TIỂU SỬHÒA THƯỢNG THÍCH THANH AN VIỆN CHỦAN TƯỜNG TỰ VIỆN
I. Thân thế:
Hòa Thượng thế danh là Nguyễn Văn Nho sanh ngày mồng một tháng giêng năm Đinh Sửu (1937) tại Làng Mỹ Khê – Quận Sơn Trà – TP Đà Nẵng. Con Ông Nguyễn Văn Hường, pháp danh Như Danh và Bà Đỗ Thị Tha, pháp danh Thị Lợi. Cả hai ông bà đều thâm tínTam bảo nên sớm ảnh hưởngđời sống đạo người con thứ sáu này trong gia đình có 8 người con, gồm 4 trai 4 gái. Thân mẫu Ngài là người đàn bà Việt Namhiền lương, chất phác và thuần thànhniệm Phật nên được thoại ứng trong việc “dự tri thời chí” (biết trước ngày chết) của mình thật vô cùnghy hữumầu nhiệm.
II. Xuất giatu học:
Sanh trong gia đình nhiều đời thâm tínPhật Giáo, ảnh hưởng ông nội chú ruột là Hòa Thượng Thích Phước Trí có uy tín trong vùng hay nhờ túc duyên sẵn có, đang độ tuổi thanh xuân, Ngài dứt khoátdũng mãnhphát tâmxuất gia theo chí nguyện: Cát ái từ sở thân Xuất gia hoằng chánh đạo Thế độ nhất thiết nhân
Ngày 8 tháng 2 năm 1958, Ngài đến Chùa Linh Ứng – Ngũ Hành Sơn Non Nước – Đà Nẵng xin Ngài Hương Sơn tức Hòa Thượng thượng Trí hạ Hữu xuất giatu học. Thấy sự thiết tha cầu đạoHòa Thượnghoan hỷchấp thuận và làm lễ thế phát vào dịp lễ Đức Quán Thế Âm 19/2 âm lịch ?(tháng 3 năm 1958) với pháp danh Đồng Đạt. Từ đó, Ngài dốc tâm tu tập, học kinh kệ và tinh tấn trong mọi công việc Chùa, việc chúng nên được thầy thương bạn mến. Ngày 8 tháng 7 âm lịch năm 1958 được thọ giớiSa Di với pháp tựThông Đạt. Từ khi được thọ giớiSa Di, Ngài càng tinh tấn nhiều hơn trong việc tu học. Lúc tại tổ đình Linh Ứng lớp chúng độ 17, 18 tăng sinh do Ngài Hòa Thượng bổn sư Trí Hữu trực tiếp chăm sóc giảng dạy các kinh luật như Tỳ Ni, Sa Di, Oai Nghi, Cảnh Sách. Sau gần hai năm dưới sự dìu dắt cua bổn sư, các huynh đệlần lượt xin thầy đi cầu phương xa. Do vậy Ngài đảnh lễ Bổn sư xin xuất chúng tha phương cầu học. - Năm 1960, Ngài vào chùa Linh Sơn - Xã Vạn Lương – Quận Vạn Ninh – Tỉnh Khánh Hòa – Nha Trang xin Hòa Thượng thương Tịch hạ Tràng làm bổn sư y chỉ. Được Hòa Thượnghứa khả cho nhập chúngtu học, Ngài rất tinh tấn và mỗi ngày thọ trìcông phu bài sám Hồng Danh càng mien mật hơn. Cũng trong thời gian này Ngài phát nguyện tịnh tu 5 năm. - Năm 1963 Ngài được Hoà thượng Bổn sư y chỉ cho thọ Cụ túc giới tại Đại Giới Đàn Giác Nguyên – Quận Tư Sài Gòn do Hòa Thượng Thích Hành Trụ làm Chánh chủ đàn và “Đàn Đầu Hòa Thượng là Hoà thượng thượng Niết hạ Bàn. Sau đó được Hoà thượng bổn sư Tịch Tràng ban choPháp hiệu là Thanh An.
III. Quyết chíhành trì pháp tu Tịnh Độ, lạy Phật:
Noi theo hạnh tu của bổn sư y chỉ, Ngài trì tụng kinh, lạy Hồng Danh chư Phật và chuyên trì tụng Kinh Hoa Nghiêm phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện. Đây là thời gian có nhiều thử thách trong công phutu tập đối với một hành giả khổ công luyện tập nội lực thâm hậu. - Năm 1961 nhân kỳ an cưkiết đông 3 tháng xong, Hòa Thượngphát nguyện Kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện. Vì nhận thấy sự diệu dụngcảm ứng cảu phẩm kinh nên Ngài xin phép Hòa Thượngy chỉ chích huyết viết Kinh, Hòa Thượng bảo: “Phát nguyện chép Kinh không ai cản nhưng phải quyết tâmthực hành cho được tín nguyện”. - “Con đã sẵn sàng phát tâmtín nguyện, xin Hòa Thượng cho con quyết định thực hành!” Thầy trả lời. Được sự cổ vũ của bổn sư, Ngài thực hiện ngay tâm nguyện chép Kinh từ ngày 14 tháng 12 đến ngày 24 tháng 12 năm Tân Sửu (1961) suốt 10 ngày đêm tả Kinh mới xong gồm có 5.684 chữ. - Năm 1966, Ngài phát nguyện đốt ngón tay út bàn tay trái trong khi tụng xong ba cuốn chót 5, 6 và 7 bộ KinhPháp Hoa, để vừa hồi hướng hoàn kinh và ra thất. Cũng trong năm này Ngài phát nguyện chích máu chép Kinh A Di Đà. - Năm 1972: tạo dựng tượng đài Quán Âm lộ thiên cao 11 mét trên hòn giả sơn, trước Chùa Mỹ Khê – Sơn Trà – Đà Nẵng. Nhưng vì tình hình đất nước thay đổi năm 1975, việc xây dựng bị đình đốn chờ hội đủ nhân duyêntiếp tụchoàn thành. - Năm 1975: phát nguyệntu khổ hạnh tại nơi núi Hòn Chảo, Vạn Giả - Khánh Hòa trong 2 năm. Vì sơn lâm chướng khí sanh bệnh hoạn, cũng nhờ vị thọ thần mach bảo chỉ dẫn Ngài phải xuống núi lo điều trị chứng đau bao tử đang tới hồi nguy kịch. Nhờ đủ phước duyên, sau một thời gian tự điều trị bằng phương phápgia truyền nên sức khỏehồi phục. Vào đầu năm 1976 được sự cho phép của Bổn Sư đưa Thầy về trụ trì Chùa Long Hòa, xã Ninh Huề Vạn Giả, Vạn Ninh Khánh Hòa tiếp tăng độ chúng, dìu dắtThiện nam Tín Nữtu học.
IV. Tìm một lối thoát:
Do chứng nghiệm cái chết của người mẹ nhờ nhất tâm niệm Phật mà biết trước ngày vãng sanh, tâm Thầy bừng sáng muốn đem đạo vào đời và luôn chí xuất ngoại mới có tự dothực hiệntâm nguyện. Ngày đêm Ngài trì ChúĐại Bi 108 biến và niệm Phậtkiên cố nên mọi chướng duyên đều vượt qua. Chí hướng muốn đem hai môn Tịnh, Mật đã áp dụng truyền lại người sau. Tâm thành đã sẵn, việc đến đã đến. Ngày 29 tháng 6 năm 1988 chuyến ra đi vượt biên thành côngnhư ý nguyện. Qua tới Phillippines ở trại Palawan 20 tháng mới được phái đoàn Mỹ phỏng vấn nhận đi định cư, Ngài được chuyển trại đến Palawan (Phi) ở thêm 4 tháng nữa. - Năm 1990 ngày 21 tháng 3 Ngài đặt chân tới đất nước tự do Hoa Kỳ ở tiểu bang Connecticut được một tháng, sau đó dời về California từ năm 1990 cho tới nay. Sau khi được định cư Hòa Thượng một mặt lo tìm nơi thích hợp dùng để thờ tự Tam Bảo và mặt khác cũng cố tạo phương tiện tài chánh trùng tu ngôi chùa quê bên Việt Nam và hoàn tất pho tượng PhậtQuan Âm lộ thiên đang tạo dở dang. Nhờ hồng ân chư Phật, chư Tổ, Long Thiênhộ phápgia hộ những tâm ước nguyệnchân thành của Ngài đã đạt thành viên mãn vào những năm sau đó. Theo như lời Ngài thổ lộ rằng rất mãn nguyện khi lập xong nhà thờ từ đườngphụng thờ ông bà, cha mẹ, vì biết rằng người xuất gia không thể trực tiếp lo việc hiếu sự như người thường khác được. Việc ra đi tìm tự do của Ngài nhằm đáp ứnghai mặt: đạo pháp và hiếu nghĩa như hoài bão thập niên 80 thể hiện rõ nét nhất là sau khi mẫu thân mất (1985). - Về đạo pháp: Hòa Thượng luôn giữ sơ tâmxuất gia, cho dù sống ở sứ sở văn minhvật chất hàng đầu thế giới, Ngài vẫn sống đạm bạc, an nhẫn góp phần chung lo Phật sự cùng với chư tônđức tăng ni Việt Nam hải ngoại, và mặt khác luôn hướng dẫn hàng Phật tửtại giatu tậppháp môn niệm Phậtcầu vãng sanhcực lạc quốc. - Về hiếu nghĩa: bổn phận đối với gia đình, Hòa Thượngchu toàn nơi thờ phượng người thân tươm tất, chốn lễ báinghiêm trang cho người Phật từ địa phương thực hànhđạo pháp.
V. Hoằng Pháp:
Từ ngày đến Mỹ, Hòa Thượng cùng với bào đệ đồng thời cũng là pháp đệ Thiện Tường mua căn nhà số 682 28th street, Oakland – California cải gia vi tự. Sửa sang lại biến nhà thành ngôi chùa Phật đườngphụng thờtam bảo. - Năm 1991: lễ khánh thành An Tường Tự Viên được long trọng tổ chức ngày 19 tháng 9 nhân lễ vía Quán ÂmBồ Tát, Và cũng chính trong dịp lễ quan trọng này Ngài chính thức nhận Trụ TrìAn Tường Tự Viện. - Năm 1994: tổ chức lễ lạc thành tượng đài Quan Âm lộ thiên tại Chùa Mỹ Phước – Đà Nẵng sau hơn 13 năm ngưng trệ do hoàn cảnh khó khăn mọi mặt. - Năm 2000: Đàn đầu Hòa ThượngGiới Đàn Quang Nghiêm I, Stockton, California được tổ chức trong những ngày 17, 18 và 19 tháng 9 nhân dịp lễ vía Bồ Tát Quán Thế Âm. - Năm 2001: Ngài đứng ra cổ vũ các Phật tửthân tín cúng tịnh xây mới lại Chùa Mỹ Phước tại làng Mỹ Khê – Quận Sơn Trà – TP Đà Nẵng. Ngôi Chùa kiến trúc nửa kim nửa cổ có tầm vóc trong Tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. - Năm 2005: Đàn đầu Hòa ThượngGiới Đàn Quang Nghiêm II nhân ngày vía đức PhậtThành Đạo ( 1/1/2005) Hòa Thượng cũng làm chứng mình đạo sư, y chỉ sư cho chư Tăng Ni tại miền Bắc California – Hoa Kỳ và tại Việt Nam. Tự ViệnAn Tường ngày nay là một đạo tràng mà người Phật tửtại gia có tín tâm theo pháp mônTịnh Độ do Hòa Thượng trực tiếp hướng dẫn chỉ đạo. Đi tới đâu Ngài cũng khuyến tấn người Phật Tửtinh chuyên niệm Phật cầu thoát lysanh tử luân hồi về cõi tịnh lạc Tây Phương.
VI. Trọn Thành Tâm Nguyện:
Hơn 50 năm hành đạo, Hòa Thượng đã vận dụng không ngừng huyễn thân giả tạm trong việc tu tập đạt thành tâm nguyện. Đã có lúc Ngài không màng đến thân xác, phát nguyện đốt ngón tay cúng dường Chư Phật hai lần đều trọn vẹnviên mãn. Cũng như qua hai lần chích máu tả KinhPhổ Hiền Hạnh Nguyện và Kinh A Di Đà, hai lần tịnh tu (1962 – 1966) và khổ hạnh (1975 – 1977). 25 năm (1960- 1985). Dùng ngọ và 5 năm ngủ ngồi và nhiều hạnh tu khác khó ai có thể theo kịp. Ngài quyết chí theo hạnh nguyệnBồ Tátxả thân vì đạo nên dù có mất đi một phần cơ thế, sức khỏe có suy giảm, nhưng chí kiên cường, tâm thiết thạch sáng ngời chất mà vượt qua tất cả. Xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, do vậy Ngài khuyên các đệ tử: Các con đừng sợ mà phải đối diện với tử thần từng giờ từng phút, để có thì giờ lao công phutu tập cho sâu bền.
Chính vì lẽ đó, Ngài an tường xá bảo thân tứ đại lúc 14h 00 ngày 11/12/2014 (nhằm 20/11 năm Giáp Ngọ) trụ thế 78 năm tuổi 51hạ lạp. Vâng theo lời dạy thực tế và hạnh tu cao của Thầy, đệ tử chúng con quyết khắc phục mọi nghịch cảnh thành thuận duyên trên đường tu tập, ngỏ hầu báo đápcông ơn giáo dưỡng của Thầy trong muôn một.
Nam MôLâm TếChúc Thánhtứ thậptam thếAn Tườngđường thượng thượng Đồng hạ Đạt tự Thông Đạt hiệu Thanh An giác linhHòa Thượng thùy từ chứng giám.
==========================
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT HOA KỲ
VIETNAMESE AMERICAN UNITED BUDDHIST CONGREGATION
HỘI ĐỒNGĐIỀU HÀNH
COUNCIL OF MANAGEMENT
CENTRAL OFFICE
803 S. Sullivan St., Santa Ana, CA 92704 – U.S.A. | Tel.: (714) 571-0473 * Fax: (714) 568-1009
ĐIỆN THƯ PHÂN ƯU
Kính gửi: - Ban Tổ Chức Tang Lễ Cố Hòa Thượng Thích Thanh An,
- Chư tônđức Tăng, Ni Tổ Đình Linh Sơn, Vạn Ninh, Khánh Hòa, Việt Nam
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Hội Đồng Giáo Phẩm, Hội ĐồngĐiều HànhGiáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hoa Kỳ vừa nhận được tin Trưởng LãoHòa Thượng Húy thượng Đồng hạ Đạt, Tự Thông Đạt, Hiệu Thanh An, khai sơn, trú trì Chùa An Tường, Thành Phố Oakland, California, Hoa Kỳ, đã an tườngthị tịch lúc 2 giờ chiều ngày 11 tháng 12 năm 2014, nhằm ngày 20 tháng 10 năm Giáp Ngọ, tại Chùa Mỹ Khê, Huyện Sơn Trà, Đà Nẵng, Việt Nam, trụ thế 78, lạp thọ 58.
Hội Đồng Giáo Phẩm, Hội ĐồngĐiều Hành GHPGVNTNHK nhất tâmhộ niệmGiác Linh Cố Trưởng LãoHòa Thượng Tân Viên Tịch cao đăng Phật Quốc, chứng nhậpvô sinh, bi mẫn phàm tình, hồi nhập Ta Bà, phân thânhóa độ;
Thành tâm phân ưu cùng Ban Tang Lễ, Môn ĐồPháp Quyến, và chư tônđức Tăng, Ni Tổ Đình Linh Sơn, Vạn Ninh, Khánh Hòa, Việt Nam.
Nam MôTây Phương Cực LạcThế GiớiTiếp Dẫn Đạo SưA Di Đà Phật
Thành kính phân ưu
Phật lịch 2558, Santa Ana, ngày 12 tháng 12 năm 2014
Vào lúc 15 giờ ngày 14 tháng 12 năm 2014, tại An Tường tự viện, thành phố Oakland, tiểu bang California, Hoa Kỳ, các tự viện ở miền Bắc California đã phối hợp cùng Môn đồpháp quyến tổ chức Lễ truy niệm và phát tang Hòa thượng húy thượng Đồng hạ Đạt, tự Thông Đạt, hiệu Thanh An, Viện chủAn Tường tự viện, đã viên tịch vào ngày 11 tháng 12 năm 2014 (20 tháng 10 năm Giáp Ngọ) tại Mỹ Khê, thành phố Đà Nẵng, Việt Nam. Ngài trụ thế 78 năm với 51 hạ lạp.
Chương trình Lễ truy niệm như sau:
Chư Tôn đức và Phật tử tề tựu
Lời tác bạch của Môn đồpháp quyến
Giới thiệuthành phầntham dự (Thầy Thích Từ Lực)
Tuyên đọc tiểu sửHòa thượng (Thầy Thích Nguyên Thảo)
Cảm niệm của Phật tử (Đạo hữu Hạnh Thảo)
Đạo từ của chư Tôn đức:
Hòa thượng Thích Thắng Hoan
Hòa thượng Thích Tịnh Diệu
Hòa thượng Thích Minh Đạt
Lễ thọ tang
Lễ cung tiến giác linh
Lời cảm tạ của An Tường tự viện (Thầy Thích Giác Tuệ)
Thọ trai
Buổi lễ diễn ra trong sự trang nghiêm, thành kính và đầy thương cảm của chư Tôn đức, Tăng, Ni, Phật tử và huynh trưởng Gia đìnhPhật tử đến từ nhiều thành phố ở miền Bắc California.
Là bậc Cao tăng xuất chúng, bằng trực giác mẫn tuệ, sư Đạo Sinh tự nghiệm ra một lý lẽ rất cao siêu và công khaithuyết giảng rằng ai ai cũng có Phật tính
Do niên cao lạp trưởng đã thu thần viên tịch vào lúc 02h56 phút ngày 16 tháng 4 nhuận năm Canh Tý - nhằm ngày 7 tháng 6 năm 2020 tại Thiền ViệnVạn Hạnh. Trụ thế: 84 năm, 47 hạ lạp.
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn họcPhật giáoĐại thừa với tư tưởnguyên thâm về triết học và tâm lý học.
Bài của Olaf Beuchling - đăng trên tạp chí "BUDDHISMUS Aktuell“ (Phật Giáo Ngày Nay) số 2/2020, phát hành tháng Tư, Năm, Sáu – từ trang 44 - 49 Việt dịch: Đạo Hữu THỊ CHƠN Ngô Ngọc Diệp
Dịch theo bản Anh dịch “The Enlightenment of Chiyono” của Anne Dutton, từ các trang 173-179 của sách “Zen Sourcebook: Traditional Documents from China, Korea, and Japan
Giới đàn là một nghi lễ để truyền trao giới pháp cho các giới tử là những người xuất gia theo đạo Phật. Để thành tựu được một giới đàn, phải có đủ 3 yếu tố: Tam sư, thất chứng và giới tử.
“Rốt cuộc, tôi không biết gì, không có ý định gì cả, nên cuộc đời tôi ‘không vẫn hoàn không’, không có gì đáng nhớ, đáng nói… ‘Không vẫn hoàn không’ là Phật cho, tôi mới được như vậy.”
Bài Thuyết Trình: Hành Trạng Và Sự Nghiệp của Trưởng LãoHòa Thượng THÍCH ĐÔN HẬU Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN nhân ngày Khánh Thành Chùa Đôn Hậu tại Na Uy
Vị thứ hai trong dòng những tái sinh Jamyang Khyentse là Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro, người vĩ đại đến mức thật khó để tôi thậm chí thốt lên danh hiệu của Ngài
Chúng ta nói chuyện thế kỷ 13, đó là một thời nước lớn phía Bắc không thôi kinh ngạc khi nghĩ tới nước nhỏ Đại Việt phía Nam, cả về quân sự và Phật pháp.
Tây Tạngxưa nay là xứ huyền bí. Đó là vùng đất thường được gọi là mái nhà của thế giới, nơi sản sinh ra nhiều bậc thánh giảsiêu việt, mà ngài Lạt Matái sinh Zong Rinpoche là một trong những hình ảnhtiêu biểu.
GS Tenzin nói, những kinh nghiệm đó cho anh thực hiệnnhiệm vụ thông dịch khá là tuyệt vời. Đối với một người thông dịch nào không quen thuộc với Đức Đạt Lai Lạt Ma, công việc như thế sẽ rất là khó.
Sư côThích Nữ Chủng Hạnh sanh ngày 12 tháng 8 năm 1933. Do tuổi cao sức yếu, đã thâu thần thuận tịch vào ngày 07 tháng 11 năm 2018. Trụ thế: 86 năm, Hạ lạp: 07 năm.
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường cho Phật...
Sư bà Nguyên Thanhthế danh Lê Thị Quan, sanh năm1944, tại Quy Nhơn, là con gái thứ ba trong năm người con của ông Lê Đức Khánh và bà Trần Thị Quýt, làng Phú Nhơn, xã Cát Trinh, khuyện Phù cát, tỉnh Bình Định.
Chương Trình Lễ Tang sẽ được tổ chức lúc 5 giờ chiều Thứ Bảy ngày 4 tháng 8 năm 2018 và Chủ Nhật ngày 5 tháng 8 năm 2018, tại Đạo TràngNhân Quả, 10801 Trask Ave, Garden Grove, CA 92843
Hòa Thượng Thích Thiện Hữu thế danh Nguyễn Hữu Nghĩa thượng Như hạ Lễ tự Viên Nhơn, hiệu Thiện Hữu sinh năm Giáp Thân (1944) tại xã Nhơn Khánh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Định.
Khó hình dung rằng một phụ nữ Anh đang phụ trách về kế toán trong một công ty quản trị quỹ đầutư đa quốc bỗng nhiên trở thành một vị ni sư theo truyền thốngTây Tạng
Chỉ cần, đối cảnh vô tâm, hay cứ để mặc cho các pháp được thấy như là được thấy, được nghe như là được nghe… Và đó là Thiền Tông: không một pháp nào để làm.
Thupten Jinpa là một cựu tăng sĩ, hoàn tục để lập gia đình, trở thành một tác giả, và trong 30 năm qua, là người thông dịch chính về tiếng Anh cho Đức Đạt Lai Lạt Ma.
Đại LễTri Ân nhị vị Hòa ThượngTrưởng Lão của Giáo Hội là Trưởng Lão Tăng Giáo Trưởng HT Thích Huyền Tôn và Trưởng LãoChứng MinhĐạo Sư HT Thích Như Huệ.
Dẫu là một ông vua, cai trị một đế chế rộng lớn, quyền uysinh sát trong tay, nhưng kỳ thực A Dục Vương vẫn là một đệ tử Phật, một tín đồthuần thành của Phật Giáo.
Thiền sưBẠCH ẨN HUỆ HẠC (Hakuin Ekaku), thế danh Iwajiro (Nham Thứ Lang, nghĩa là cậu bé đá), quê tại Hara, tỉnh Suruga, thị trấn Numazu, hạt Shizuoka, Nhật Bản.
Trưởng lãoHòa Thượng vừa thâu thần viên tịch tại Tổ đình Từ Quang, thành phố Montreal, Canada, lúc 10g15 thứ Năm, ngày 20-8-2015, trụ thế 95 tuổi đời, 74 Hạ Lạp
Ngài Huyền Trang theo truyện Tây Du không gọi là Huyền Trang mà kêu là Tam tạng thỉnh kinh hay Đường Tăng. Trong sách nói đủ là Tam tạng Pháp sưHuyền Trang.
Có một người đã cắt bỏ được sợi dây ràng buộc của gia đình để sống theo tăng đoàn của đức Phật và cống hiến trọn cuộc sống của mình cho công cuộc hoằng dương Phật pháp, đó là Tôn GiảPhú Lâu Na.
Huệ Viễnđại sư họ Cổ, nguyên quán xứ Lâu Phiền ở Nhạn Môn thuộc tỉnh Sơn Tây. Ngài sanh tại Thạch Triệu, năm Giáp Ngọ, vào niên hiệu Diên Hy đời vua Thành Đế nhà Tấn.
Đức Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ (1909 - 1984), Đệ nhất Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN là bậc cao tăng có những cống hiến to lớn đối với Đạo pháp và Dân tộc
Phật giáoBắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đíchtiến tu. Dù là tu sĩxuất gia hay cư sĩtại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
Từng nghe, lòng dạ kiên trinh, ý chívững bền, khí tiết đặc biệt đâu phải hoàn toàn do bẩm tính tự nhiên mà phải dốc lòng kính ngưỡng, noi theo những bậc có đức hạnh cao vời.
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
SB Diệu Không thế danh là Hồ Thị Hạnh, húy là thượng Trừng hạ Hảo, hiệu là Nhất Điểm Thanh. Sư Bà sinh năm 1905, con gái Út của Cụ Hồ Đắc Trung và Cụ Châu Thị Lương, làng an Truyền, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên.
Hòa Thượng thế danh là Nguyễn Văn Kính, sanh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão, nhằm ngày 17 tháng 12 năm 1891, tại làng Dưỡng Mong Thượng, tổng Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.