Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Người Mẹ, người Cha, người Thầy, người Bạn: Lòng Nhân Từ Vô Song của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel Cao Quý

08 Tháng Hai 201300:00(Xem: 12888)
Người Mẹ, người Cha, người Thầy, người Bạn: Lòng Nhân Từ Vô Song của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel Cao Quý

Bất cứ ai may mắn có dịp viếng thăm Tu Viện Kopan trong 40 năm qua, có thể đã nhìn thấy được nụ cười từ hòa của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel, người đã phụng sự cho Tu Viện Kopan trong các vai trò khác nhau trong gần bốn thập niên qua. Ngài đã được Văn Phòng của Đức Dalai Lama thụ phong chức trụ trì tu viện năm 2001, mặc dù Ngài đã giữ chức vụ này một cách không chính thức từ khi Lama Yeshe viên tịch vào năm 1984. Vào tháng Bảy năm 2011, Lama Lhundrup không tiếp tục vai trò này nữa, vì bệnh ung thư ở giai đoạn tiến triển của Ngài.

Trong số báo này, tạp chí Mandala mong được nêu lên công lao to tát của Ngài trong việc bảo tồn, quảng bá Phật pháphoàn thành ước nguyện của Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche. Hoạt động không hề mỏi mệt và lòng nhân từ vô hạn của Lama Lhundrup dành cho hàng ngàn đệ tửTu Viện Kopan, cũng như tại Singapore, Mã Lai và Hồng Kông, nổi bật như một nguồn cảm hứng đối với tất cả chúng ta.

Khi chúng tôi xuất bản tạp chí này vào cuối tháng Tám, Lama Lhundrup tiếp tục biểu lộ tình trạng sức khỏe ngày càng suy yếu và bệnh tình của Ngài khá nặng. Chúng tôi sẽ đăng bài cập nhật cho câu chuyện này trên mandalamagazine.org, khi chúng tôi có thêm thông tin. Quý vị cũng có thể tìm các thông tin cập nhật chính thức của FPMT, kể cả tin tức cập nhật về tình trạng sức khỏe của Lama Lhundrup ở fpmt.org.

lamalhundrup-01

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel, Tu Viện Kopan, Nepal, tháng Ba 2011. Ảnh của Jo Hathaway.

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel mà thế giới biết qua như Lama Lhundrup, sinh ra ở Tây Tạng năm 1941, trong một gia đình nông dân nghèo khó. Ngài vào Tu Viện Sera vào thuở bé, và rời Tây Tạng để đến Ấn Độ năm 1959, vì Trung Quốc đã xâm chiếm Tây Tạng vào lúc đó. Ở Buxa Duar, tại trại tỵ nạn phía Đông Nam Ấn Độ, nơi có nhiều tăng sĩ được chính phủ Ấn Độ thuyên chuyển đến, Ngài đã gặp Lama Yeshe cùng Lama Zopa Rinpoche, và tu học với các vị thầy cao cả như Geshe Rabten và v.v…

Năm 1972, từ Tu Viện Kopan ở Nepal, Lama Yeshe gởi một bức thư cho Lama Lhundrup, trong khi thầy Lhundrup đang ở Mysore, Ấn Độ, giúp việc trùng tu lại Tu Viện Sera. Bức thư nói rằng, “Tôi có một số tăng sinh, ông có thể dạy cho họ không? Nếu được thì xin ông hãy đến.”

Lama Lhundrup hồi âm cho Lama Yeshe rằng thầy không biết thầy có đủ kiến thức để giảng dạy hay không, nhưng thầy rất muốn gặp Lama Yeshe và có thể sẽ viếng thăm Tu Viện Kopan ba tháng. Hòa thượng trụ trì của Tu Viện Sera Je dặn dò Lama Lhundrup trước chuyến đi rằng, “Ông chỉ được phép đi ba tháng thôi, nên khi tới nơi, ông nói với thầy ấy [Lama Yeshe] rằng ông thể ở lâu hơn, rồi ông hãy trở về lập tức sau ba tháng nhé.” 

lamalhundrup-02

Lama Lhundrup tại Kopan, năm 1973. Hình ảnh của Lama Yeshe Wisdom Archive.

Khi Lama Lhundrup đến Kopan, Lama Yeshe đã nói với Ngài rằng, “Ông hãy làm thầy của các tăng sinh của tôi.” Vào lúc ấy, Tu Viện Kopan, được thành lập năm 1971, đang chăm nom cho khoảng 30 vị tăng trẻ đến từ Trung Tâm Mount Everest của Lama Zopa Rinpoche, và rất cần một người trông nom việc tu học của các vị tăng trẻ này. Lama Lhundrup chấp nhận lời yêu cầu của Lama Yeshe, và hết lòng đảm trách công việc này cho đến tháng Bảy 2011, khi trách nhiệm trụ trì Tu Viện Kopan đã được Geshe Thubten Chonyi đảm nhiệm.

Lama Lhundrup nhận văn bằng Geshe từ Tu Viện Sera năm 1987. Ngài đã đến Tu Viện Sera Je để tham dự cuộc thi tranh luận cuối cùng, và buổi tranh luận của Ngài đã được xem là một trong những cuộc tranh luận hào hứng và lỗi lạc nhất trong lịch sử cận đại của Sera.

Từ 1972, gần 800 tăng sinh đã tu họcTu Viện Kopan, kể cả 370 vị hiện đang sống ở đó. Kopan House ở Tu Viện Sera, thuộc về Tsawa Kamsen, hiện đang có 80 tăng sinh từ Kopan đang tu học để trở thành Geshe. Các tăng sĩ Kopan cũng tu học ở Trường Cao Đẳng Mật điển Gyume (Gyume Tantric College) và Đại Học Trung Ương Nghiên Cứu Tây Tạng ở Sarnath (Central University of Tibetan Studies). Có sáu vị Geshe ở các trung tâm FPMT xuất thân từ Tu Viện Kopan. Năm 1986, Ni Viện Kopan, tức Khachoe Ghakyil, đã được thành lập và từ đó, khoảng 450 ni cô đã tu học ở đó, kể cả 350 vị hiện đang sống tại đó.

lamalhundrup-03

Karuna Cayton, Pam Cayton, Nick Ribush, Thubten Tsering và Lama Lhundrup tại văn phòng Kopan vào khoảng năm 1981. Ảnh của Karuna Cayton.

Karuna Cayton, một thành viên đương nhiệm của ban điều hành FPMT, đã làm việc sát cánh với Lama Lhundrup ở Kopan từ năm 1975 đến năm 1988, nói rằng, “Nhờ các vị tăng sĩ và các lớp giáo pháp ở Kopan mà Tu Viện này đã mang lại một ảnh hưởng kỳ diệu cho hàng ngàn cuộc đời trên thế giới. Tôi thật sự tin rằng nếu không có Kopan thì các trung tâm Phật giáo FPMT khác sẽ không thể hiện hữu. Và nếu không có các trung tâm FPMT, thì vô số đệ tử sẽ chẳng bao giờ gặp được Lama Zopa Rinpoche, Lama Yeshe hay đường tu Phật pháp. Nếu không có Lama Lhundrup, có lẽ sẽ không có Tu Viện Kopan.”

Bên cạnh hàng trăm tăng ni mà Lama Lhundrup chăm sóc hơn 40 năm qua, Ngài còn có nhiều đệ tử ở Singapore, Mã Lai và Hồng Kông mà Ngài thường vân du sang các nước ấy để giảng dạy họ. Trong nhiều năm qua, mấy ngàn Phật tử đã tham gia các khóa thiền thường niên ở Kopan và sự ảnh hưởng cũng như lợi lạc mà Lama Lhundrup đã đem lại cho các Phật tử này thật không thể nào ước tính được, qua việc ban giới quy y, giảng dạy và tham vấn của Ngài, rồi nhờ đó mà các Phật tử này lại tạo ra ảnh hưởng cho những người khác nữa.

lamalhundrup-04

Tu Viện Kopan năm 1972. Ảnh của Lama Yeshe Wisdom Archive.

“Dĩ nhiên cũng có những nhân vật quan trọng khác trong thời kỳ sơ khai của Kopan, như Lama Pasang, Gelek Gyatso, Tenpa Choden và một nhóm thiện nguyện viên đông đảo,” cô Karuna nói, khi cô phản ảnh về sự phát triển của Kopan. “Nhưng Lama Lhudrup là người luôn có mặt ở đó. Ngài là chất liệu nối kết viễn ảnh của Lama Yeshe, ngay cả trước và sau khi Lama Yeshe viên tịch vào năm 1984. Lama Lhundrup cảm thấytrách nhiệm đối với mỗi một ước nguyện mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche cưu mang đối với Kopan. Khi Lama Lhundrup cảm thấy mình đã làm cho Lama Yeshe thất vọng, gương mặt Ngài sẽ lộ vẻ như một người mẹ đã không thể bảo bọc cho con mình bằng sự an toàn và nuôi nấng. Tuy nhiên, sau khi bị Lama Yeshe khiển trách, trong khi tôi đang buồn bực, thường là sửng sốt và nói chẳng nên lời, thì Lama Lhundrup sẽ quay qua nhìn tôi và khẽ cười khúc khích. Thầy quá thấu hiểu tình thương của Lama Yeshe. Thầy biết Lama Yeshe đã cố gắng hết sức mình. Thầy biết chúng tôi sẽ làm khá hơn và sẽ hoàn thành mọi ước vọng của Lama Yeshe. Lama Lhundrup hiểu các phẩm chất phi thường của Lama Yeshe và không bao giờ bị lầm lạc trước những sự biểu lộ mà Lama Yeshe tỏ ra để hướng dẫn chúng sanh.”

lamalhundrup-05

Lama Lhundrup tại lễ cầu nguyện trường thọ cho Lama Zopa Rinpoche ở Kopan, 2009. Ảnh của Wolf Price: Wanderwolf Media (wanderwolf.com).

Một trong những thành tựu trọng đại nhất của Lama Lhundrup ở Kopan là việc thành lập chương trình tu học triết lý Phật giáo liên hệ đến khóa tốt nghiệp học vị Geshe. Chương trình này đã được chính thức công nhận năm 2010 và đã sản sinh ra khoảng 15 vị rabjampa, cũng như nhiều vị nữa trong tương lai. Với công sức miệt mài bao nhiêu năm qua của Lama Lhundrup, Tu Viện Kopan, cùng với ba Tu Viện Gelug lớn (Sera, Gendun, Drepung) và Tashi Lhunpo, là những học viện cấp phát văn bằng Geshe cho các tăng sĩ.

Lama Lhundrup cũng sáng lập chương trình tu học triết lý Phật giáo cho chư ni của Ni Viện Khachoe Ghakyil. Nhờ vào công sức của Ngài, trong một vài năm nữa, Ni Viện sẽ có những chư ni đầu tiên nhận văn bằng Geshema. Lama Lhundrup còn đảm nhận trách nhiệm trông nom Ni Viện Rachen và Tu Viện Mu ở Tsum, và Tu Viện Shedup Ling tại Solu Khumbu.

lamalhundrup-05

Lama Lhundrup ở Kopan, 2003. Ảnh của Tu Viện Kopan.

Lama Lhundrup đã hỗ trợ cho việc thành lập Đại Lễ Cầu Nguyện (Great Monlam) của phái Gelug ở Nepal, mà Tu Viện Kopan vẫn tổ chức hàng năm. Ngài còn giúp sáng lập ra Diễn Đàn Giáo Dục Gelug của Nepal, để tất cả các tu viện phái Gelug ở Nepal có thể tham dự cuộc tranh luận Phật pháp trong dịp Jayang Guncho, buổi tranh luận thường niên giữa các tu viện. Năm 2010, các cuộc Khảo Thí đầu tiện của phái Gelug đã được tổ chức cho các tu viện này. Các cuộc thi là một bước quan trọng trong việc tiếp nối chương trình nghiên cứu triết lý Phật giáo tại Tu Viện Sera Je.

“Lama Lhundrup luôn luôn nhẫn nại và quan tâm đến mỗi một đệ tử hay vị khách thập phương viếng thăm Kopan.” Geshe Thubten Sherab, vị sư trưởng tại chức bốn năm ở trường Phật giáo thuộc về Tu Viện Kopan, đã nói với tạp chí Mandala như thế. “Ngài đã làm việc ngày đêm, trông nom và lắng nghe những lời than phiền về các vấn đềchư tăng ni, các đệ tử khắp nơi trên thế giới và tất cả khách thập phương đến xin Ngài lời khuyên và hướng dẫn. Ngài đáp lời bằng sự quan tâm, lo lắnglòng bi mẫn lớn lao, nhưng chẳng hề than vãn hay có chút nào kiêu hãnh. Ngài luôn cố gắng hòa giải vấn đề một cách êm thắm, không làm ai buồn phiền hay tổn thương.”

Lobsang Drolkar, một đệ tửTrung Tâm Phật giáo Phật A Di Đà (Amitabha Buddhist Centre) ở Singapore đã phát biểu trong năm 2010 rằng, “Lama Lhundrup đã biến Kopan thành một nơi mà nhiều đệ tử có được cảm giác đã thật sự trở về nhà. Bao nhiêu năm qua, tôi đã nhiều lần chứng kiến Lama Lhundrup biểu lộ cung cách kỳ diệu của Ngài đối với khách thập phương và các đệ tử của Ngài như nhau, trong cách Ngài cười sảng khoái, trong tư cách của người cha khi Ngài nắm tay ai đó khi Ngài lắng nghe họ nói (ngay cả khi họ nói những lời vô nghĩa!).”

Geshe Chokley, một vị thầy ở Kopan đã từng làm trưởng giáo thọ ở Tsum, kể rằng từ cả 20 năm trước, “Lama Lhundrup thật sự chăm sóc tất cả các chú tiểu như một người mẹ, Ngài chùi mũi và mặc đồ cho các chú. Ngài đã dành cả đời mình cho chư tăng ni, và khi mọi việc được tốt đẹp đối với họ thì Ngài cảm thấy mãn nguyện, vui lòng.”

Vào tháng Bảy năm nay, Sư Cô Tenzin Jangsem, giám đốc của Ni Viện Khachoe Gakyil nói rằng, “Lòng nhân từ của Lama Lhundrup thật không thể nào đo lường hay so sánh được. Dù Ngài rất bận rộn, Ngài vẫn đến Ni Viện để giảng dạy cho chúng tôi và khuyên nhủ các tiểu ni cô, dạy họ về mười nghiệp bất thiện, rằng họ nên đối xử tốt với người khác ra sao, làm cách nào để có một tấm lòng tốt v.v… Những lần khác, Ngài dạy các ni cô lớn hơn cách tụng kinh. Chư ni đến từ các vùng xa xôi hẻo lánh như Tây Tạng và các vùng khác của Hy Mã Lạp Sơn. Bất cứ những gì chư ni có được, ví dụ như Ni Viện được cả thế giới biết đến, đều nhờ vào lòng tốt và sự gia hộ của Lama Zopa Rinpoche, cùng công lao khó nhọc và sự hướng dẫn của Lama Lhundrup.”

Lama Zopa Rinpoche và tăng đoàn Kopan bắt đầu lo ngại về sức khỏe của Lama Lhundrup vào cuối năm 2010. Sau vài lần thỉnh cầu, Lama Lhundrup đã chấp nhận lời khuyên của Tây y tại Singapore và đến đó vào đầu tháng Giêng để nhập viện. Ở đó, Ngài được định bệnh ung thư bao tử di căn vào giữa tháng Giêng 2011.

lamalhundrup-07

Khensur Rinpoche Lama Lhundrup cùng với hai thị giả của ngài, Ven. Thubten Kunkhen, Ven. Lobsang Thardoe và Jo Hathaway, y tá chuyên khoa giảm đau của ngài tại Kopan, 24 tháng Tám, 2011. Ảnh của Ven. Thubten Kunsang.

Jo Hathaway là một y tá chuyên khoa giảm đau từ Tân Tây Lan, một đệ tử của Lama Lhundrup, người đã sống ở Kopan từ tháng Giêng 2011, đã chăm sóc Ngài. Vào tháng Bảy, Jo chia sẻ với tạp chí Mandala rằng:

- Ngay từ ngày đầu, khi Lama Lhundrup trở về Kopan từ bệnh viện ở Singapore, thái độ của Ngài đối với bệnh tình của mình rất khác biệt với những “bệnh nhân” khác mà tôi đã chăm sóc. Khi chúng tôi bắt đầu bàn về cách thức mới để chuyền chất dinh dưỡng vào cơ thể Ngài, Lama Lhundrup ngồi đó, cầm đầu ống dẫn chất dinh dưỡng gắn vào bụng Ngài, lắc qua lắc lại, rồi cười và kêu lên, “Coi nè, đây là cái miệng mới của tôi!”

- Dù hoàn cảnh ra sao, Pháp luôn luôn là điều đầu tiên Lama Lhundrup nghĩ đến,” Jo nói. “Nhu cầu vật chất của thân thể không quan trọng đối với Ngài như với đa số người thường, và Ngài không có vẻ quan tâm đến bất cứ sự thay đổi nào trong cơ thể của Ngài. Điều này khiến cho việc theo dõi tình trạng sức khỏe của Ngài trở nên rắc rối, vì không giống những người khác mang bệnh trầm kha, Ngài không hề than vãn về điều gì cả. Không bao giờ.”

- Đối với Lama Lhundrup, ước muốn làm người khác vui lúc nào cũng đi trước phúc lợi của Ngài. Khi chúng tôi lo ngại rằng những thay đổi về phương diện sinh lý trong cơ thể Ngài có thể cho thấy là Ngài đang đau đớn, tôi thử hỏi thăm Ngài. Cuộc đối thoại bắt đầu khá tốt đẹp, ‘Thầy có thấy đau không?’, ‘Có.’ ‘Thầy có thể cho con biết Thầy đau chỗ nào không?’ ‘Ở chỗ này.’ Thế là tôi lọt vào tình trạng của một ‘y tá lo âu’, khi tôi hỏi Ngài một câu tiếp theo. Thay vì trả lời câu hỏi của tôi, Lama Lhundrup nói với nụ cười thoải mái, ‘Con không thích sự đau đớn phải không?’. ‘Dạ không, dĩ nhiên là không, thưa Khen Rinpoche.’, Đó là câu trả lời đầy bối rối của tôi (Đâu có ai thích đau, đúng không?) Thế là Lama Lhundrup nói một cách giản dị, ‘Vậy thì ta không thấy đau.’ Rồi Ngài quay trở lại quyển kinh và tiếp tục buổi cầu nguyện buổi tối. Thế là cuộc đối thoại chấm dứtlý do lo lắng của tôi cũng chấm dứt ở đây.

“Một lần khác, khi chúng tôi lại đề cập đến cái đau, tôi hỏi Ngài muốn giảm đau bằng cách nào, Jo kể tiếp. “Ngài trả lời là, ‘Tốt hơn hết ta nên chịu nỗi đau này vì lợi ích của tất cả chúng sanh.’ Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu và bệnh tật của họ, để họ không phải đau khổ nữa. Đến nay, tôi ngờ rằng vì lòng từ bi của Ngài và để chúng ta bớt lo lắng, Ngài mới đồng ý uống một lượng thuốc giảm đau nhỏ, vừa đủ để giúp Ngài tập trung tinh thần lúc công phutụng niệm, nhưng không cần thiết hay cố ý chấm dứt cái đau hoàn toàn. Quan điểm của Ngài về bệnh tật chắc chắnvô cùng khác thường!”

Theo lời Karuna Cayton, Lama Zopa Rinpoche đã khuyên những ai buồn rầu vì bệnh tình của Lama Lhundrup là, “Con không cần lo cho Lama Lhundrup, vì thầy ấy đã hoàn thành ước nguyện của Lama Yeshe trong suốt cả đời thầy.” Khi phản ảnh về điều này trong đầu tháng Tám, Karuna nói, “Tôi nghĩ phẩm chất này của Lama Lhundrup chỉ là một trong những phẩm hạnh khiến cho Ngài là một người vô cùng xuất sắc. Lama Thubten Yeshe là một vị thầy có tầm nhìn xa, một người có khuynh hướng nổi loạn, một vị thầy của thời kỳ phục hưng. Trong xã hội Tây Tạng truyền thống, đặc biệtxã hội của tăng già, người ta rất nghi ngờ sự đổi mới. Tuy nhiên, Lama Yeshe đã nhìn thấy một viễn ảnh mới cho người Tây Tạng lưu vongPhật tử ở vùng Hy Mã Lạp Sơn. Mặc dù các ý tưởng của Ngài có vẻ cấp tiến, theo tôi thấy thì Lama Lhundrup chưa bao giờ do dự trong việc nỗ lực hoàn tất ước nguyện của Lama Yeshe. Lama Lhundrup biết rõ cá tính phi thường của Lama Yeshe và vì thế, Ngài thường thực hiện các ý kiến của Lama Yeshe dựa vào niềm tin ở vị thầy này mà thôi.”

Năm 1995, Lama Lhundrup đã phát biểu với tạp chí Mandala rằng, “Nhiệm vụ chính của tôi là bảo đảm cho chư tăng có một nền giáo dục tốt và thái độ đúng đắn, thế là chúng ta đã hoàn thành ước nguyện của Lama Yeshe, để cuối cùng, trong 15 năm nữa, sau khi tất cả những cậu bé này hoàn tất các lớp học, ít nhất họ sẽ biết đọc, biết viết Tạng ngữ, cũng như biết được triết lý căn bản, để họ có thể trở thành thông dịch viên, giảng sư hay bất cứ công việc nào khác. Tôi muốn họ có từ tâm và phẩm hạnh tốt; đúng vậy, đây là mục tiêu của tôi… Đây là tu viện chính của Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche, nhưng hai Ngài không có thời gian để trông nom nó, nên tôi cần phải làm việc này cho hai Ngài, và tôi rất hoan hỷ.”

lamalhundrup-08

Lama Lhundup và Osel trong Kopan, tháng 7 năm 2011. Ảnh của Jo Hathaway.

Khi tình trạng sức khỏe của Lama Lhundrup ngày càng trở nên suy yếu, Karuna Cayton và Osel Hita đã quyết định đến thăm Ngài một thời gian ngắn, để tỏ lòng kính trọng một vị thầy và người bạn già của họ. Họ đến Kopan vào ngày 4 tháng Bảy mà không báo trước. Chỉ có Lama Zopa Rinpoche và thầy Roger Kunsang biết trước về việc này mà thôi. Trong sáu ngày ở Kopan, Karuna và Osel đã thăm viếng Lama Lhundrup hầu như mỗi ngày. Đây cũng là lần đầu tiên Osel trở lại Kopan sau 13 năm, nên đây cũng là chuyến về thăm nhà của Osel. Với sự yêu cầu của Lama Zopa Rinpoche, Osel đã có những buổi nói chuyện thân tình ở Ni Viện Khachoe Ghakyil và tại chánh điện của Tu Viện Kopan.

Karuna giải thích với tạp chí Mandala rằng, “Tôi nói về Lama Lhundrup như một người bạn. Tôi không có ý ngã mạn hay phạm thượng. Thầy là một kalyanamitra của tôi, người bạn tâm linh của tôi. Nếu bạn biết Lama Lhundrup, tôi tin rằng bạn sẽ hiểu ý tôi và chắc chắn bạn cũng sẽ xem thầy như một người bạn.”

Một Phật tử Tây phương sống ở Kopan 20 năm qua đã nhận xét về Lama Lhundrup như sau, “Nói tóm lại là Ngài đã biến Kopan thành một tu viện mà ta thấy ngày hôm nay. Ngài đã xây dựng các thứ từng bước một bằng sự kiên nhẫnquan tâm, thương mến, lắng nghe ý kiến của nhiều người và tuân theo chỉ giáo của các bổn sư (guru) của Ngài. Những nỗ lực này đã mang lại một Tịnh Độ Kopan.”

Cuộc đời, thành tựu và sự dấn thân của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup Rigsel rất đáng được tán dương. Ngay lúc còn là một nhà sư trẻ, Ngài đã dấn thân phụng sự Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche, rồi dành thêm 40 năm sau đó để hoàn thành ước nguyện của hai Thầy. Ngài đã đóng vai trò người mẹ, người cha, người thầy và người bạn đối với vô số chúng sanh. Như Lama Zopa Rinpoche đã khen tặng nhiều năm trước, Lama Lhundrup “là một vị lama mà bạn có thể tin cậy hoàn toàn.” Xin bạn hãy cùng toàn thể cộng đồng FPMT tùy hỷ với sự dấn thân to tát của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup trong việc bảo tồn, quảng bá Phật pháptrông nom Tu Viện Kopan, trái tim của FPMT (Hội Bảo Tồn Truyền Thống Đại thừa).

Tháng Bảy năm nay, văn phòng của Kopan đã gởi đến Mandala lời yêu cầu sau đây: Hôm nay Lama Zopa Rinpoche, vị Guru Có Lòng Từ Tâm Nhất của chúng tôi, đã khuyên tất cả những ai có duyên lành với Khensur Rinpoche (đã nhận sự tham vấn, truyền khẩu, giáo huấn hay quy y với Ngài) có thể hành trì pháp tu Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát càng nhiều càng tốt, để tạo lợi lạc cho Khensur Rinpoche.

Các đệ tử khắp nơi trên thế giớiTu Viện Kopan đã làm rất nhiều puja (lễ cúng dường) và cầu nguyện cho Lama Lhundrup. Quý vị có thể tìm thấy bài công phu Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát, các tin tức cập nhật về tình trạng sức khỏe của Khensur Rinpoche Lama Lhundrup, cũng như các bài viết về Ngài của Geshe Thubten Sherab, Karuna Cayton, Ani Tenzin Jangsum, Jo Hathaway và các tác giả khác ở www.mandalamagazine.org.

Lozang Ngodrub chuyển dịch Việt ngữ

Bản Anh ngữ đã được đăng tải trong Tạp Chí Mandala, tháng 10-12, 2011.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18515)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21252)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22017)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16776)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 13307)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22703)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 18904)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18368)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21517)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 19934)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 13970)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 14942)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 17136)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15803)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 13046)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 22522)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 19257)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37443)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 17778)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14484)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19564)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14530)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 15829)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 29698)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 17682)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 18448)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 19824)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 19036)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18471)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20600)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
(Xem: 19334)
Sau bồ đề tâm, người ta bước vào phần chính yếu của thực hành, được gọi là triệu thỉnh, triệu thỉnh gần hơn, thành tựuthành tựu vĩ đại, ví dụ, quán tưởng, trì tụng và định.
(Xem: 18441)
Khi đã thọ nhận giáo lý, chúng ta cần tự mình quán chiếu về nó. Chúng ta cần đạt được vài sự xác quyết và tin tưởng về giá trị và những phương pháp của giáo lý.
(Xem: 29697)
Phật Pháp dạy chúng ta các phương tiện để tạo ra an lạc cho bản thân. Để đạt được một niềm an lạc nào đó, ta không phải lao lực, mà cần phải làm việc bằng tâm thức của mình.
(Xem: 21530)
Trong Mật thừa, chính nhờ đạo sư mà bạn tiến tới giác ngộ. Vị thầy gốc tối thắng giới thiệu bạn đến trạng thái thiên bẩm của trí tuệ, chỉ nó ra cho bạn.
(Xem: 20732)
Thấu hiểu luật nhân quả sẽ giúp chúng ta luôn đi đúng đường, luôn tỉnh giác về chính mình, những hành động mà mình đang tạo tác và con đường mình đang đi.
(Xem: 26227)
“Milarepa, Con Người Siêu Việt” là bản dịch tiếng Việt do chúng tôi thực hiện vào năm 1970 và được nhà xuất bản Nguồn Sáng ấn hành tại Sài gòn vào năm 1971
(Xem: 51953)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 21708)
Đời sau dài hơn đời này, vì thế hãy bảo vệ kho tàng đức hạnh của con để cung cấp cho tương lai. Khi con chết, con sẽ bỏ lại tất cả; chớ tham luyến bất kỳ điều gì.
(Xem: 34874)
Tùy thuộc vào thiền quán đều đặn trên tri kiến được thâu nhận xuyên qua an lập rằng không TÔI cũng không là của tôi hiện hữutự tính, các sự tượng trưng, tên là, ngã...
(Xem: 17167)
Một vị thầy đầy đủ năng lực được gọi là “bậc trì giữ Kim Cương sở hữu ba giới nguyện.” Ngài sở hữu những phẩm tánh hoàn hảo được trao cho bên ngoài với các biệt giới giải thoát...
(Xem: 17913)
Tôn giáophương tiện, là phương pháp hoặc công cụ có thể hỗ trợ mọi người hòa nhập vào đời sống tâm linh. Điều đó nên như vậy nhưng đôi khi nó lại không được thực hiện.
(Xem: 19502)
Trước khi kiến lập những rào cản thể chất, ta cần phải vượt qua những rào cản tinh thần. Bạn phải cảm thấy thực sự an lạc, dù đang ở bất kỳ đâu. Bạn phải biết khoan dungchấp nhận.
(Xem: 17407)
Khi chúng ta áp dụng các giáo lý của đức Phật, chúng ta tiến hành theo ba bước hay giai đoạn. Đầu tiên, chúng ta nghiên cứu giáo lý, học chúng một cách kĩ lưỡng.
(Xem: 30671)
Phật giác ngộ nhờ con đường Bồ Tát, con đường mà ngài đã trải qua từ đầu đến cuối. Ngài nói rằng với ngài điểm khởi đầu của con đường bồ đề tâm là trong cõi địa ngục.
(Xem: 19115)
Giáo lý Phật Đà được truyền đến Tây Tạng dưới sự bảo trợ của một dòng truyền thừa cổ xưa các vị vua.
(Xem: 19442)
Guru Rinpoche tuyên bố với Jomo Shedron rằng việc trì tụng lời cầu nguyện này cũng ngang bằng với việc trì tụng toàn thể Bài Trì tụng Hồng danh Đức Văn Thù.
(Xem: 19669)
Mục đích của việc cúng dường mạn-đà-la là xua tan sự bám chấp vào cái tôi và bất cứ kiểu thái độ quan niệm nào mà bám vào thứ gì đó như là của ai đó.
(Xem: 19317)
Đạo sư đại diện cho sự khuyến khích của sự thật; ngài đại diện cho sự kết tinh của lực gia trì, từ bitrí tuệ của chư Phật và mọi Đạo sư.
(Xem: 58629)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 19662)
Ý Nghĩa Của Om Mani Padme Hum - Lạt ma Zopa Rinpoche – Thanh Liên Việt dịch
(Xem: 19034)
Bởi con đã có được thân người quý giá này, với những tự dothuận duyên Xin hãy cho con thành tựu các giáo lý quan trọng nhất!
(Xem: 15026)
Nguyện cầu tất cả các nguy hại và bao động ở mảnh đất tuyết này Nhanh chóng được an dịu và xua tan hoàn toàn Nguyện cầu Bồ đề tâm cao quý tối thượng...
(Xem: 32920)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 17355)
Xuyên qua không gianthời gian Chúa tể quyền lực của khẩu và hiện thân của trí tuệ, Đức Văn Thù tôn quý Xin hãy ngự mãi trên bông sen trong tâm con...
(Xem: 19015)
Đầu tiên cần nhớ lại định nghĩa về nghiệp xấu – bất cứ hành động nào mà kết quả là khổ đau, thông thường là một hành động thúc đẩy bởi sự ngu dốt, gắn bó hay thù ghét.
(Xem: 22856)
Kính lễ đạo sư! Với lòng sùng mộ đến bậc đạo sư, Tam Bảo vô thượng, Và đức Bổn tôn được chọn, con xin quy y [các ngài]. Để tất thảy chúng sinh, nhiều như hư không vô tận...
(Xem: 16538)
Việc thực hành Pháp là một vấn đề nghiêm túc và quan trọng, mọi người cần phải nhận ra điều này. Đây là cơ hội quý giá sắp đến, điều mà chưa bao giờ từng đến trước đây.
(Xem: 16379)
Để hoàn thiện việc thực hànhtrở thành một con người tâm linh chân chính, chúng ta cần có một sự tiếp cận bất bộ phái hay không thiên vị vào các truyền thống Phật giáo.
(Xem: 16368)
Lịch sử của dòng Sakya bắt nguồn từ các vị trời giáng sinh từ cõi Tịnh Quang trong coi trời Sắc giới đến ngự tại các rặng núi tuyết của Tây Tạnglợi lạc của chúng sinh.
(Xem: 22834)
Điều làm Phật giáo trở nên đặc biệt, và khác với tất cả những tôn giáo khác, là một sự thật rằng đây là phương pháp giúp ta có thể kết nối được với bản thể của mình.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant