Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cảm niệm Đản Sanh

03 Tháng Mười 201000:00(Xem: 13713)
Cảm niệm Đản Sanh

Mỗi năm cứ đến ngày trăng tròn tháng tư là mọi người con Phật khắp năm châu bốn bể chuẩn bị bằng nhiều hình thức khác nhau để đón mừng ngày Thị Hiện của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni. Điều ấy đã nói lên được sự ngưỡng mộ và quy hướng về đấng toàn giác. Mặc dầu thời gian hơn 2.500 năm lịch sử đó đã làm phai mờ không biết bao nhiêu dấu tích phế hưng của bao triều đại trên quả địa cầu nầy.

Đức Phật ra đời - như trong kinh Pháp Hoa nói - chỉ vì một đại sự nhân duyên lớn. Đó là: "Mở bày cho chúng sanh hiểu để vào tri kiến Phật". Chỉ chừng ấy nguyên nhân thôi; nhưng đã bao trùm khắp vũ trụ hoàn vũnhân sinh quan của Phật Giáo.

Lần lại những trang sử ngày xưa ta thấy rõ được điều đó. Cách đây 1.358 năm, Pháp Sư Huyền Trang, Người đã ra đi vào đời nhà Đường, nhằm năm Trinh Quán thứ 3 (628). Lúc ấy Ngài đã 33 tuổi. Sau 17 năm lặn lội với gió sương nơi đất Phật. Ngài đã về lại kinh đô Trường An với 657 bộ kinh điển bằng chữ Phạn vào năm 646. Sau đó chính tay Ngài đã viết một quyển tương đối quan trọng vào năm Trinh Quán thứ 20 (646). Đó là quyển "Đại Đường Tây Vức Ký" nhằm ghi lại cuộc hành trình khó nhọc của Ngài trong khi Ngài ở tại Ấn Độ. Khi Ngài đến Ấn Độ, đã cách Phật nhập diệt 1.172 năm (2548 - 1376 năm) và cách chúng ta ngày nay là 1.358 năm (2004 - 646 năm). Như vậy những gì mà Ngài đã mắt thấy tai nghe, tương đối có thể tin tưởng được và chính nhờ vào tập hồi ký nầy mà các nhà khảo cổ học người Anh, người Đức vào cuối thế kỷ thứ 19 đã căn cứ vào đây để tìm lại những thánh tích như: Đản Sanh, Thành Đạo, Thuyết Pháp lần đầu tiên, Nhập Đại Bát Niết Bàn v.v... Cuối cùng đã được chứng minh Đức Thích Ca là một nhân vật lịch sử có thật và Ngài Huyền Trang cũng là con người có thật, rất vĩ đại, đã được thế giới tôn thờ.

Nhân ngày Đản Sanh lần thứ 2548 của Ngài, ta thử trở về với những sự ghi chép của Ngài Huyền Trang thuở ấy, để tìm lại cái thấy biết của người xưa. "Tiếp đến ở phía đông có một Bảo Tháp do vua A Dục dựng nên. Nơi đây có 2 con rồng phun nước tắm Thái Tử. Sau khi Bồ Tát sanh, liền tự đi không cần nâng đỡ. Ngài đi bốn hướng, mỗi hướng bảy bước và tự nói rằng: "Thiên Thượng Thiên Hạ Duy Ngã Độc Tôn. Đây là lần sanh cuối cùng của ta". Tự nhiên dưới chân mọc lên những đóa hoa lớn, rồi hai con rồng bỗng nhiên xuất hiện từ hư không cùng phun nước xuống, một vòi nước lạnh, một vòi nước ấm để tắm cho Thái Tử...". (Trích Đại Đường Tây Vức Ký, trang 205 - sắp xuất bản).

Ở đây chúng ta có thể phân tích từng sự kiện một, để nhận chân được lịch sử nầy. Vua A Dục (270 trước Thiên Chúa) đã thống nhất giang sơn Ấn Độ và sau đó quy y với Đạo Phật, trở thành một vị Phật Tử hộ pháp rất thuần thành, so ra cổ kim ít ai sánh kịp. Ông sanh cách Phật độ 300 năm và ông đã phát nguyện dựng 84.000 chùa tháp để ghi lại những Thánh Tích nơi Phật và thánh chúng đã trải qua cuộc đời tu luyện của mình. Nhờ thế khi Ngài Huyền Trang sang chiêm bái Ấn Độ vào năm 628. Nghĩa là cách vua A Dục hơn 900 năm; những thánh tích ấy vẫn còn. Nhờ vậy mà Ngài mới có thể viết được tác phẩm "Đại Đường Tây Vức Ký" rõ ràng như thế.

Khi sanh ra, Thái Tử được tắm bởi 2 con rồng từ hư không xuất hiện. Một vòi nước nóng và một vòi nước lạnh. Đây là sự cảm hóa của Thái Tử với chư ThiênThiên Đế Thích mới có sự cảm động và tạo nên những nghĩa cử như vậy. Rồi tự dưng những đóa sen mọc lên dưới chân của Thái Tử. Điều ấy cũng dễ hiểu thôi. Vì Địa Thần đã hoan hỷ, vì có một bậc giác ngộ đã ra đời. Do vậy Địa Thần cũng cúng dường những gì trân quý nhất mà mình đang có. Bồ Tát khi sanh ra tự đi, vì có Tứ Thiên Vương nâng chân, đỡ tay và Ngài đã đi bốn hướng, đông, tây, nam, bắc. Chứ không phải chỉ một hướng, như lâu nay chúng ta vẫn thường biết và mỗi hướng như vậy đi bảy bước trên bảy đóa sen và tự nói rằng: "Trên trời dưới đất chỉ có cái ta là đáng nói hơn cả. Đây là lần sanh cuối cùng của ta". Quả thật chỉ có những bậc giác ngộ mới có thể thốt ra điều đó. Vì các Ngài đã biết mình là ai; nên khi nói ra điều gì là đảm bảo điều đó, ít có bị thay đổi bởi thời gian và năm tháng.

Khi Thái Tử sanh ra thì nhạc trời chúc tụng, quả đất rung động. Vì lẽ một bậc vĩ nhân, một đấng toàn giác, khác người thường là vậy. Ta sinh ra đời vì bị vô minhnghiệp lực chi phối. Còn Bồ Tát và những vĩ nhân của nhân loại khi sinh ra đời vì tự chọn nghiệp mà đầu thai vào để thay thế cái khổ của chúng sanh. Sự khác nhau nằm ở chỗ nầy và Bồ Tát cũng như chúng sanh mặc dầuPhật tánhbình đẳng; nhưng một bên là do nguyện lựcthành tựu; còn một bên là do nghiệp lực dẫn dắt, thì kết quả dĩ nhiên nó chẳng hoàn toàn giống nhau được.

Cũng trong "Đại Đường Tây Vức Ký" trang 131 quyển thứ 4 có đoạn Ngài Huyền Trang tường thuật rằng:

"Lấy tâm để cứu người tức là được việc, đừng quên vấn đề ấy. Đừng lấy vật để cứu tâm.

Lấy tâm mà cứu vật thì được mất đều quên; còn lấy vật để cứu tâm thì buồn vui lại hiện đến".

Quả đúng như thế - Làm Vua là bậc nhân chủ của thiên hạ. Nếu nhà Vua lấy cái tâm đại từ để ban vui cứu khổ cho muôn loài thì muôn họ được nhờ, mà cái đức ấy sẽ cảm hóa đến đất trời vạn vật. Còn nếu cậy thế ỷ quyền là Vua để đi sát phạt kẻ khác; chẳng khác nào lấy vật, vốn nó vô tri để đi cứu cái tâm cống cao ngã mạn của mình, quả là buồn vui sẽ đến. Khi Bồ Tát cứu người, dùng cái tâm Đại Bi để cứu thì được mất đều quên. Vì Bồ Tát làm với cái tâm vô vụ lợi. Còn đại đa số quần sanh muốn củng cố quyền hành địa vị của mình nên đã dùng tài sản của cải để đi bảo vệ sự hư hỏng của tâm mình. Cũng là hai việc làm mà kết quả của 2 việc lại khá khác nhau. Do vậy khi Bồ Tát móng tâm, tất cả đều vì sự lợi ích của chúng sanh. Còn khi chúng sanh móng tâm, hầu như bị sân siphiền não chi phối. Cho nên kết quả của 2 việc làm kia không bao giờ giống nhau. Vì Bồ Tát bao giờ cũng sợ nhân. Còn chúng sanh thì luôn luôn sợ quả. Còn nhân không bao giờ lưu ý đến.

Ngày Đức Phật ra đời mang lại không biết bao nhiêu niềm vui cho nhân thế. Trời người đều hoan lạc và cây cỏ cũng được nhờ. Côn trùng cũng có cơ hội trỗi lên những bản nhạc thanh tao nhằm cúng dường một bậc Đại Giác. Loài người lúc ấy nơi cõi Nam Diêm Phù Đề nầy cũng đã hớn hở mừng vui. Vì có một bậc Thầy của nhân loại đã xuất hiện. Cho nên Đạo sĩ A Tư Đà vốn thần thức đã nhập Thiên Cung mà còn phải trở lại chốn hoàng triều để ra mắt và đoán tướng cho Thái Tử.

Ở về phía Đông của Ấn Độ; nơi xứ Trung Quốc lúc bấy giờ có Khổng Phu Tử là một nhà hiền triết của Trung Hoa, sanh cùng thời với Đức Phật đã thốt lên rằng: "Ta nghe như phương Tây mặt đất đang chuyển động". Tất cả những sự kiện ấy báo hiệu một bậc giác ngộ đã ra đời và các bậc Đạo sĩ, Vĩ nhân trên thế gian nầy đều cảm nhận được.

Phật, Bồ Tát đang ngự nơi chín phẩm liên hoa. Còn chúng ta vẫn mãi chìm đắm nơi luân hồi sanh tử. Nếu chúng ta không hạ thủ công phu, trau giồi giới định tuệ thì bản hoài của chư Phật khi thị hiện ra đời vẫn còn xa xôi dịu vợi lắm. Biết bao giờ chúng ta mới nắm bắt và tắm gội được trong tri kiến Phật ấy. Do đó ngày Phật Đản về cũng là ngày nhắc nhở chúng ta phải hành trì nhiều hơn nữa, nhằm làm sáng tỏ trí giác ngộ ấy vốn sẵn có nơi tự tâm của mỗi người.

Mỗi một sát na đều luôn luôn biến diệt, đổi thay, không có gì đứng yên một chỗ. Cho nên Ngài Long Thọ đã nói trong Nhân Minh Luận rằng: "Quá khứ là những gì đã qua, vị lai là những gì chưa đến. Còn hiện tại đang biến đổi sinh diệt trong từng sát na". Cho nên chúng ta phải ý niệm vấn đề nầy để phải tôi luyện cái tâm của mình nhiều hơn nữa. Kẻo bị vô thường sanh diệt chi phối thì chúng ta khó có cơ hội để biết mình là ai.

Cầu Phật gia hộ cho tất cả chúng ta.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1451)
Thông thường, người thực hành đạo Phật tìm cách tránh thoát cái vô thường, cái sanh diệt để chứng nhập cái không vô thường, cái không sanh không diệt.
(Xem: 1739)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(Xem: 1712)
Con người thường có quan điểm: “mạng sống, sự sống của con ngườivô giá, là giá trị nhất so với sự sống của muôn ngàn loài khác”
(Xem: 1561)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
(Xem: 1611)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
(Xem: 1456)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1852)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1616)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
(Xem: 1399)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1682)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 2250)
Quán tưởngphương pháp Phật tử áp dụng hằng ngày, luyện cả thân tâm, đem lại sự hòa hợp giữa tinh thầnvật chất, giữa con ngườithiên nhiên.
(Xem: 1939)
Hành động phản ánh được ý thức, tính cách của mỗi người, lời nói, suy nghĩ thế nào sẽ biểu hiện ra hành động như thế đó,
(Xem: 1302)
Hôm ra mắt đợt đầu 29 cuốn của Thanh Văn Tạng trong công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hội Đồng Hoằng PhápHội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời tổ chức tại Little Saigon, Miền Nam California, Hoa Kỳ, vào ngày 19 tháng 3 năm 2023
(Xem: 1477)
Đạo Phật được biết đến như một tôn giáo hiền hòa nhất và điều đặc biệtcuộc đời vị lãnh đạo tinh thần tối cao của đạo Phật gắn liền với những cái cây.
(Xem: 1472)
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành - trụ - hoại - không.
(Xem: 1761)
Dĩ nhiên là người phàm chúng ta không ai thấy được địa ngục, trừ Đức Phật và các bậc Thánh La-hán.
(Xem: 1526)
ghiệp là tất cả những hành động có tác ý, biểu hiện thường xuyên bằng thân, khẩu, hay ý.
(Xem: 1401)
Phật giáo không chỉ chủ trương từ bi đối với con người, tôn trọng đối với mọi sinh mệnh mà còn phải bảo vệ môi trường sống thiên nhiên,
(Xem: 1538)
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật,
(Xem: 1474)
Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo.
(Xem: 1796)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có một cái “Tôi” và tính chấp thủ, nhưng có người ý thứcquán chiếu được điều đó
(Xem: 1501)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1467)
Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể.
(Xem: 1469)
quan niệm rằng người có danh phận, giàu sang là do phước và cúng dường, hộ trì người có phước thì được phước nhiều hơn?
(Xem: 1537)
Hai từ chiến tranh, không ai trong chúng ta là không nghe đến. Trong quá khứ đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xảy ra trên quả địa cầu nầy,
(Xem: 1731)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm",
(Xem: 1619)
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện.
(Xem: 1564)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1447)
Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền!
(Xem: 1546)
Đối trong nhà Phật thì thế gian gồm có khí thế gianchúng sanh thế gian.
(Xem: 1319)
Đây là một trường hợpThiền sư Thích Nhất Hạnhcộng đồng của Thầy đã thay đổi cuộc đời của một người.
(Xem: 2035)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1429)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(Xem: 1572)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(Xem: 2980)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1572)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(Xem: 1758)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(Xem: 1617)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 2084)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(Xem: 1616)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1805)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 2018)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(Xem: 2196)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(Xem: 1687)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(Xem: 2647)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(Xem: 1740)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1919)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1870)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(Xem: 1673)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2402)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant