Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tiểu Sử Ngắn Của Đại Sư Tông Khách Ba

06 Tháng Mười 201513:06(Xem: 13342)
Tiểu Sử Ngắn Của Đại Sư Tông Khách Ba
Tiểu Sử Ngắn Của Đại Sư Tông Khách Ba


Alexander Berzin, tháng Tám, 2003

một phần dựa vào bài giảng của Geshe Ngawang Dhargyey                    
Dharamasala, Ấn Độ
 Lozang Ngodrub dịch; Chân Thông Tri hiệu đính
www.berzinarchives.com

 
Tiểu Sử Ngắn Của Đại Sư Tông Khách Ba

Tiểu sử của một lama vĩ đại được gọi là “namtar” (rnam-thar), một tiểu sử mang tính cách giải thoát, vì nó tạo nguồn cảm hứng cho người nghe noi theo gương của ngài để đạt được giải thoátgiác ngộ. Tiểu sử của ngài Tông Khách Ba (Tsongkhapa) (rJe Tsong-kha-pa Blo-bzang grags-pa) (1357-1419) thật sự gây nhiều cảm hứng.

Lời Tiên TriTuổi Thơ

Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba. Vào thời Đức Phật, một cậu bé thuộc về tiền kiếp của Tông Khách Ba đã cúng dường Đức Phật một chuỗi tràng hạt bằng pha lê và đã được Ngài ban cho một vỏ ốc xà cừ. Đức Thích Ca đã tiên tri rằng Đức Văn Thù Sư Lợi (Manjushri) sẽ giáng thế thành một cậu bé ở Tây Tạng, sẽ thành lập Tu Viện Ganden và cúng dường một vương miện cho tôn tượng của Đức Phật. Ngài đặt tên tương lai của cậu bé là Sumati-kirti (Blo-bzang grags-pa, Lozang-dragpa). Guru Rinpoche cũng tiên tri một vị tăng có pháp danh Lozang-dragpa sẽ sanh ra gần Trung Hoa, sẽ được xem là hóa thân của một đại Bồ tát và sẽ tạc một tượng Phật theo biểu tượng Báo thân (Sambhogakaya).

Một số dấu hiệu trước khi Tông Khách Ba chào đời cho thấy ngài sẽ là một con người vĩ đại. Ví dụ như cha mẹ của ngài đã có nhiều chiêm bao cát tường rằng con mình là hóa thân của Đức Quán Âm (Avalokiteshvara), Đức Văn Thù Sư Lợi (Manjushri) và Đức Kim Cương Thủ (Vajrapani). Vị thầy tương lai của ngài, Chojey Dondrub-rinchen (Chos-rje Don-grub rin-chen), được Yamantaka cho biết trong một linh kiến rằng ngài (Yamantaka) sẽ đến Amdo (A-mdo, Đông Bắc Tây Tạng) vào một năm nào đó và trở thành đệ tử của mình.

Tông Khách Ba ra đời ở Tsongkha (Tsong-kha), Amdo, năm 1357, là đứa con thứ tư trong sáu đứa con trai. Sau khi Tông Khách Ba ra đời được một ngày, Chojey Dondrub-rinchen gởi đại đệ tử của ngài mang lễ vật, một bức tượng và một bức thơ đến cho cha mẹ của ngài. Một cây gỗ đàn hương đã mọc lên ngay chỗ dây cuống rốn của ngài rơi xuống đất. Mỗi chiếc lá có hình ảnh tự nhiên của Đức Phật Sư Tử Hống (Buddha Simhanada, Sangs-rgyas Seng-ge sgra) trên đó, vì vậy nên được gọi là Kumbum (sKu-‘bum), một trăm ngàn hình ảnh tôn thân. Tu Viện dòng Gelug (Cách-lỗ) tên là Kumbum, sau này đã được xây dựng ngay tại đó.

Tông Khách Ba không phải là một đứa trẻ bình thường. Ngài không bao giờ hư hỏng.  Ngài đã thực hiện bồ tát hạnh theo bản năng và cực kỳ thông minh, luôn luôn muốn học hỏi tất cả mọi điều. Lúc ba tuổi, ngài thọ giới cư sĩ với Đức Karmapa thứ Tư, Rolpay-dorjey (Kar-ma-pa Rol-pa’i rdo-rje) (1340-1383). Không lâu sau đó, cha của ngài thỉnh mời Chojey Dondrub-rinchen đến nhà của họ. Vị lama này ngỏ ý sẵn sàng lo lắng cho việc học của cậu bé, và cha cậu vui vẻ đồng ý. Cậu bé ở nhà học với Chojey Dondrub-rinchen cho đến bảy tuổi. Chỉ cần nhìn thầy đọc, ngài đã biết đọc theo bản năng mà không cần được dạy.

Trong thời gian này, Chojey Dondrub-rinchen ban cho cậu bé lễ quán đảnh Ngũ Hộ Phật Chakrasamvara (Five-Deity Chakrasamvara, Dril-bu lha-lnga), Hevajra, Yamantaka và Kim Cương Thủ (Vajrapani). Đến bảy tuổi, ngài đã học thuộc lòng toàn bộ nghi thức của các lễ quán đảnh này, đã hoàn tất khóa nhập thất Chakrasamvara, thực hiện pháp tự-quán-đảnh, và có một linh kiến về Đức Kim Cương Thủ. Ngài thường nằm chiêm bao thấy A-đề-sa (Atisha, Jo-bo rJe dPal-ldan A-ti-sha) (982-1054), một dấu hiệu cho thấy ngài sẽ sửa đổi sự hiểu lầm về Phật phápTây Tạng và khôi phục tính thuần tịnh của giáo pháp, kết hợp Kinh điểnMật điển, như A-đề-sa đã làm.

Vào lúc bảy tuổi, Tông Khách Ba thọ giới Sa di với Chojey Dondrub-rinchen và  nhận pháp danh Lozang-dragpa. Ngài tiếp tục tu học ở Amdo với vị lama này cho đến mười sáu tuổi, rồi đến U-tsang (dBus-gtsang, miền Trung Tây Tạng) để tu học thêm. Ngài không bao giờ trở lại quê nhà. Chojey Dondrub-rinchen ở lại Amdo, nơi ông thành lập Tu Viện Jakyung (Bya-khyung dGon-pa) ở phía Nam của Kumbum.

Những Năm Đầu Tu Học Ở Miền Trung Tây Tạng

Ở miền Trung Tây Tạng, trước hết, Tông Khách Ba tu học tại một tu viện của phái Drigung Kagyu, nơi ngài theo học truyền thống Đại Thủ Ấn Drigung (Drigung mahamudra) gọi là “sở hữu năm” ("possessing five", phyag-chen lnga-ldan), y khoa và học hỏi thêm nhiều chi tiết về bồ đề tâm. Năm mười bảy tuổi, ngài đã trở thành một y sĩ lành nghề. Rồi ngài học Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (Filigree of Realizations, mNgon-rtogs-rgyan, Phạn ngữ Abhisamayalamkara), các bản văn khác của Đức Di Lặc, và Bát nhã ba la mật (phar-phyin, far-reaching discriminating awareness) tại một số tu viện của phái Nyingma (Ninh-mã), Kagyu (Ca-nhĩ-cư), Kadam và Sakya (Tát-ca), và học thuộc lòng các bản văn trong vòng vài ngày. Năm mười chín tuổi, ngài đã được xem là một đại học giả.

Ngài tiếp tục đi đến các tu viện danh tiếng nhất của các truyền thống Phật giáo Tây Tạng, tu học năm đề tài chánh của chương trình huấn luyện Geshe và các hệ thống học thuyết Ấn Độ, tranh luận về các đề tài này và dự thi môn tranh luận. Ngài thọ nhận các giáo huấn Kadam Lam-rim (Lam-rim, Trình Tự Đường Tu Giác Ngộ theo Kinh điển), cũng như vô số lễ quán đảnhgiáo huấn Mật điển, kể cả Lamdray của truyền thống Sakya (Lam-‘bras, Đường Tu và Kết Quả), Sáu Pháp Du Già của Naropa theo truyền thống Drigung Kagyu (Na-ro’i chos-drug, six yogas of Naropa), và Thời Luân (Kalachakra). Ngài còn học sáng tác thơ, chiêm tinh học và cách tạo dựng mạn đà la (mandala). Trong tất cả các môn học, ngài chỉ cần nghe một bài giảng giải một lần thôi là đã hiểu và nhớ một cách hoàn hảo – như trường hợp của Đức Dalai Lama thứ Mười Bốn.

Tông Khách Ba luôn luôn có tâm xả ly mạnh mẽ. Ngài có lối sống vô cùng khiêm tốn và trì giới thanh tịnh. Ngài thành tựu thiền chỉ (shamatha, zhi-gnas, tâm trạng tĩnh lặng) và quán (vipashyana, lhag-mthong, tâm trạng nhận thức một cách sâu sắc) một cách dễ dàng, nhưng chẳng bao giờ thỏa mãn với việc học hay trình độ thực chứng của mình. Ngài tiếp tục du hành và xin thọ nhận các giáo huấn hết lần này đến lần khác, kể cả giáo huấn về cùng một bản văn. Ngài đã tranh luậntham gia các kỳ khảo thí tranh luận với các đạo sư thông tuệ nhất vào thời của ngài. Một trong những vị thầy chánh của ngài là Rendawa (Red-mda’-ba gZhon-nu blo-gros) (1349-1412), một đạo sư phái Sakya. Tông Khách Ba sáng tác bài Migtsema (dMigs-brtse-ma) để tán thán ông, nhưng ông lại hồi hướng nó lại cho ngài. Sau này, nó trở thành lời kệ được trì tụng nhiều lần cho hành trì guru yoga về Tông Khách Ba.

Hoằng PhápSáng Tác Trong Những Năm Đầu

Tông Khách Ba bắt đầu hoằng pháp vào những năm của tuổi hai mươi, và bài pháp đầu tiên của ngài là A-tỳ-đạt-ma (abhidharma, mdzod, các đề tài kiến thức đặc biệt). Mọi người đều kinh ngạc về sự uyên bác của ngài. Ngài cũng bắt đầu sáng tácnhập thất nhiều hơn. Không bao lâu, ngài đã có nhiều đệ tử. Dù một số bài tường thuật nói rằng Tông Khách Ba thọ giới Tỳ kheo năm 21 tuổi, nhưng không chắc chắn việc này đã xảy ra vào năm nào. Có lẽ nó xảy ra trễ hơn, trong những năm của tuổi hai mươi.

Có một lúc, ngài đã tu học và phân tích toàn bộ Kangyur (bKa’-‘gyur) và Tengyur (bsTan-‘gyur) – các giáo huấn trực tiếp của Đức Phật (Kinh điển) và các luận giải của Ấn Độ, đã được chuyển ngữ. Sau đó, ngài đã viết Chuỗi Tràng Hạt Vàng Của Giảng Giải Xuất Sắc (A Golden Rosary of Excellent Explanation, Legs-bshad gser-phreng), một bản luận giải về Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (Filigree of Realizations), vì vậy là về Bát nhã ba la mật. Ngài đã tổng hợp và thảo luận về toàn bộ hai mươi mốt bản luận giải của Ấn Độ. Trong bất cứ tác phẩm nào do ngài sáng tác, ngài đã chứng minh bằng các trích dẫn từ toàn bộ văn học Phật giáo Ấn ĐộTây Tạng, so sánh và thậm chí hiệu đính các bản dịch khác nhau với lời bình. Không như các học giả trước đây, ngài không bao giờ né tránh việc giải thích những đoạn văn khó khăn và tối nghĩa nhất trong bất cứ bản văn nào.

Bình thường, mỗi ngày, Tông Khách Ba có thể thuộc lòng mười bảy trang sách hai mặt tiếng Tây Tạng, mỗi mặt có chín hàng chữ. Một lần nọ, một số học giả tổ chức kỳ thi học thuộc lòng, để xem ai là người có thể học thuộc nhiều trang sách nhất, trước khi mặt trời lên ngang ngọn phướn trên mái nhà của tu viện. Tông Khách Ba đã thắng với kỷ lục bốn trang mà ngài đọc thuộc lòng một cách trôi chảy, không sai sót gì. Người đứng hạng nhì chỉ có thể thuộc lòng hai trang rưỡi một cách loạng choạng.

Không lâu sau đó, Tông Khách Ba bắt đầu ban các lễ quán đảnhthuyết pháp Mật tông, đặc biệtcho phép hành trì (rjes-snang, jenang) pháp tu Diệu Âm Thiên Nữ (Sarasvati dByangs-can-ma), liên quan đến trí tuệ. Ngài cũng tiếp tục tu học Mật điển, đặc biệtpháp Thời Luân (Kalachakra).

Có một vị lama vĩ đại nổi danh về việc giảng dạy mười một bản văn cùng một lúc. Một đệ tử đã thỉnh cầu Tông Khách Ba làm như vậy. Thay vì vậy, Ngài đã giảng mười bảy Kinh điển chánh, toàn bộ bằng trí nhớ, một bản kinh văn được giảng trong một buổi mỗi ngày, bắt đầu giảng tất cả các bản Kinh trong cùng một ngày và kết thúc tất cả trong ba tháng sau, cũng trong cùng một ngày. Trong lúc giảng dạy, ngài bác bỏ cách diễn giải sai lầm về mỗi bản kinh văn và thiết lập kiến giải riêng. Mỗi ngày, trong buổi thuyết pháp, ngài còn thực hiện lễ tự-quán-đảnh (self-initiation, bdag-‘jug) Yamantaka và tất cả các hành trì Mật điển khác.

Nếu chúng ta nhìn vào cuộc đời chỉ có 62 năm của Tông Khách Ba để xem ngài đã tu học, hành trì bao nhiêu (kể cả việc tạc tượng đất sét tsatsa), đã sáng tác, giảng dạy và nhập thất bao nhiêu thì có lẽ không ai có thể làm được như ngài, dù chỉ thực hiện một việc trong tất cả những điều này trong một kiếp.

Tu HọcHành Trì Mật Điển Một Cách Sâu Sắc

Không lâu sau đó, Tông Khách Ba đã thực hiện khóa nhập thất dài đầu tiên về  Chakrasamvara, theo phái Kagyu. Trong kỳ nhập thất này, ngài đã thiền quán sâu sắc về sáu giáo huấn của Naropa và sáu giáo huấn của Niguma (Ni-gu’i chos-drug, Sáu Pháp Du Già của Niguma). Ngài đã đạt được thực chứng cao cả.

Sau đó, ở tuổi 34, Tông Khách Ba quyết định dấn thân vào việc nghiên cứuhành trì sâu tất cả bốn cấp độ Mật điển. Như ngài đã viết sau đó, một hành giả không thể thật sự đánh giá cao tính thâm thúy của Tối Thượng Du Già Mật điển (anuttarayoga tantra), trừ khi họ đã hành trì và thấu hiểu ba cấp độ Mật điển thấp hơn một cách sâu sắc. Vì vậy, ngài lại có những chuyến đi xa, nhận nhiều lễ quán đảnhgiáo huấn về ba cấp độ Mật điển thấp hơn. Ngài còn nghiên cứu thêm về năm giai đoạn của giai đoạn viên mãn (five-stage complete stage, rdzogs-rim) của Guhyasamaja và Thời Luân.

Tu HọcNhập Thất Để Đạt Được Chứng Ngộ Vô Niệm Về Tánh Không

Tông Khách Ba còn tiếp tục nghiên cứu hành trì của Vòng Mật Điển Văn Thù Sư LợiTrung Quán (Manjushri Tantric Cycle and Madhyamaka) với Lama Umapa (Bla-ma dbu-ma-pa dPa’-bo rdo-rje) của phái Karma Kagyu. Vị đạo sư vĩ đại này nghiên cứu Trung Quán trong truyền thống Sakya và từ nhỏ, đã có linh kiến về Đức Văn Thù  Sư Lợi mỗi ngày, và Đức Văn Thù đã dạy cho ông một câu kệ mỗi ngày. Tông Khách Ba và ông đã trở thành cả thầy lẫn trò của nhau. Lama Umapa đã phối kiểm với Tông Khách Ba để xác định rằng giáo huấn mà ông thọ nhận qua linh kiến với Đức Văn Thùđúng đắn. Điều này rất quan trọng, vì các linh kiến có thể bị ma quỷ ảnh hưởng.

Cùng với Lama Umapa, Tông Khách Ba thực hiện một kỳ nhập thất sâu rộng về Đức Văn Thù Sư Lợi. Từ đó trở đi, Tông Khách Ba nhận được chỉ giáo trực tiếp từ Đức Văn Thù qua các linh kiến thanh tịnh, và có thể nhận câu trả lời về những thắc mắc của mình từ Đức Văn Thù. Trước đó, Lama Umapa phải chuyển thắc mắc của Tông Khách Ba cho Đức Văn Thù.

Trong lúc nhập thất, Tông Khách Ba cảm thấy mình không có sự thấu hiểu đúng đắn về Trung Quán và Guhyasamaja. Đức Văn Thù khuyên ngài nên nhập thất dài hạn, rồi thì ngài sẽ hiểu được những điều ngài đã ghi chép từ các chỉ giáo của Đức Văn Thù. Vì vậy, sau khi hoằng pháp một thời gian ngắn, Tông Khách Ba đã nhập thất bốn năm với tám đệ tử thân cận ở Olka Cholung ('Ol-kha chos-lung). Các vị đã hành trì 100 000 lạy ba mươi lăm bận, mỗi bận hành trì cho ba mươi lăm vị Phật của pháp sám hối, và cúng dường 100 000 mạn đà la mười tám bận, với nhiều pháp tự-quán-đảnh Yamantaka và nghiên cứu về bồ tát hạnh trong Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka Sutra, mDo phal-cher). Sau đó, các ngài có một linh kiến về Đức Di Lặc.

Sau kỳ nhập thất, Tông Khách Ba và các đệ tử trùng tu một pho tượng vĩ đại của Đức Di Lặc tại Lhasa, đó là công hạnh đầu tiên trong bốn công hạnh lớn của ngài. Rồi các ngài lại nhập thất thêm năm tháng nữa. Sau đó, Lama Lhodrag Namka-gyeltsen (Lho-brag Nam-mkha’ rgyal-mtshan) thuộc phái Nyingma, người đã liên tục có linh kiến về Đức Kim Cương Thủ (Vajrapani), đã mời Tông Khách Ba, và hai vị trở thành cả thầy lẫn trò của nhau. Ông đã trao truyền Kadam Lam-rim và khẩu truyền về tôn chỉ của các dòng truyền thừa cho Tông Khách Ba.

Tông Khách Ba muốn đến Ấn Độ để tu học thêm, nhưng Đức Kim Cương Thủ khuyên ngài nên ở lại Tây Tạng, vì ngài sẽ tạo nhiều lợi lạc ở đó hơn, nên ngài đã ở lại. Ngài quyết định sau này sẽ sáng tác Đại Luận Về Trình Tự Đường Tu Giác Ngộ (A Grand Presentation of the Graded Stages of the Path, Lam-rim chen-mo) về trình tự đường tu theo Kinh điển, rồi đến Đại Luận Về Trình Tự Đường Tu Giác Ngộ Theo Mật Điển (A Grand Presentation of the Graded Stages of the Tantra Path, sNgags-rim chen-mo) về trình tự hành trì của bốn cấp độ Mật điển.

Sau đó, Tông Khách Ba thực hiện một kỳ nhập thất sâu rộng về giai đoạn viên mãn của Thời Luân, và sau đó là một năm nhập thất về Trung Quán. Mặc dù đã tu học nhiều về Trung Quán và Không tuớng từ các vị thầy của mình, ngài chẳng bao giờ cảm thấy thỏa mãn với mức độ giảng giải ấy. Trước khi thực hiện khóa nhập thất dài một năm, Đức Văn Thù đã khuyên ngài nên dựa vào luận giải Trung Quán của ngài Phật Hộ (Buddhapalita, Sangs-rgyas bskyangs). Tông Khách Ba đã làm theo lời khuyên và nhờ vậy, trong lúc nhập thất, ngài đã đạt được đầy đủ thực chứng vô niệm về tánh Không.

Dựa trên thực chứng của mình, Tông Khách Ba đã hoàn toàn tu chỉnh lại sự hiểu biết của giáo huấn Trung quán-Cụ Duyên về Không tướng và các đề tài liên quan mà các vị thầy và đạo sư thông tuệ đã thấu hiểu trong thời của ngài. Về phương diện này, ngài là một nhà cải cách cấp tiến, có can đảm vượt qua niềm tin đương thời, khi cảm thấy nó không thỏa đáng.

Sự cải cách giáo pháp của Tông Khách Ba luôn luôn nghiêm túc dựa trên luận lý và việc tham khảo Kinh điển. Khi thiết lập kiến giải riêng của mình thành ý nghĩa sâu sắc nhất của các giáo phápđại từ Ấn Độ, ngài không hề vi phạm sự gắn bó và quan hệ gần gũi với các vị thầy của mình. Xem các vị thầy của mình như Phật không có nghĩa là chúng ta không thể vượt qua các vị về phương diện thực chứng. Tsenzhab Serkong Rinpoche đời thứ Hai có giải thích điều này bằng thí dụ sau đây.

Chúng ta cần trộn nhiều vật liệu với nhau, như bột, bơ, sữa, trứng, v.v... để làm một cái bánh. Các vị thầy chỉ ta cách làm bánh và nướng một vài cái bánh cho chúng ta. Bánh có thể rất ngon và có thể ta rất thích chúng. Nhờ vào lòng tử tế của thầy, giờ đây, chúng ta đã biết cách làm bánh. Điều này không có nghĩa là ta không thể có vài sự thay đổi, thêm vài vật liệu khác vô và làm những cái bánh ngon hơn cả bánh của thầy mình. Khi làm như vậy, chúng ta không có ý bất kính đối với thầy. Nếu các thầy là những vị thật sự hội đủ các phẩm hạnh cao quý, họ sẽ tùy hỷ đối với việc cải thiện công thức làm bánh của ta và thưởng thức những cái bánh mới với chúng ta.

 

Các Công Hạnh Cao Cả Khác

Sau khi hoằng pháp thêm một thời gian, Tông Khách Ba lại nhập thất, lần này cùng với thầy của ngài là Rendawa, và viết hầu hết tác phẩm Lam-rim chen-mo. Trong kỳ nhập thất này, ngài có một linh kiến về A-đề-sa và các đạo sư dòng truyền thừa Lam-rim trong suốt một tháng, làm sáng tỏ nhiều thắc mắc của ngài. Kế đến, ngài đã nghiên cứu thêm về sáu hành trì của Naropa và Đại Thủ Ấn với phái Drigung Kagyu. Trong mùa mưa sau đó, ngài đã giảng dạy giới luật (vinaya,‘dul-ba) một cách rất rõ ràng, và điều này được xem là công hạnh lớn thứ hai của ngài.

Sau khi hoàn tất tác phẩm Lam-rim chen-mo, Tông Khách Ba quyết định giảng dạy đầy đủ hơn về Mật điển. Tuy nhiên, trước tiên, ngài viết các luận giải sâu rộng về bồ tát giớiĐạo Sư Ngũ Thập Kệ Tụng (Fifty Stanzas on the Guru, Bla-ma lnga-bcu-pa, Phạn ngữ Gurupanchashika), để nhấn mạnh hai đề tài này là nền tảng của hành trì Mật điển. Rồi trong khi tiếp tục giảng pháp, ngài đã sáng tác Ngag-rim chen-mo (Đại Luận Về Trình Tự Đường Tu Giác Ngộ Theo Mật Điển) và nhiều luận giải về Guhyasamaja. Ngài còn viết về Yamantaka và các bản văn Trung Quán Luận của Long Thọ (Nagarjuna).

Hoàng Đế Trung Hoa mời ngài làm gia sư hoàng gia cho ông, nhưng Tông Khách Ba từ chối, viện cớ rằng ngài đã quá già và muốn nhập thất.

Trong hai năm kế tiếp, Tông Khách Ba đã giảng dạy Lam-rim và Mật điển một cách rộng rãisáng tác Cốt Tủy của Diễn Giải Xuất Sắc về Ý Nghĩa Diễn DịchÝ Nghĩa Tối Hậu (The Essence of Excellent Explanation of Interpretable and Definitive Meanings, Drang-nges legs-bshad snying-po), về ý nghĩa tối hậuý nghĩa diễn dịch của học thuyết Đại thừa. Vào năm 1409, lúc 52 tuổi, ngài đã khai mạc Đại Lễ Cầu Nguyện Monlam (Monlam Great Prayer Festival, sMon-lam chen-mo) tại chùa Jokang (Jo-khang) ở Lhasa. Ngài đã cúng dường một vương miện bằng vàng cho pho tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, như một lời tuyên bố rằng giờ đây, đó là một pho tượng của Báo thân (Sambhogakaya), không chỉ là Hóa thân (Nirmanakaya) của Đức Phật. Báo thân của chư Phật sống cho đến khi tất cả chúng sanh đều được giải thoát khỏi luân hồi, trong khi Hóa thân thì chỉ sống trong một thời gian ngắn. Điều này được xem là công hạnh lớn thứ ba của ngài. Sau đó, các đệ tử xin ngài đừng vân du quá nhiều và họ đã sáng lập Tu Viện Ganden (Ganden Monastery, dGa’-ldan dGon-pa) cho ngài.

Tại Tu Viện Ganden, Tông Khách Ba tiếp tục giảng dạy, sáng tác (đặc biệt là về Chakrasamvara), và nhập thất. Ngài đã ủy thác việc xây dựng chánh điện lớn của Ganden, với một tượng Phật vĩ đại và các mạn đà la ba chiều bằng đồng của  Guhyasamaja, Chakrasamvara và Yamantaka. Điều này được xem là công hạnh lớn thứ tư của ngài. Ngài tiếp tục việc sáng táccuối cùng, có tổng cộng mười tám bộ  tác phẩm sưu tập, với sáng tác về Guhyasamaja là nhiều nhất.

 

Viên Tịch

Tông Khách Ba viên tịchTu Viện Ganden vào năm 1419, lúc 62 tuổi. Ngài đã thành tựu giác ngộ sau khi viên tịch bằng cách đạt được huyễn thân (illusory body, sgyu-lus), thay vì mang thân trung ấm. Điều này nhấn mạnh nhu cầu giữ gìn đời sống độc thân nghiêm ngặt của các tăng sĩ, bởi vì giác ngộ trong đời này đòi hỏi việc hành trì với một vị phối ngẫu ít nhấtmột lần.

Trước khi viên tịch, Tông Khách Ba trao tặng mũ và tăng bào của mình cho Gyeltsabjey (rGyal-tshab rJe Dar-ma rin-chen) (1364-1432), người đã trở thành chủ tọa pháp tòa trong mười hai năm sau đó. Điều này bắt đầu truyền thống Chủ Tọa Pháp Tòa Ganden (Ganden Throne Holder, dGa’-ldan khri-pa, Ganden Tripa) là vị trưởng dòng Gelug. Vị chủ tọa pháp tòa kế tiếp là Kaydrubjey (mKhas-grub rJe dGe-legs dpal-bzang) (1385-1438), người mà về sau đã có năm linh kiến về Tông Khách Ba. Điều này làm sáng tỏ những nghi ngờgiải đáp các thắc mắc của ông. Dòng truyền thừa Gelug đã hưng thịnh kể từ đó.

Các Đệ Tử

Một vài đệ tử thân cận của Tông Khách Ba đã sáng lập các tu viện để nối tiếp dòng truyền thừaquảng bá giáo huấn của ngài. Trong khi Tông Khách Ba còn tại thế, Jamyang Chojey (‘Jam-dbyangs Chos-rje bKra-shis dpal-ldan) (1379-1449) đã sáng lập Tu Viện Drepung (Drepung Monastery, 'Bras-spungs dGon-pa) vào năm 1416, và Jamchen Chojey (Byams-chen Chos-rje Shakya ye-shes) (1354-1435) đã thành lập Tu Viện Sera (Sera Monastery, Se-ra dGon-pa) năm 1419. Sau khi Tông Khách Ba viên tịch, Gyu Sherab-senggey (rGyud Shes-rab seng-ge) (1383-1445) đã thành lập Trường Cao Đẳng Mật Điển Miền Hạ (Gyumay Lower Tantric College, rGyud-smad Grva-tshang) năm 1433, và Gyelwa Gendun-drub (rGyal-ba Ge-’dun grub) (1391-1474), sau khi viên tịch, đã được thụ phong là Đức Dalai Lama thứ Nhất, người đã sáng lập Tu Viện Tashilhunpo (Tashilhunpo Monastery, bKra-shis lhun-po) năm 1447.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1040)
Vào lúc 11 giờ ngày 01/01/2024, tại chùa Kiều Đàm số 1129 S Newhope Street, thành phố Santa Ana, miền Nam California, Đạo tràng Khánh Anh cùng chùa Kiều Đàm đã tổ chức Lễ Khánh tuế lần thứ 97 Trưởng lão Hòa thượng Thích Thắng Hoan.
(Xem: 1347)
Hòa Thượng THÍCH TUỆ SỸ (1945-2023)
(Xem: 1921)
Mỗi khi có dịp gặp và ngồi nói chuyện về tỉnh Khánh Hòa, Quách Tấn đều nhắc cho tôi biết là, Khánh Hòa có 2 người tiếng tăm đã vượt biên giớiHòa thượng Thích Quảng ĐứcBác sĩ Yersin.
(Xem: 5741)
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Ngũ Thế, Hiền Như Tịnh Thất Trụ Trì, Pháp danh Tâm Hỷ, tự Thanh Diệu Pháp Ni Sư Chơn linh.
(Xem: 3563)
Ni Trưởng Thích Nữ Như Tuấn vừa viên tịch tại Chùa Phổ Hiền, Strasbourg, Pháp Quốc
(Xem: 4809)
Daisetsu Teitaro Suzuki sinh ngày 11 tháng 11 năm 1870 và mất ngày 12 tháng 7 năm 1966 tại thành phố Kamakura, Nhật Bản
(Xem: 4591)
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan - Chánh văn phòng Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 6676)
Được tổ chức tại Chùa Phật Đà, San Diego, California, vào lúc 10:00am ngày 27/9/2020.
(Xem: 18227)
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tôn, tứ thập tam thế, Húy Thượng Tâm Hạ Nhẫn, Tự Hành Từ, Hiệu Chí Tín Giác Linh Trưởng Lão Hòa Thượng Liên đài chứng giám
(Xem: 3860)
Là bậc Cao tăng xuất chúng, bằng trực giác mẫn tuệ, sư Đạo Sinh tự nghiệm ra một lý lẽ rất cao siêu và công khai thuyết giảng rằng ai ai cũng có Phật tính
(Xem: 2952)
Mắt không phải là xiềng xích của sắc (cái được thấy), sắc cũng không phải là xiềng xích của mắt. Bất cứ tham và luyến nào khởi lên dựa vào hai thứ đó
(Xem: 5564)
Do niên cao lạp trưởng đã thu thần viên tịch vào lúc 02h56 phút ngày 16 tháng 4 nhuận năm Canh Tý - nhằm ngày 7 tháng 6 năm 2020 tại Thiền Viện Vạn Hạnh. Trụ thế: 84 năm, 47 hạ lạp.
(Xem: 11024)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 9060)
Thầy Tuệ Sỹ Là Viên Ngọc Quý Của Phật Giáo và Của Việt Nam - Nguyễn Hiền Đức
(Xem: 2596)
Bài của Olaf Beuchling - đăng trên tạp chí "BUDDHISMUS Aktuell“ (Phật Giáo Ngày Nay) số 2/2020, phát hành tháng Tư, Năm, Sáu – từ trang 44 - 49 Việt dịch: Đạo Hữu THỊ CHƠN Ngô Ngọc Diệp
(Xem: 6812)
Đại Lão HT Thích Quảng Độ viên tịch lúc 21 giờ 30 ngày 22 tháng 2 năm 2020, thượng thọ 93 tuổi, 73 hạ lạp
(Xem: 3226)
Dịch theo bản Anh dịch “The Enlightenment of Chiyono” của Anne Dutton, từ các trang 173-179 của sách “Zen Sourcebook: Traditional Documents from China, Korea, and Japan
(Xem: 5883)
Giới đàn là một nghi lễ để truyền trao giới pháp cho các giới tử là những người xuất gia theo đạo Phật. Để thành tựu được một giới đàn, phải có đủ 3 yếu tố: Tam sư, thất chứng và giới tử.
(Xem: 3973)
Nhận thấy nhu cầu tìm hiểu những nhân vật, con người, đã và đang đóng góp công sức cho Phật giáo Việt Nam ngày nay...
(Xem: 5382)
Ôn thường canh cánh về Mẹ bên lòng khi còn sanh tiền. Trước khi “chết” Ôn về quê thăm Mẹ, lạy tình thương của Mẹ từ thuở ấu thơ.
(Xem: 18377)
“Rốt cuộc, tôi không biết gì, không có ý định gì cả, nên cuộc đời tôi ‘không vẫn hoàn không’, không có gì đáng nhớ, đáng nói… ‘Không vẫn hoàn không’ là Phật cho, tôi mới được như vậy.”
(Xem: 6320)
Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang (1923-2019) vừa viên tịch
(Xem: 5791)
Trưởng Lão HT Thích Chơn Thành sinh ngày mùng 9 tháng 8 năm 1934, tại Xã Xuân Thọ, Quận Sông Cầu, Tỉnh Phú Yên, Việt Nam.
(Xem: 3507)
Bài Thuyết Trình: Hành TrạngSự Nghiệp của Trưởng Lão Hòa Thượng THÍCH ĐÔN HẬU Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN nhân ngày Khánh Thành Chùa Đôn Hậu tại Na Uy
(Xem: 2483)
Vị thứ hai trong dòng những tái sinh Jamyang Khyentse là Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro, người vĩ đại đến mức thật khó để tôi thậm chí thốt lên danh hiệu của Ngài
(Xem: 13430)
Kính Mừng Thọ 70 tuổi HT Thích Như Điển tổng hợp những bài viết cho Hoà Thượng Phương Trượng
(Xem: 5362)
Chương trình tang lễ của HT Thích Quảng Thanh được tổ chức tại Chùa Bảo Quang từ ngày 14 đến 17/6/2019
(Xem: 2711)
Hòa Thượng Thích Thiện Định là vị Tổ khai sơn chùa Pháp Hoa tại Marseille, Pháp Quốc.
(Xem: 3975)
Ngài thế danh là Diệp Quang Tiền, Pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác (Đồng sư với Hòa thượng Thiện Châu ở bên Pháp), hiệu Trí Ấn Nhật Liên
(Xem: 4535)
Chúng ta nói chuyện thế kỷ 13, đó là một thời nước lớn phía Bắc không thôi kinh ngạc khi nghĩ tới nước nhỏ Đại Việt phía Nam, cả về quân sự và Phật pháp.
(Xem: 3916)
Tây Tạng xưa nay là xứ huyền bí. Đó là vùng đất thường được gọi là mái nhà của thế giới, nơi sản sinh ra nhiều bậc thánh giả siêu việt, mà ngài Lạt Ma tái sinh Zong Rinpoche là một trong những hình ảnh tiêu biểu.
(Xem: 2618)
GS Tenzin nói, những kinh nghiệm đó cho anh thực hiện nhiệm vụ thông dịch khá là tuyệt vời. Đối với một người thông dịch nào không quen thuộc với Đức Đạt Lai Lạt Ma, công việc như thế sẽ rất là khó.
(Xem: 4353)
Hòa Thượng Thích Như Điển - Chân Dung Một Nhà Văn
(Xem: 3318)
Sư cô Thích Nữ Chủng Hạnh sanh ngày 12 tháng 8 năm 1933. Do tuổi cao sức yếu, đã thâu thần thuận tịch vào ngày 07 tháng 11 năm 2018. Trụ thế: 86 năm, Hạ lạp: 07 năm.
(Xem: 4677)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường cho Phật...
(Xem: 7512)
Chương trình tang lễ được tổ chức từ ngày 23 đến 25 tháng 10 năm 2018 tại Chùa Diệu Quang, 3602 W 5th St, Santa Ana, CA 92703. Tel: (714)554-9588
(Xem: 3429)
Sư bà Nguyên Thanhthế danh Lê Thị Quan, sanh năm1944, tại Quy Nhơn, là con gái thứ ba trong năm người con của ông Lê Đức Khánh và bà Trần Thị Quýt, làng Phú Nhơn, xã Cát Trinh, khuyện Phù cát, tỉnh Bình Định.
(Xem: 3715)
Chương Trình Lễ Tang sẽ được tổ chức lúc 5 giờ chiều Thứ Bảy ngày 4 tháng 8 năm 2018 và Chủ Nhật ngày 5 tháng 8 năm 2018, tại Đạo Tràng Nhân Quả, 10801 Trask Ave, Garden Grove, CA 92843
(Xem: 3427)
Hòa Thượng Thích Thiện Hữu thế danh Nguyễn Hữu Nghĩa thượng Như hạ Lễ tự Viên Nhơn, hiệu Thiện Hữu sinh năm Giáp Thân (1944) tại xã Nhơn Khánh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Định.
(Xem: 7573)
Thay mặt chư tôn đức Tăng, Ni và quý Cư Sĩ Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHK nhất tâm nguyện cầu Giác Linh Sư Bà Tân Viên Tịch Cao Đăng Phật Quốc.
(Xem: 12508)
Lễ Nhập Quan: Vào lúc 10 giờ sáng Thứ Sáu, ngày 12 tháng 1 năm 2018 tại Peek Funeral Home, 7801 Bolsa Ave., Westminster, CA 92683
(Xem: 16157)
Đức Trưởng lão Hòa Thượng thượng ĐỨC hạ CHƠN Viện chủ Tu Viện Quảng hương Già Lam, Sài Gòn vừa viên tịch lúc 03g40′ ngày 27/11/2017
(Xem: 4538)
Khó hình dung rằng một phụ nữ Anh đang phụ trách về kế toán trong một công ty quản trị quỹ đầu tư đa quốc bỗng nhiên trở thành một vị ni sư theo truyền thống Tây Tạng
(Xem: 52587)
HT Thích Đức Niệm - Trụ trì Chùa Ưu Đàm, Tp. Marina, California viên tịch lúc 11:30AM ngày 20/10/2017...
(Xem: 8630)
Hòa Thượng Phương trượng Chùa Thiền Tôn, húy Tắc An hiệu Lãng Thiện đời thứ 23 dòng thiền - Thiên Thai Giáo Quán Tông
(Xem: 16033)
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Minh Tuyền (1938-2017) Khai Sơn Chùa Phật Giáo Việt Nam tại Nhật Bản
(Xem: 4051)
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu được tồn vinh đó là nhờ công đức sáng lập của Thầy.
(Xem: 3791)
Chỉ cần, đối cảnh vô tâm, hay cứ để mặc cho các pháp được thấy như là được thấy, được nghe như là được nghe… Và đó là Thiền Tông: không một pháp nào để làm.
(Xem: 8651)
Kỷ Yếu Tri ÂnTán Dương Công Đức của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Như Huệ... TT Thích Nguyên Tạng
(Xem: 4006)
Ngay từ hồi còn trẻ cụ Chu Văn An (1292-1370) đã nổi tiếng là một người cương trực, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách.
(Xem: 12650)
Sư Bà đã viên tịch ngày 15/1/2017. Lễ Nhập Kim Quan vào lúc 9am, Chủ Nhật, 22/01/2017; Lễ Trà Tỳ vào lúc 3pm, Thứ Hai, 23/01/2017
(Xem: 12415)
Tuệ Sĩ – Người ẩn mình dưới lòng hố thẳm hun hút, Tuệ Sĩ – Trên đỉnh Trường Sơn chót vót sương mù, mây trắng.
(Xem: 17149)
Chúng con/tôi vừa nhận được tin: Thượng Tọa THÍCH ĐỨC TRÍ Trụ trì Chùa Tam Bảo Tulsa, Oklahoma vừa viên tịch...
(Xem: 7158)
Vào tháng 4 năm 1998, tôi trở về nhà ở Dharamsala, Ấn Độ, sau hành trình giảng dạy dài và khoản thời gian miệt mài viết lách tại Mông Cổ và phương Tây.
(Xem: 5854)
Đại lão HT Thích Thiện Bình đã thu thần viên tịch 17-11-2016 (18-10-Bính Thân), tại chùa Long Sơn TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa), thọ 84 tuổi.
(Xem: 7215)
Xuất gia năm 1960, thọ Sadi giới ngày 17-11 năm Quý Mão (1963) tại Tổ đình Tường Vân, thọ cụ túc giới năm 1964 tại giới đàn Quảng Đức
(Xem: 8353)
Đức Vua Bhumibol Adulyadej, vị hoàng đế ở trên ngai vàng lâu nhất thế giới, vừa băng hà tại bệnh viện ở thủ đô Bangkok ngày 13-10-2016.
(Xem: 5307)
Tiểu sử của một lama vĩ đại được gọi là “namtar” (rnam-thar), một tiểu sử mang tính cách giải thoát, vì nó tạo nguồn cảm hứng cho người nghe...
(Xem: 6674)
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa con nhà gia giáo thuộc hạng trung lưu, trong gia quyến ai nấy đều theo đạo Phật.
(Xem: 8680)
Trong cuộc phỏng vấn năm 1999, Richard Gere nói về những năm tháng tu tập của mình, sự cống hiến của anh cho Lão sư của mình là Ngài Đạt La Lạt Ma.
(Xem: 5388)
Chu Văn An (1292-1370) hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, tên thụy là Văn Trinh. Tên thật của Chu Văn An vốn là...
(Xem: 6420)
Theo các nhà nghiên cứu về lịch sử Phật giáo, người Nga đã biết đến đạo Phật nhờ tiếp xúc với các lân quốc vùng châu Á như Mông Cổ, Tây Tạng...
(Xem: 4693)
Thupten Jinpa là một cựu tăng sĩ, hoàn tục để lập gia đình, trở thành một tác giả, và trong 30 năm qua, là người thông dịch chính về tiếng Anh cho Đức Đạt Lai Lạt Ma.
(Xem: 14076)
Lễ nhập Kim Quan lúc: 04 giờ chiều ngày Thứ Bảy: 25/6/2016; Lễ cung tống Kim Quan trà tỳ lúc: 08 giờ sáng ngày Thứ Năm: 30/06/2016
(Xem: 5602)
Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng Lê Văn Duyệt, toàn thân Ngài bất động điềm nhiên trong tư thế thiền định...
(Xem: 5734)
Bài thuyết trình cho Khóa An Cư Kiết Hạ tại Niệm Phật Đường Fremont, SanJose, từ ngày 13-23 tháng 6 năm 2016
(Xem: 9874)
Kỷ Yếu Tri ÂnTán Dương Công Đức của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn
(Xem: 8732)
Đức Trưởng Lão HT Thích Như Huệ Chứng minh Đạo sư GHPGVNTN Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan
(Xem: 7145)
Trong số mấy chục vị Thánh Tử Đạo ấy có Sư Cô Thích Nữ Diệu Định ở Quảng Nam-Đà Nẵng...
(Xem: 35056)
Lễ nhập kim quan lúc: 09:00am, ngày 12/3/2016. Lễ di quan lúc 10:00am ngày 15/3/2016
(Xem: 5504)
Đại Lễ Tri Ân nhị vị Hòa Thượng Trưởng Lão của Giáo HộiTrưởng Lão Tăng Giáo Trưởng HT Thích Huyền Tôn và Trưởng Lão Chứng Minh Đạo Sư HT Thích Như Huệ.
(Xem: 10601)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm HT Thích Hạnh Tuấn (1956-2015) Chùa Trúc Lâm Chicago, USA ấn hành 2015
(Xem: 13075)
Kể từ khi tổ Minh Hải–Pháp Bảo khai tông lập giáo, tính đến nay dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh đã trải qua 300 năm lịch sử với 12 đời truyền thừa...
(Xem: 7609)
Dẫu là một ông vua, cai trị một đế chế rộng lớn, quyền uy sinh sát trong tay, nhưng kỳ thực A Dục Vương vẫn là một đệ tử Phật, một tín đồ thuần thành của Phật Giáo.
(Xem: 17732)
HT Thích Tâm Thọ, Thành viên Giáo hội Phật giáo Việt Nam trên thế giới, Viện Chủ Chùa Giác Hoàng, Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ
(Xem: 6585)
Thiền sư BẠCH ẨN HUỆ HẠC (Hakuin Ekaku), thế danh Iwajiro (Nham Thứ Lang, nghĩa là cậu bé đá), quê tại Hara, tỉnh Suruga, thị trấn Numazu, hạt Shizuoka, Nhật Bản.
(Xem: 19848)
HT Thích Hạnh Tuấn, Trú Trì Chùa Trúc Lâm, Chicago, đã viên tịch; Lễ Nhập Liệm vào ngày thứ 4, 4/11/2015; Lễ Trà Tỳ vào ngày Chủ Nhật, 8/11/2015
(Xem: 16141)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 26902)
Lễ nhập quan sẽ được cử hành vào lúc 14 giờ ngày 25 tháng 08 năm 2015 (nhằm ngày 12/07/Ất mùi)
(Xem: 28703)
Trưởng lão Hòa Thượng vừa thâu thần viên tịch tại Tổ đình Từ Quang, thành phố Montreal, Canada, lúc 10g15 thứ Năm, ngày 20-8-2015, trụ thế 95 tuổi đời, 74 Hạ Lạp
(Xem: 10801)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Minh Tâm (1940-2013)
(Xem: 7591)
Pháp danh của ông là Buddhadasa có nghĩa là người tỳ kheo hầu hạ Đức Phật, thế nhưng người dân Thái thì lại gọi ông là Ajhan Buddhadasa.
(Xem: 7047)
Ngài Tịch Thiên (Shantideva) là một trong những vị luận sư lỗi lạc nhất của thời kỳ sau trong quá trình phát triển tông phái Đại thừa
(Xem: 10156)
Ngài Huyền Trang theo truyện Tây Du không gọi là Huyền Trang mà kêu là Tam tạng thỉnh kinh hay Đường Tăng. Trong sách nói đủ là Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
(Xem: 10170)
Tranh vẽ Chân Dung HT Tuệ Sỹ của nhiều tác giả
(Xem: 8046)
Có một người đã cắt bỏ được sợi dây ràng buộc của gia đình để sống theo tăng đoàn của đức Phậtcống hiến trọn cuộc sống của mình cho công cuộc hoằng dương Phật pháp, đó là Tôn Giả Phú Lâu Na.
(Xem: 8078)
Huệ Viễn đại sư họ Cổ, nguyên quán xứ Lâu Phiền ở Nhạn Môn thuộc tỉnh Sơn Tây. Ngài sanh tại Thạch Triệu, năm Giáp Ngọ, vào niên hiệu Diên Hy đời vua Thành Đế nhà Tấn.
(Xem: 6850)
Đức Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ (1909 - 1984), Đệ nhất Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN là bậc cao tăng có những cống hiến to lớn đối với Đạo pháp và Dân tộc
(Xem: 9991)
Đức Đệ Nhị Tăng Thống Giáo Hội Phật Việt Nam Thống Nhất, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, viên tịch năm kỷ Mùi.
(Xem: 20731)
Hòa Thượng Thích Tuệ Chiếu, thế danh Lưu Đức Thụy, Pháp danh Thiện-Uẩn, Pháp hiệu Hồng Liên, pháp tự Tuệ Chiếu thuộc Thiền Phái Lâm Tế đời thứ 40.
(Xem: 24079)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15190)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 8184)
Từng nghe, lòng dạ kiên trinh, ý chí vững bền, khí tiết đặc biệt đâu phải hoàn toàn do bẩm tính tự nhiên mà phải dốc lòng kính ngưỡng, noi theo những bậc có đức hạnh cao vời.
(Xem: 18641)
Vào lúc 15 giờ ngày 14/12/2014, tại An Tường tự viện, Oakland, California, Hoa Kỳ, các tự viện đã phối hợp cùng Môn đồ pháp quyến tổ chức Lễ truy niệm và phát tang HT húy thượng Đồng hạ Đạt, tự Thông Đạt, hiệu Thanh An, Viện chủ An Tường tự viện
(Xem: 16555)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 10863)
Ngài Long Thọ (Nagarjuna) thường được tôn xưng là “đức Phật thứ hai” bởi các truyền thống Phật Giáo Đại Thừa tại Tây Tạng và Đông Á.
(Xem: 7297)
SB Diệu Không thế danh là Hồ Thị Hạnh, húy là thượng Trừng hạ Hảo, hiệu là Nhất Điểm Thanh. Sư Bà sinh năm 1905, con gái Út của Cụ Hồ Đắc Trung và Cụ Châu Thị Lương, làng an Truyền, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên.
(Xem: 7887)
Hòa Thượng thế danh là Nguyễn Văn Kính, sanh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão, nhằm ngày 17 tháng 12 năm 1891, tại làng Dưỡng Mong Thượng, tổng Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.
(Xem: 14171)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 7954)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant