

Khi đi mới biết cõi về là đâu

Huyền vi, huyễn thể, nhiệm mầu.

 

Tôi đi mở cửa Ngày Mai

 Tháng 9 - 2004

 

 Tôi đi mở cửa ngày mai

Thử tìm về cõi vị lai là gì

 Trống không, chẳng có cái chi

Hình chưa hiện thể, li ti chưa thành

 Mờ mờ cát bụi vờn quanh

Lan lan khói tỏa tử sanh vẽ hình

 Bóng kia, nghiêng bóng soi hình

Hình kia nghiêng bóng, vô tình bóng tan

 Đường đi không dấu bên đàng

Nẻo về không vết mơ màng mà chi

 Hồn chưa mở cửa huyền vi

Chưa vương cát bụi, cớ chi tựu hình

 Mơ hồ vẽ bóng tánh linh

Hữu hình tìm cõi vô hình sao xong

 Kìa xem nước chảy dòng sông

Bèo trôi bến mộng, bọt bồng bến mê

 Một mai con nước trở về

Thử xem bèo bọt còn mê mộng gì

 Sao nghe tử biệt sinh ly

Sinh đi vô trụ, tử đi vô thường

 Một mai cát bụi còn vương

Tùy duyên đối tác, mở đường hiện sinh

 Tôi đang mang một bóng hình

Chưa về cửa tử, cõi sinh sao về

 Đừng đem mộng phủ lên mê

Đừng đem biển cả vỗ về ba sinh

 Lo chi một cuộc tử sinh

Ba sinh còn có, tử sinh nghĩa gì

 Tử, là chuẩn bị để đi

Sinh, là cửa tử huyền vi tạo thành

 Cho hay một khối tinh anh

Đem treo lơ lửng trên cành tầm không

 Tôi đi, về với mênh mông !!!

 

Tôi Gởi Bài Thơ Thứ Nhất

 Tháng 10 - 2004

 

Thơ tôi gởi đến ruộng đồng xanh

Đồng thấp ruộng cao lúa trổ cành

Thoang thoảng hương thơm mùi lúa mạ

Cày bừa gieo hạt giống tinh anh

 

Bài thơ tôi gởi đến miền quê

Xóm dưới làng trên lối ngõ về

Hai buổi mai chiều reo gió nắng

Mái tranh bếp lửa vẹn câu thề

 

Tôi gởi bài thơ đến thị thành

Đường dài soi bóng những hùng anh

Phố phường đan kín bao tên tuổi 

Đá dẫu mòn nhưng sử vẫn xanh

 

Tôi gởi bài thơ đến phố phường

Phố phường đô hội của quê hương

Đi về ai cũng mang nhung nhớ

Một thoáng xa xôi của phố phường

 

Bài thơ tôi gởi đến quê hương

Tình tự lan xa khắp nẻo đường

Thôn dã lam chiều khuya phố vắng

Cho hồn vương vấn những yêu thương

 

Tôi gởi bài thơ đến nước non

Non thương nhớ nước nước thương non

Nước non gói trọn hồn non nước

Son sắt một lòng dạ sắt son.

 

Tôi Gởi Bài Thơ Thứ Hai

  Tháng 10 - 2004

 

Bài thơ tôi gởi những em thơ

Tuổi ngọc em ơi đẹp ước mơ

Em hãy vui chơi thời tuổi ngọc

Lớn lên tìm lại chẳng bao giờ

 

Tôi gởi cho em bé học trò

Bài thơ thành nét để em đồ

Xanh vàng đỏ trắng loang màu mực

Thành bức tranh thơ em chẳng cho

 

Tôi gởi bài thơ đến học sinh

Như trang giấy trắng của riêng mình

Một mai khôn lớn xa đèn sách

Tìm tuổi hoa niên tuyệt bóng hình

 

Bài thơ tôi gởi giới sinh viên

Viễn mộng bay xa thật diễm huyền 

Đến những chân trời cao ước vọng

Cùng thơ mở lối bước thanh thiên

 

Tôi gởi bài thơ thanh thiếu niên

Cái thời tuổi trẻ đẹp như tiên

Đắp xây sức sống nhồi sinh lực

Mang gói hành trang bước mọi miền

 

Tôi gởi bài thơ đến mái trường

Thầy, Cô vẽ viết phấn bay hương

Phất phơ tà áo vương thơ lại

Để rớt vài câu xuống vệ đường.

 

Tôi Gởi Bài Thơ Thứ Ba

 Tháng 10 - 2004

 

Thơ tôi gởi đến chị hàng rong

Chị múc liền tay khách đẹp lòng

Kiếm chác đôi đồng lưng cuộn đáy

Sợi thơ khô cạn chị còn đong

 

Thơ tôi gởi đến giới doanh thương

Sạp, gụ gần xa khắp nẻo đường

To nhỏ hàng hàng đem chất đống

Người người ngắm nghía thấy thương thương

 

Bài thơ tôi gởi giới công nhân

Gian khổ trôi đi gánh nợ lần

Cất tiếng ngâm vang rơi nặng nhọc

Hồn thơ trang trải bước phong trần

 

Bài thơ tôi gởi giới nhân viên

Nhất nghệ tinh chuyên lương hậu tiền

Bá nghệ đong đời trôi lận đận

Như thơ một chữ viết huyên thuyên

 

Bài thơ tôi gởi giới trung niên

Đã nửa đời qua nửa dốc triền

Trái sống thấm mình thương trái chín

Nửa sau sao bớt những ưu phiền

 

Tôi gởi bài thơ giới lão thành

Đã mòn ba vạn sáu trôi nhanh

Thời gian sót lại soi mê tỉnh

Kẻo trễ, rong rêu cỏ ngậm vành !

01. Tiếng lòng nức nở quê hương 01

02. Thầm lặng 02

03. Việt Nam, quê hương còn đó 03

04. Quê hương còn đó, đợi chờ 04

05. Từ đó xa mờ 05

06. Tiếng kêu cứu quê hương 06

07. Thương Thầy An Thiên 07

08. Chùa tôi 08

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18417)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19893)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19582)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33472)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34593)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54587)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37800)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21192)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17947)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63748)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17440)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49747)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16906)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16416)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14515)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22526)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57070)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13890)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29054)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33371)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38434)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31279)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13942)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14655)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14320)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12673)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14862)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19232)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13853)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12703)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30449)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11869)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30723)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29441)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30656)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31269)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37153)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32310)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23727)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12250)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14244)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14115)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34017)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27772)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12479)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28687)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29415)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12454)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29281)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28066)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25722)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26082)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22312)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33187)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39628)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22487)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34524)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27390)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28431)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant