Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lược ý "tiết Trung nguyên phổ độ" xá tội vong nhân trong đại lễ Vu Lan Phật giáo Bắc truyền

07 Tháng Tám 201100:00(Xem: 19199)
Lược ý "tiết Trung nguyên phổ độ" xá tội vong nhân trong đại lễ Vu Lan Phật giáo Bắc truyền

LƯỢC Ý "TIẾT TRUNG NGUYÊN PHỔ ĐỘ" XÁ TỘI VONG NHÂN
TRONG ĐẠI LỄ VU LAN PHẬT GIÁO BẮC TRUYỀN
Thích Tâm Mãn

Trung nguyên ngày vọng hội Vu Lan
Bến Giác chiều thu sóng đạo ngàn
Những ai là người mang ơn nặng
Đều vận lòng thành đón Vu Lan
Đại Lễ Vu Lan còn được gọi là tiết Trung nguyên, đây là một danh từ được rất nhiều sử sách nước ta thường gọi chỉ cho Đại Lễ Vu Lan rằm tháng 7, trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, kỷ nhà Lý chép: “Mùa thu tháng bảy năm Mậu Tuất (1118) tiết Trung Nguyên, vua Lý Nhân Tông bày cổ bàn, nhân vì lễ Vu Lan Bồn...”.

Châu Bản Triều Nguyễn cũng có đoạn chép: “Năm Minh Mạng thứ XVIII, Đinh Mùi (1837), lại thiết trai đàn tụng kinh 21 ngày đêm, cũng vào tiết Trung Nguyên, tức Vu lan rằm tháng 7”. Vậy vì sao Đại Lễ Vu Lan Được gọi là tiết Trung Nguyên?.

blank

Tiết Trung Nguyên là danh từ của Đạo Giáo dùng để gọi lễ hội rằm tháng bảy, đây là “Lễ tiết” theo quan niệm truyền thống của Đạo Giáo. Đạo Giáo cho rằng trong một năm có ba tiết gọi là “Tam Nguyên” là ngày giáng trần của “Tam Quan”. Trong Kinh Thái Thượng Tam Quan của Đạo Giáo có chép: “Thiên Quan tứ phước, Địa Quan xá tội, Thủy Quan giải ách... tất cả chúng sanh đều dưới sự cai quản thống nhiếp của Thiên, Địa, Thủy Quan...”. Trong tín ngưỡng dân gian gọi tháng bảy là “tết của Quỷ” hay là “Tháng Cô Hồn”.

Tiết Thượng Nguyên còn gọi là Thượng Nguyên Thiên Quan tiết, lễ tiết của đầu năm vào tháng giêng, đây là tiết giáng trần của Thượng nguyên tứ phước thiên quan, Tử Vi Đại Đế. Tiết Trung nguyên còn xưng là Trung Nguyên Địa Quan tiết, lễ tiết của giữa năm, vào tháng bảy, đây là tiết giáng trần của Trung Nguyên Xá Tội Địa Quan, Thanh Hư Đại Đế. Tiết Hạ nguyên còn xưng là Hạ Nguyên Thủy Quan tiết, lễ tiết cuối năm vào tháng mười, đây là tiết giáng trần của Hạ Viên Giải Ách Thủy Quan, Đồng Âm Đại Đế.

Quan niệm của Đạo Giáo cho rằng tiết Trung Nguyên bắt đầu từ ngày mồng 1 tháng 7, ngày “Khai mở quỷ môn”, cho đến ngày 30 tháng 7, ngày “đóng cửa quỷ môn”, đây là tiết của quỷ, đây là khoảng thời gian, dưới âm phủ, âm ty mở cửa địa ngục, cho các loài quỷ lên dương thế để thọ hưởng sự cúng tế và nhận đồ thế chấp của người thế gian, cũng như tìm người thế mạng.

Người trên thế gian vì muốn tránh sự phá rối cũng như làm tổn hại đến tính mạng của mình do các loài quỷ gây ra, nên đến ngày rằm tháng bảy phải lập đàn, thiết lễ, bày các phẩm vật thực phẩmcác loại vàng mã, hình nộm để thế chấp và cúng cấp các loài cô hồn ngạ quỷ. Lễ cúng tế này được Đạo Giáo gọi là Tiết Trung Nguyên.

Căn cứ theo Kinh Huyền Đô Đại Hiến của Đạo Giáo có chép: “Ngày 15 tháng 7 là tiết Trung Nguyên vậy.... đây là ngày mà Đại Quan kiểm tra xét hỏi, phân biệt các tội thiện ác dưới địa phủ. Chư ThiênThánh chúng đều ở trong cung, kiểm tra sổ ghi kiếp số của các loài quỷ, các loài ngạ quỷ đang bị tù ngục đều được thả ra...”.

blank

Quan niệm của Đạo Giáo cũng như trong tín ngưỡng dân gian tin rằng “Quỷ” là những vong hồn chết bất đắc kỳ tử, là chưa đến số chết mà phải chết, chết một cách oan uổn, không cam tâm, không nhắm mắt được, nên khi chết biến thành “Lệ Quỷ” để quay lại báo thù. Cho nên trong dân gian có câu “Làm ác giết người, thì có thể trốn được sự trừng phạt của quốc pháp, chứ đâu tránh khỏi sự trả thù của oan hồn lệ quỷ.”.

Tiết Trung Nguyên của Đạo Giáo cũng như trong dân gian cho rằng, đây là Mùa của “Lệ Quỷ” cô hồn nên phải cúng tế cho các loại Lệ quỷ, ăn uống đầy đủ, cúng cấp vàng mã đủ đầy, để giải trừ các oán hờn, không còn trả thù nữa, để được thoát hóa đầu thai làm người.

Đạo Giáo giải thích về quỷ rằng: “Người chết thành quỷ, quỷ có nghĩa là quy, ý là có chổ để về vậy. Quỷ có chổ để về, thì không thành Lệ quỷ. Nói chổ về là chỉ khi chết được an táng đàng hoàng, được con cháu thờ cúng.”.

Tiết Trung Nguyên của Đạo Giáo các Đạo sĩ thường lập Đàn Huyền Đô Đại Trai, để cúng tế cầu nguyền cho các ngạ quỷ không người thờ tự và cúng cấp, các loại cô hồn lệ quỷ được ăn uống no đủ, siêu thoát để đi đầu thai, đây là phương pháp của Đạo Giáo tế độ cô hồn.

Trong kinh Huyền Đô Đại Hiến của Đạo Giáo có chép: “Vào ngày rằm tháng bảy làm đàn Huyền Đô Đại Trai, bày đầy đủ các thứ hoa quả, những vật dụng cúng tế quý trong thế gian... hiến cúng chư Thánh Chúng và Đạo sĩ… trong suốt ngày tháng thiết đàn giảng tụng kinh pháp, thập phương Đại Thánh, cao lộc linh thiêng, tội đồ ngạ quỷ, đương thời giải thoát...”.

blank

Khác với quan niệm của Đạo Gia chỉ cúng tế và thế chấp đồ vàng mã, để tránh sự phá rối và báo thù của các loài ngạ quỷ, Đại Lễ Vu Lan rằm tháng bảy của Phật Giáo chủ trương “Mùa Báo hiếu” mọi người nên học hạnh hiếu thảo với cha mẹ, làm việc thiện tích góp công đức, trai Tăng cúng dường, hồi hướng cho cha mẹ hiện đời và nhiều kiếp về trước được siêu sanh về Tịnh độ, và lập đàn chẩn tế cầu siêu bạt độ cho những âm hồn, quỷ đói, thọ dụng cam lộ pháp thực và cầu nguyện cho họ xã bỏ các oán hờn phiền não, vãng sanh về cỏi Phật.

Phật Giáo Đời Đường, là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của tất cả các tôn giáo có mặt ở Đông độ, hai quan niệm của Phật GiáoĐạo Giáo, cùng chung một tâm từ, nhưng hoàn toàn khác nhau về tư tưởng cũng như cách thức, cuối cùng hai quan niệm này được hợp nhất lại thành một ý niệm chung, trong một lễ hội, đó là lễ hội “Trung Nguyên Phổ Độ” chính là vào thời Nhà Đường bởi tư tưởng “Tam Giáo Đồng Nguyên”.

Phật Giáo với bản lĩnh văn hóa đạo lý của chính mình, cộng với sự tín sùng ủng hộ của triều đình và dân chúng, nên Đại Lễ Vu Lan của Phật Giáo, trên cương vị chủ đạo pháp hội, đã hòa hợp thành công lễ tiết của người Đông độ thành pháp hội mang đậm nét văn hóatinh thần của Phật Giáo.

Thành công này là do sự ứng thế của Kinh Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà La NiCam Lộ Đà La Ni Chú của Phật Giáo do ngài Thật Xoa Nan Đà dịch vào đời Đường. Khoa Du Già Diệm Khẩu, Đàn Chẩn tế Cô hồn của Phật Giáo được hưng khởi từ Ngài Bất Không Tam Tạng, và sự kiện Ngài Kim Địa Tạng thành đạoCửu Hoa Sơn,

Đại Lễ Vu Lan Bồn Đông độ dịch là Cứu Đảo Huyền, là nương theo từ bitrí tuệnguyện lực của chư Phật và Bồ Tát, để diệt trừ mọi phiền não, cũng như thoát khỏi tất cả những thống khổ đảo ngượcđịa ngục của các loài ngạ quỷ, do nghiệp thức gây ra. Trong sách Mạnh Tử quyển thượng Công Tôn Sửu, giải thích về cứu đảo huyền có chép: “Ví như giải cứu người từ trong hoàn cảnh nguy khốn ra vậy”.

Phương pháp Cứu đảo huyền trong Đại lễ Vu Lan là đàn Du Già Diệm Khẩu Chẩn Tế Cô Hồn, căn cứ vào Kinh Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà La NiCam Lộ Đà La Ni Chú. Hai bộ kinh này đều do Đức Phậttừ bi thương xót loài ngạ quỷ khổ, nên nói pháp phương tiện để cứu tất cả các loài quỷ đói thoát khỏi những nổi thống khổ bị đảo ngược.

blank

Khi ngài Bất Không Tam Tạng đến Trường An Kinh Đô nhà Đường ở chùa Đại Hưng Thiện dịch bộ Du Dà Tập Yếu Diệm Khẩu Thí Thực Cứu A Nan Đà La Ni Nghi Quỹ Kinh lập thành nghi quỹ và thứ lớp hành trì pháp thí thực, thành khoa Phóng Diệm Khẩu tức là nghi thức Chẩn Tế Cô Hồn của Phật Giáo.

Diệm Khẩu còn một danh từ khác là Diện Nhiên, Theo Kinh Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỉ Đà La Ni: “Một thời Phật tại Thành Ca Tỳ La... Bấy giờ Ngài A Nan một mìnhTịnh thất tu tập thiền định... có một con Quỷ đói tên là Diệm Khẩu đến trước ngài A Nan Bạch rằng: “còn ba ngày nữa là mạng tôi hết, sanh vào trong Ngạ Quỷ....”.

Ngài A Nan bạch Phật chuyện này và cầu Phật khai thị. Bấy giờ Đức Phậtnhân duyên này mà nói Thần chú “Vô Lượng Oai Đức Tự Tại Quang Minh Thù Thắng Diệu Lực Đà La Ni”, nếu trì tụng thần chú này lập tức giải trừ các nổi khổ oan khiên của Ngạ Quỷ...”.

Nói về các loài ngạ quỷ, những đối tượng để phổ độ trong đàn chẩn tế rằm tháng bảy, trong Luận Tỳ Bà Sa chép về ngạ quỷ như: “... có loại bụng lép như chó đói, đầu rối nùi, chân như khúc củi khô, miệng mũi thường chảy ra nước mũi nước dãi, lỗ tai sanh mủ, nơi mắt chảy ra máu. Có loại cao lênh khênh, bụng lớn như cái trống, cổ họng nhỏ như mũi kim, miệng thường phựt ra lửa, thân hình hôi hám, lông cứng nhọn như gai. Các loài ngạ quỷ khác thân thể còn ghê gớm xấu xa hơn nữa”.

Vì những nỗi khổ vô cùng vô tận của loài ngạ quỷ, khi ăn uống thức ăn đều biến thành lửa, thường xuyên bị đói khác hành hạ, vì lòng từ bi phổ độ nên trong Kinh Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỉ Đà La Ni; Phật thuyết thần chú “Biến Thực Chân Ngôn” trong Cam Lộ Đà La Ni Chú, Phật thuyết thần chú “Cam Lộ Chân Ngôn”, khi trì tụng hai thần chú này tất cả các thực phẩm đều biến thành cam lộ pháp thực và các loài ngạ quỷ đều có thể thọ dụng, vì vậy hai thần chú này là tâm điểm của Đàn Chẩn Tế.

Bồ Tát Địa Tạng với Đại nguyện “Nguyện độ hết chúng sanh, thì mới thành Phật”. theo truyền thuyết cho rằng Ngài Kim Kiều Giác tu hành ở núi Cửu Hoa Sơnhóa thân của Bồ Tát Địa Tạng, xuống trần gian để cứu độ chúng sanh. Đời Đường ngày 30 tháng 7, niên hiệu Khai Nguyên thứ 16, Kim Địa Tạng ở Cửu Hoa Sơn tu hành đắc đạo.

Theo lời Phật dạy trong Kinh Địa Tạng Bổn Nguyện, mọi người đều tin rằng Đức Địa Tạng thọ sự phó chúc của Phật, sau khi Phật diệt độ, và trước khi Đức Phật Di Lặc ra đời trong khoảng thời gian thế gian không có Phật tại thế, cho nên Ngài thay Phật giáo hóa hữu tình chúng sanh trong lục đạo, nhất là chúng sanh đang trầm luân trong địa ngục, cứu độ cho họ được thoát khỏi địa ngụckhuyến hóa tạo các duyên lành để sau này họ được duyên gặp Phật.

Ngày 30 tháng bảy theo tín ngưỡng Phật Giáo cũng như dân gian là ngày Khánh đản của Địa Tạng Bồ Tát, niềm Tin về sự cứu độ của Đức Địa Tạng Bồ Tát, trong chốn U Minh, cho nên trong dân gian tôn xưng Ngài là “Giáo chủ cõi U Minh” vì là giáo chủ cõi u minh, nên Ngài thống lãnh 10 vị vua trong cõi U Minh là “Thập Điện Minh Vương” vì vậy Ngài được phong đế hiệu là “Phong Đô Đại Đế” quyền miễn xá tội lỗi và cho đi đầu thai trong Địa Phủ đều do Ngài Địa Tạng quyết định.

Tín ngưỡng Phật Giáo và dân gian tin rằng nếu niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, hoặc cúng dường Trai Tăng Vu Lan Bồn trong Tiết Trung Nguyên và nhân ngày 30 tháng 7, ngày Khánh Đản của Ngài, thì những hương linh quá cố của họ sẽ được miễn xá các tội lỗi và được Ngài độ thoát.

Tiết Trung Nguyên, ngày mồng 1 tháng bảy mở cửa địa ngục, để cho cô hồn ngạ quỷ lên thế gian, thọ hưởng cúng tế, đến ngày 30 tháng bảy thì đóng cửa Địa ngục, nên các loài ngạ quỷ cô hồn trở về địa phủ. Đây là theo quan niệm của Đạo Giáo, sau khi Đại Lễ Vu Lan Bồn của Phật Giáo cùng tiết Trung Nguyên kết hợp lại trên tinh thần “Tam Giáo Đồng Nguyên”, thì ý niệm Đạo Tràng Phổ Độ chúng sanh do Ngài Địa Tạng Bồ Tát làm giáo chủ được ra đời.

Ngày 30 tháng bảy đóng cửa địa ngục của Đạo Giáo trở thành ngày phổ độ chúng sanh của Địa Tạng Vương Bồ Tát, thay vì phải trở về địa phủ chịu khổ, thì tất cả các vong hồn ngạ quỷ được Đức Địa Tạng cứu độ vãng sanh về Tịnh độ, không còn phải sa vào cảnh khổ địa ngục, vì vậy tiết Trung Nguyên được gọi là Trung Nguyên Phổ Độ, tháng bảy trong dân gian có câu truyền tụng “Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”.

Lập Đàn Chẩn Tế “Phóng Diệm Khẩu” bạt độ hết thảy các loài cô hồn ngạ quỷ thoát khổ địa ngục, vãng sanh Tây Thiên, và chính những người phát tâm lập đàn cúng tế, bản thân họ sau khi chết nếu sa vào địa ngục sẽ được Ngài cứu độ, cho nên tiết Trung Nguyên được gọi là Trung Nguyên Phổ Độ, với ý nguyện bình đẳng độ thoát hết thảy muôn loài, và trong dân gian gọi là ngày “xá tội vong nhân” đều có nguồn gốc từ đây.

Tiết Trung Nguyên từ một lễ tiết cúng cấp cho các loài ngạ quỷ của Đạo Giáo, trở thành một lễ tiết văn hóa mang đậm nét nhân văn hiếu đạo của Đông độ. “Trung Nguyên Phổ Độ” trong Đại Lễ Vu Lan Phật Giáo Bắc Truyền, mang dấu ấn tinh thần báo hiếutừ bi của Đạo Phật, được phổ biến rộng rãi trong dân gian, đã trở thành một lễ hội quan trọng nhất trong sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của người Đông Độ, đồng thời thể hiện sự tùy duyên bất biến của Đạo Phật, trong nguyện lực hoằng pháp lợi sinh.

Chùa Minh Thành - www.chuaminhthanh.com - www.minhthanhtu.com
Biên tập: ĐĐ. Thích Minh Thông.
Địa chỉ: 348 - Nguyễn Viết Xuân - Phường Hội Phú -
Thành Phố Pleiku - Tỉnh Gia Lai - Việt Nam
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24099)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 16173)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17348)
Tuyển tập những bài viết cho mẹ, cụ bà Nguyễn Thị Sáu của Hư Thân Huỳnh Trung Chánh
(Xem: 13981)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 14116)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15178)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20356)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18346)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17504)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 12777)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 64811)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 22921)
Vu Lan của người xuất thế ngoài lắng sâu trong tiềm thức tưởng nhớ mẹ cha, hiếu nghĩa ông bà còn phải làm những việc hiếu mà người ngoài thế khó có thể đảm đương nổi...
(Xem: 23447)
Với tự thân, Rahula đã có những nỗ lực tuyệt vời, với mẫu thân, Tôn giả đã thể hiện vai trò một người con hiếu rất mực cảm động.
(Xem: 22434)
Trước mắt tôi hiện lên bao người Mẹ. Này đây nước mắt Mẹ mừng vui khi con khôn lớn, khi con nên vợ nên chồng; này đây dáng Mẹ cánh cò, cánh vạc xăm xăm sớm tối đi về...
(Xem: 19256)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19188)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 17285)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 13150)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 13341)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 19407)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12496)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 14778)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13210)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13211)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 12052)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11846)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12740)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 11797)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11757)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10442)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11568)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9650)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9678)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 10008)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 10167)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10107)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10061)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9676)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 15530)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9872)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13693)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9855)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9713)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18352)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12052)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9580)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9703)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8728)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8934)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8433)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 12352)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13342)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8847)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9461)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11954)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9241)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9090)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9693)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 9097)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9120)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant