Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Cảm niệm Đản Sanh

03 Tháng Mười 201000:00(Xem: 15940)
Cảm niệm Đản Sanh

Mỗi năm cứ đến ngày trăng tròn tháng tư là mọi người con Phật khắp năm châu bốn bể chuẩn bị bằng nhiều hình thức khác nhau để đón mừng ngày Thị Hiện của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni. Điều ấy đã nói lên được sự ngưỡng mộ và quy hướng về đấng toàn giác. Mặc dầu thời gian hơn 2.500 năm lịch sử đó đã làm phai mờ không biết bao nhiêu dấu tích phế hưng của bao triều đại trên quả địa cầu nầy.

Đức Phật ra đời - như trong kinh Pháp Hoa nói - chỉ vì một đại sự nhân duyên lớn. Đó là: "Mở bày cho chúng sanh hiểu để vào tri kiến Phật". Chỉ chừng ấy nguyên nhân thôi; nhưng đã bao trùm khắp vũ trụ hoàn vũnhân sinh quan của Phật Giáo.

Lần lại những trang sử ngày xưa ta thấy rõ được điều đó. Cách đây 1.358 năm, Pháp Sư Huyền Trang, Người đã ra đi vào đời nhà Đường, nhằm năm Trinh Quán thứ 3 (628). Lúc ấy Ngài đã 33 tuổi. Sau 17 năm lặn lội với gió sương nơi đất Phật. Ngài đã về lại kinh đô Trường An với 657 bộ kinh điển bằng chữ Phạn vào năm 646. Sau đó chính tay Ngài đã viết một quyển tương đối quan trọng vào năm Trinh Quán thứ 20 (646). Đó là quyển "Đại Đường Tây Vức Ký" nhằm ghi lại cuộc hành trình khó nhọc của Ngài trong khi Ngài ở tại Ấn Độ. Khi Ngài đến Ấn Độ, đã cách Phật nhập diệt 1.172 năm (2548 - 1376 năm) và cách chúng ta ngày nay là 1.358 năm (2004 - 646 năm). Như vậy những gì mà Ngài đã mắt thấy tai nghe, tương đối có thể tin tưởng được và chính nhờ vào tập hồi ký nầy mà các nhà khảo cổ học người Anh, người Đức vào cuối thế kỷ thứ 19 đã căn cứ vào đây để tìm lại những thánh tích như: Đản Sanh, Thành Đạo, Thuyết Pháp lần đầu tiên, Nhập Đại Bát Niết Bàn v.v... Cuối cùng đã được chứng minh Đức Thích Ca là một nhân vật lịch sử có thật và Ngài Huyền Trang cũng là con người có thật, rất vĩ đại, đã được thế giới tôn thờ.

Nhân ngày Đản Sanh lần thứ 2548 của Ngài, ta thử trở về với những sự ghi chép của Ngài Huyền Trang thuở ấy, để tìm lại cái thấy biết của người xưa. "Tiếp đến ở phía đông có một Bảo Tháp do vua A Dục dựng nên. Nơi đây có 2 con rồng phun nước tắm Thái Tử. Sau khi Bồ Tát sanh, liền tự đi không cần nâng đỡ. Ngài đi bốn hướng, mỗi hướng bảy bước và tự nói rằng: "Thiên Thượng Thiên Hạ Duy Ngã Độc Tôn. Đây là lần sanh cuối cùng của ta". Tự nhiên dưới chân mọc lên những đóa hoa lớn, rồi hai con rồng bỗng nhiên xuất hiện từ hư không cùng phun nước xuống, một vòi nước lạnh, một vòi nước ấm để tắm cho Thái Tử...". (Trích Đại Đường Tây Vức Ký, trang 205 - sắp xuất bản).

Ở đây chúng ta có thể phân tích từng sự kiện một, để nhận chân được lịch sử nầy. Vua A Dục (270 trước Thiên Chúa) đã thống nhất giang sơn Ấn Độ và sau đó quy y với Đạo Phật, trở thành một vị Phật Tử hộ pháp rất thuần thành, so ra cổ kim ít ai sánh kịp. Ông sanh cách Phật độ 300 năm và ông đã phát nguyện dựng 84.000 chùa tháp để ghi lại những Thánh Tích nơi Phật và thánh chúng đã trải qua cuộc đời tu luyện của mình. Nhờ thế khi Ngài Huyền Trang sang chiêm bái Ấn Độ vào năm 628. Nghĩa là cách vua A Dục hơn 900 năm; những thánh tích ấy vẫn còn. Nhờ vậy mà Ngài mới có thể viết được tác phẩm "Đại Đường Tây Vức Ký" rõ ràng như thế.

Khi sanh ra, Thái Tử được tắm bởi 2 con rồng từ hư không xuất hiện. Một vòi nước nóng và một vòi nước lạnh. Đây là sự cảm hóa của Thái Tử với chư ThiênThiên Đế Thích mới có sự cảm động và tạo nên những nghĩa cử như vậy. Rồi tự dưng những đóa sen mọc lên dưới chân của Thái Tử. Điều ấy cũng dễ hiểu thôi. Vì Địa Thần đã hoan hỷ, vì có một bậc giác ngộ đã ra đời. Do vậy Địa Thần cũng cúng dường những gì trân quý nhất mà mình đang có. Bồ Tát khi sanh ra tự đi, vì có Tứ Thiên Vương nâng chân, đỡ tay và Ngài đã đi bốn hướng, đông, tây, nam, bắc. Chứ không phải chỉ một hướng, như lâu nay chúng ta vẫn thường biết và mỗi hướng như vậy đi bảy bước trên bảy đóa sen và tự nói rằng: "Trên trời dưới đất chỉ có cái ta là đáng nói hơn cả. Đây là lần sanh cuối cùng của ta". Quả thật chỉ có những bậc giác ngộ mới có thể thốt ra điều đó. Vì các Ngài đã biết mình là ai; nên khi nói ra điều gì là đảm bảo điều đó, ít có bị thay đổi bởi thời gian và năm tháng.

Khi Thái Tử sanh ra thì nhạc trời chúc tụng, quả đất rung động. Vì lẽ một bậc vĩ nhân, một đấng toàn giác, khác người thường là vậy. Ta sinh ra đời vì bị vô minhnghiệp lực chi phối. Còn Bồ Tát và những vĩ nhân của nhân loại khi sinh ra đời vì tự chọn nghiệp mà đầu thai vào để thay thế cái khổ của chúng sanh. Sự khác nhau nằm ở chỗ nầy và Bồ Tát cũng như chúng sanh mặc dầuPhật tánhbình đẳng; nhưng một bên là do nguyện lựcthành tựu; còn một bên là do nghiệp lực dẫn dắt, thì kết quả dĩ nhiên nó chẳng hoàn toàn giống nhau được.

Cũng trong "Đại Đường Tây Vức Ký" trang 131 quyển thứ 4 có đoạn Ngài Huyền Trang tường thuật rằng:

"Lấy tâm để cứu người tức là được việc, đừng quên vấn đề ấy. Đừng lấy vật để cứu tâm.

Lấy tâm mà cứu vật thì được mất đều quên; còn lấy vật để cứu tâm thì buồn vui lại hiện đến".

Quả đúng như thế - Làm Vua là bậc nhân chủ của thiên hạ. Nếu nhà Vua lấy cái tâm đại từ để ban vui cứu khổ cho muôn loài thì muôn họ được nhờ, mà cái đức ấy sẽ cảm hóa đến đất trời vạn vật. Còn nếu cậy thế ỷ quyền là Vua để đi sát phạt kẻ khác; chẳng khác nào lấy vật, vốn nó vô tri để đi cứu cái tâm cống cao ngã mạn của mình, quả là buồn vui sẽ đến. Khi Bồ Tát cứu người, dùng cái tâm Đại Bi để cứu thì được mất đều quên. Vì Bồ Tát làm với cái tâm vô vụ lợi. Còn đại đa số quần sanh muốn củng cố quyền hành địa vị của mình nên đã dùng tài sản của cải để đi bảo vệ sự hư hỏng của tâm mình. Cũng là hai việc làm mà kết quả của 2 việc lại khá khác nhau. Do vậy khi Bồ Tát móng tâm, tất cả đều vì sự lợi ích của chúng sanh. Còn khi chúng sanh móng tâm, hầu như bị sân siphiền não chi phối. Cho nên kết quả của 2 việc làm kia không bao giờ giống nhau. Vì Bồ Tát bao giờ cũng sợ nhân. Còn chúng sanh thì luôn luôn sợ quả. Còn nhân không bao giờ lưu ý đến.

Ngày Đức Phật ra đời mang lại không biết bao nhiêu niềm vui cho nhân thế. Trời người đều hoan lạc và cây cỏ cũng được nhờ. Côn trùng cũng có cơ hội trỗi lên những bản nhạc thanh tao nhằm cúng dường một bậc Đại Giác. Loài người lúc ấy nơi cõi Nam Diêm Phù Đề nầy cũng đã hớn hở mừng vui. Vì có một bậc Thầy của nhân loại đã xuất hiện. Cho nên Đạo sĩ A Tư Đà vốn thần thức đã nhập Thiên Cung mà còn phải trở lại chốn hoàng triều để ra mắt và đoán tướng cho Thái Tử.

Ở về phía Đông của Ấn Độ; nơi xứ Trung Quốc lúc bấy giờ có Khổng Phu Tử là một nhà hiền triết của Trung Hoa, sanh cùng thời với Đức Phật đã thốt lên rằng: "Ta nghe như phương Tây mặt đất đang chuyển động". Tất cả những sự kiện ấy báo hiệu một bậc giác ngộ đã ra đời và các bậc Đạo sĩ, Vĩ nhân trên thế gian nầy đều cảm nhận được.

Phật, Bồ Tát đang ngự nơi chín phẩm liên hoa. Còn chúng ta vẫn mãi chìm đắm nơi luân hồi sanh tử. Nếu chúng ta không hạ thủ công phu, trau giồi giới định tuệ thì bản hoài của chư Phật khi thị hiện ra đời vẫn còn xa xôi dịu vợi lắm. Biết bao giờ chúng ta mới nắm bắt và tắm gội được trong tri kiến Phật ấy. Do đó ngày Phật Đản về cũng là ngày nhắc nhở chúng ta phải hành trì nhiều hơn nữa, nhằm làm sáng tỏ trí giác ngộ ấy vốn sẵn có nơi tự tâm của mỗi người.

Mỗi một sát na đều luôn luôn biến diệt, đổi thay, không có gì đứng yên một chỗ. Cho nên Ngài Long Thọ đã nói trong Nhân Minh Luận rằng: "Quá khứ là những gì đã qua, vị lai là những gì chưa đến. Còn hiện tại đang biến đổi sinh diệt trong từng sát na". Cho nên chúng ta phải ý niệm vấn đề nầy để phải tôi luyện cái tâm của mình nhiều hơn nữa. Kẻo bị vô thường sanh diệt chi phối thì chúng ta khó có cơ hội để biết mình là ai.

Cầu Phật gia hộ cho tất cả chúng ta.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 326)
Bài này được viết với chủ đề ghi lời Đức Phật dạy rằng hãy giữ thân không bệnh, để có thể học và tu pháp giải thoát.
(Xem: 298)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn, sau khi Ngài ly thế, cũng chính là vào thời kỳ Mạt pháp thì
(Xem: 411)
Đạo đức không còn là một khái niệm, một lời kêu gọi ‘hãy sống thiện’, một giá trị lý tưởng cao xa, mà là một thực thể cụ thể, ăn được, uống được, thu nạp được, và ăn uống được nên mới “say”.
(Xem: 496)
Quan điểm cho rằng tâm trí của chúng ta có chiều sâu vô thức đã trở nên phổ biến do sự phổ biến của phân tâm học và các kỹ thuật trị liệu liên quan.
(Xem: 652)
Trong kinh điển Phật giáo, từ Hán tạng cho đến Nikāya nói chung, thật sự không quá khó để tìm thấy những cụm từ liên quan đến một phương tiện
(Xem: 627)
Người học Phật, chẳng những phải tham cứu chơn lý, mà lại cần phải y như chơn-lý mà thiệt thành cho đến khi chứng đặng chơn-lý;
(Xem: 652)
Phật tánh là chủ đề chính của Kinh Đại Bát Niết Bàn do ngài Đàm Vô Sấm (385 – 433) mang qua Trung Hoa và dịch.
(Xem: 755)
Đôi khi bạn rơi vào một diễn đàn Phật pháp trên Internet, bất ngờ lại thấy tranh cãi bộ phái, rằng chuyện Nam Tông thế này và Bắc Tông thế kia
(Xem: 873)
Trong giáo lý nhà Phật, "kham nhẫn" và "nhẫn nhục" là hai phạm trù rất quan trọng trong việc tu tập.
(Xem: 702)
Phật giáo cũng như vận mệnh của người dân, luôn thăng trầm theo thời cuộc.
(Xem: 774)
Hãy buông xả và cuộc sống của bạn sẽ tốt hơn. Một kỹ năng sống không thể thiếu.
(Xem: 683)
Từ thời học tiểu học, trong mỗi cuốn vở đều thấy có in dòng chữ “Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời”.
(Xem: 1218)
Tôi không dám so sánh vì ai cũng có cuộc du hành cuối đời, tôi đã khá xúc động mạnh khi đọc kinh Đại Bát Niết Bàn hồi còn trẻ, nhưng hiện tại tôi đang tưởng niệm và cảm xúc đến Thầy tôi nên xin viết ra đây để kỷ niệm.
(Xem: 720)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 746)
Năm ấy Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Nguyên hoằng pháp. Ngài gặp Lương Võ Đế, một ông vua có tiếng sùng đạo, mến mộ Phật pháp.
(Xem: 1224)
Có khi nào bạn hỏi: “Tại sao khi càng lớn tuổi, người ta càng thích sống một mình và bớt đi nhiều mối quan hệ?”
(Xem: 1301)
Sâu thẳm bên trong tất cả chúng sinh là một loại tia lửa thắp sáng và sưởi ấm cuộc sống của chúng ta. Nó được gọi bằng nhiều tên trong nhiều truyền thống khác nhau.
(Xem: 1097)
Chúng con trân trọng kính mời quý vị tham gia một Ngày Quán Niệm với chủ đề “Tháng Tư Nuôi Dưỡng và Trị Liệu” dành cho các tăng thân người Việt do quý thầy và sư cô của Tu Viện Lộc Uyểnhướng dẫn tại Quận Cam.
(Xem: 1423)
Có khi nào bạn hỏi: “Tại sao khi càng lớn tuổi, người ta càng thích sống một mình và bớt đi nhiều mối quan hệ?”
(Xem: 1347)
Sâu thẳm bên trong tất cả chúng sinh là một loại tia lửa thắp sáng và sưởi ấm cuộc sống của chúng ta.
(Xem: 924)
Bản kinh dưới đây là “Bahiya Sutta,” trong Tiểu Bộ Kinh (Khuddhaka Nikaya) trong Tam Tạng Pali,
(Xem: 1577)
Tứ Như Ý Túc, là pháp hành thứ ba, đứng sau Tứ Niệm XứTứ Chánh Cần. Sau Tứ Như Ý TúcNgũ Căn, Ngũ Lực,
(Xem: 1319)
Sự kiện Đức Phật nhập Niết-bàn thường được các giới Phật giáo tổ chức thành một lễ hội thiêng liêng.
(Xem: 923)
Chúng ta hành thiền để tìm hạnh phúc, nhưng trước hết chúng ta phải mang chút hạnh phúc đến với thiền nếu ta muốn có kết quả.
(Xem: 1379)
Hộ niệm hay giáo hóa cho người bệnh sắp chết là pháp hành quan trọng và phổ biến trong thời đại Thế Tôn. Pháp tu này
(Xem: 939)
Chúng ta hành thiền để tìm hạnh phúc, nhưng trước hết chúng ta phải mang chút hạnh phúc đến với thiền nếu ta muốn có kết quả.
(Xem: 1445)
Tứ Như Ý Túc, là pháp hành thứ ba, đứng sau Tứ Niệm XứTứ Chánh Cần.
(Xem: 1418)
Bộ Cao Tăng truyện của nhà sử học Phật giáo cao tăng Huệ Kiểu (497-554) là bộ sử liệu quan trọng
(Xem: 867)
Trong Kinh Từ Bi (Metta Sutta). Đức Phật liệt kê mười lăm điều kiện thiện lành, tạo nên sự bình an bên trong, và đưa chúng ta đến lòng từ bi.
(Xem: 882)
Khi đa số người trong một xã hội không có niềm tin về chính mình, không biết “tôi là ai”,
(Xem: 1903)
Trong cuộc sống chúng ta thường lẫn lộn giữa thực tếước mơ, thế nhưng ước mơ cũng có thể giúp chúng ta nhìn vào thực tế một cách thực tế hơn
(Xem: 1674)
Sau thực phẩm, ngôn ngữ là nguồn nước của dòng chảy văn hóa trong đó văn là vẻ đẹp (văn vẻ), hóa là sự thay đổi.
(Xem: 1384)
Trong cuộc sống chúng ta thường lẫn lộn giữa thực tếước mơ, thế nhưng ước mơ cũng có thể giúp chúng ta nhìn vào thực tế
(Xem: 1945)
Đức Phật đã từng xác định pháp tu Tứ Niệm Xứ là “Con đường độc nhất đưa đến: Thanh tịnh chúng sanh; Vượt khỏi sầu não;
(Xem: 1905)
Khi nào bạn thấy tâm và cảnh vốn là không, bạn sẽ thấy bất kỳ nơi nào cũng là Niết Bản.
(Xem: 1828)
“Tâm linh” vốn là cụm từ mà đối với nhiều người vẫn xem đó là những gì thuộc về thế giới siêu linh, huyền bí, thuộc về cõi âm.
(Xem: 1939)
Phát xuất từ lời Phật dạy trên đây mà ngài Châu Hoằng nhắc nhở các Sa di không được nghe lén Tỷ kheo tụng giới.
(Xem: 1623)
Ngay cả khi con trẻ không hiểu ý nghĩa, việc quy y vẫn có thể giúp chúng phát triển nghiệp duyên với Pháp.
(Xem: 1099)
Trong thực tế đời sống, có những vấn đề lặp lại thường gắn với sự đơn diệu tẻ nhạt,
(Xem: 2089)
Duy thức tam thập tụng là một bộ trước tác rất trọng yếu trong pháp tướng duy thức, còn là cương lĩnhyếu chỉ của duy thức học.
(Xem: 2109)
Phi-bạo-lực là một giải pháp thực tế trước các sự xung đột trong thời đại của chúng ta.
(Xem: 1645)
Phật tử chúng ta thường đặt hoa trên bàn thờ. Chúng ta biết hoa rất đẹp, nhưng đó không phải là mục đích chúng ta đặt chúng ở đấy.
(Xem: 2077)
Bài này sẽ viết trong tinh thần đối chiếu Kinh Pháp Cú với Thiền Tông.
(Xem: 1321)
Bên ngoài trời đã lạnh. Ra ngoài phải khoác thêm áo ấm; trong nhà phải vặn lò sưởi.
(Xem: 1380)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương.
(Xem: 1316)
Từ nguyên thủy, tất cả chúng sinh đều muốn được hạnh phúc, và không muốn đau khổ.
(Xem: 2294)
Trong khi một số vị pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ - bằng cách...
(Xem: 2343)
Đợi cha mẹ già qua đời rồi mới báo hiếu làm đàn tràng cầu siêu thiệt to, mua đất nghĩa trang thiệt rộng, xây mồ xây mả thiệt đẹ
(Xem: 2459)
Phật giáo đề cao giá trị của hạnh buông xả – một trong những đức hạnh căn bản giúp con người thoát khỏi khổ đau, đạt được sự an lạctự do nội tâm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant