Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cảm niệm Đản Sanh

03 Tháng Mười 201000:00(Xem: 13709)
Cảm niệm Đản Sanh

Mỗi năm cứ đến ngày trăng tròn tháng tư là mọi người con Phật khắp năm châu bốn bể chuẩn bị bằng nhiều hình thức khác nhau để đón mừng ngày Thị Hiện của Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni. Điều ấy đã nói lên được sự ngưỡng mộ và quy hướng về đấng toàn giác. Mặc dầu thời gian hơn 2.500 năm lịch sử đó đã làm phai mờ không biết bao nhiêu dấu tích phế hưng của bao triều đại trên quả địa cầu nầy.

Đức Phật ra đời - như trong kinh Pháp Hoa nói - chỉ vì một đại sự nhân duyên lớn. Đó là: "Mở bày cho chúng sanh hiểu để vào tri kiến Phật". Chỉ chừng ấy nguyên nhân thôi; nhưng đã bao trùm khắp vũ trụ hoàn vũnhân sinh quan của Phật Giáo.

Lần lại những trang sử ngày xưa ta thấy rõ được điều đó. Cách đây 1.358 năm, Pháp Sư Huyền Trang, Người đã ra đi vào đời nhà Đường, nhằm năm Trinh Quán thứ 3 (628). Lúc ấy Ngài đã 33 tuổi. Sau 17 năm lặn lội với gió sương nơi đất Phật. Ngài đã về lại kinh đô Trường An với 657 bộ kinh điển bằng chữ Phạn vào năm 646. Sau đó chính tay Ngài đã viết một quyển tương đối quan trọng vào năm Trinh Quán thứ 20 (646). Đó là quyển "Đại Đường Tây Vức Ký" nhằm ghi lại cuộc hành trình khó nhọc của Ngài trong khi Ngài ở tại Ấn Độ. Khi Ngài đến Ấn Độ, đã cách Phật nhập diệt 1.172 năm (2548 - 1376 năm) và cách chúng ta ngày nay là 1.358 năm (2004 - 646 năm). Như vậy những gì mà Ngài đã mắt thấy tai nghe, tương đối có thể tin tưởng được và chính nhờ vào tập hồi ký nầy mà các nhà khảo cổ học người Anh, người Đức vào cuối thế kỷ thứ 19 đã căn cứ vào đây để tìm lại những thánh tích như: Đản Sanh, Thành Đạo, Thuyết Pháp lần đầu tiên, Nhập Đại Bát Niết Bàn v.v... Cuối cùng đã được chứng minh Đức Thích Ca là một nhân vật lịch sử có thật và Ngài Huyền Trang cũng là con người có thật, rất vĩ đại, đã được thế giới tôn thờ.

Nhân ngày Đản Sanh lần thứ 2548 của Ngài, ta thử trở về với những sự ghi chép của Ngài Huyền Trang thuở ấy, để tìm lại cái thấy biết của người xưa. "Tiếp đến ở phía đông có một Bảo Tháp do vua A Dục dựng nên. Nơi đây có 2 con rồng phun nước tắm Thái Tử. Sau khi Bồ Tát sanh, liền tự đi không cần nâng đỡ. Ngài đi bốn hướng, mỗi hướng bảy bước và tự nói rằng: "Thiên Thượng Thiên Hạ Duy Ngã Độc Tôn. Đây là lần sanh cuối cùng của ta". Tự nhiên dưới chân mọc lên những đóa hoa lớn, rồi hai con rồng bỗng nhiên xuất hiện từ hư không cùng phun nước xuống, một vòi nước lạnh, một vòi nước ấm để tắm cho Thái Tử...". (Trích Đại Đường Tây Vức Ký, trang 205 - sắp xuất bản).

Ở đây chúng ta có thể phân tích từng sự kiện một, để nhận chân được lịch sử nầy. Vua A Dục (270 trước Thiên Chúa) đã thống nhất giang sơn Ấn Độ và sau đó quy y với Đạo Phật, trở thành một vị Phật Tử hộ pháp rất thuần thành, so ra cổ kim ít ai sánh kịp. Ông sanh cách Phật độ 300 năm và ông đã phát nguyện dựng 84.000 chùa tháp để ghi lại những Thánh Tích nơi Phật và thánh chúng đã trải qua cuộc đời tu luyện của mình. Nhờ thế khi Ngài Huyền Trang sang chiêm bái Ấn Độ vào năm 628. Nghĩa là cách vua A Dục hơn 900 năm; những thánh tích ấy vẫn còn. Nhờ vậy mà Ngài mới có thể viết được tác phẩm "Đại Đường Tây Vức Ký" rõ ràng như thế.

Khi sanh ra, Thái Tử được tắm bởi 2 con rồng từ hư không xuất hiện. Một vòi nước nóng và một vòi nước lạnh. Đây là sự cảm hóa của Thái Tử với chư ThiênThiên Đế Thích mới có sự cảm động và tạo nên những nghĩa cử như vậy. Rồi tự dưng những đóa sen mọc lên dưới chân của Thái Tử. Điều ấy cũng dễ hiểu thôi. Vì Địa Thần đã hoan hỷ, vì có một bậc giác ngộ đã ra đời. Do vậy Địa Thần cũng cúng dường những gì trân quý nhất mà mình đang có. Bồ Tát khi sanh ra tự đi, vì có Tứ Thiên Vương nâng chân, đỡ tay và Ngài đã đi bốn hướng, đông, tây, nam, bắc. Chứ không phải chỉ một hướng, như lâu nay chúng ta vẫn thường biết và mỗi hướng như vậy đi bảy bước trên bảy đóa sen và tự nói rằng: "Trên trời dưới đất chỉ có cái ta là đáng nói hơn cả. Đây là lần sanh cuối cùng của ta". Quả thật chỉ có những bậc giác ngộ mới có thể thốt ra điều đó. Vì các Ngài đã biết mình là ai; nên khi nói ra điều gì là đảm bảo điều đó, ít có bị thay đổi bởi thời gian và năm tháng.

Khi Thái Tử sanh ra thì nhạc trời chúc tụng, quả đất rung động. Vì lẽ một bậc vĩ nhân, một đấng toàn giác, khác người thường là vậy. Ta sinh ra đời vì bị vô minhnghiệp lực chi phối. Còn Bồ Tát và những vĩ nhân của nhân loại khi sinh ra đời vì tự chọn nghiệp mà đầu thai vào để thay thế cái khổ của chúng sanh. Sự khác nhau nằm ở chỗ nầy và Bồ Tát cũng như chúng sanh mặc dầuPhật tánhbình đẳng; nhưng một bên là do nguyện lựcthành tựu; còn một bên là do nghiệp lực dẫn dắt, thì kết quả dĩ nhiên nó chẳng hoàn toàn giống nhau được.

Cũng trong "Đại Đường Tây Vức Ký" trang 131 quyển thứ 4 có đoạn Ngài Huyền Trang tường thuật rằng:

"Lấy tâm để cứu người tức là được việc, đừng quên vấn đề ấy. Đừng lấy vật để cứu tâm.

Lấy tâm mà cứu vật thì được mất đều quên; còn lấy vật để cứu tâm thì buồn vui lại hiện đến".

Quả đúng như thế - Làm Vua là bậc nhân chủ của thiên hạ. Nếu nhà Vua lấy cái tâm đại từ để ban vui cứu khổ cho muôn loài thì muôn họ được nhờ, mà cái đức ấy sẽ cảm hóa đến đất trời vạn vật. Còn nếu cậy thế ỷ quyền là Vua để đi sát phạt kẻ khác; chẳng khác nào lấy vật, vốn nó vô tri để đi cứu cái tâm cống cao ngã mạn của mình, quả là buồn vui sẽ đến. Khi Bồ Tát cứu người, dùng cái tâm Đại Bi để cứu thì được mất đều quên. Vì Bồ Tát làm với cái tâm vô vụ lợi. Còn đại đa số quần sanh muốn củng cố quyền hành địa vị của mình nên đã dùng tài sản của cải để đi bảo vệ sự hư hỏng của tâm mình. Cũng là hai việc làm mà kết quả của 2 việc lại khá khác nhau. Do vậy khi Bồ Tát móng tâm, tất cả đều vì sự lợi ích của chúng sanh. Còn khi chúng sanh móng tâm, hầu như bị sân siphiền não chi phối. Cho nên kết quả của 2 việc làm kia không bao giờ giống nhau. Vì Bồ Tát bao giờ cũng sợ nhân. Còn chúng sanh thì luôn luôn sợ quả. Còn nhân không bao giờ lưu ý đến.

Ngày Đức Phật ra đời mang lại không biết bao nhiêu niềm vui cho nhân thế. Trời người đều hoan lạc và cây cỏ cũng được nhờ. Côn trùng cũng có cơ hội trỗi lên những bản nhạc thanh tao nhằm cúng dường một bậc Đại Giác. Loài người lúc ấy nơi cõi Nam Diêm Phù Đề nầy cũng đã hớn hở mừng vui. Vì có một bậc Thầy của nhân loại đã xuất hiện. Cho nên Đạo sĩ A Tư Đà vốn thần thức đã nhập Thiên Cung mà còn phải trở lại chốn hoàng triều để ra mắt và đoán tướng cho Thái Tử.

Ở về phía Đông của Ấn Độ; nơi xứ Trung Quốc lúc bấy giờ có Khổng Phu Tử là một nhà hiền triết của Trung Hoa, sanh cùng thời với Đức Phật đã thốt lên rằng: "Ta nghe như phương Tây mặt đất đang chuyển động". Tất cả những sự kiện ấy báo hiệu một bậc giác ngộ đã ra đời và các bậc Đạo sĩ, Vĩ nhân trên thế gian nầy đều cảm nhận được.

Phật, Bồ Tát đang ngự nơi chín phẩm liên hoa. Còn chúng ta vẫn mãi chìm đắm nơi luân hồi sanh tử. Nếu chúng ta không hạ thủ công phu, trau giồi giới định tuệ thì bản hoài của chư Phật khi thị hiện ra đời vẫn còn xa xôi dịu vợi lắm. Biết bao giờ chúng ta mới nắm bắt và tắm gội được trong tri kiến Phật ấy. Do đó ngày Phật Đản về cũng là ngày nhắc nhở chúng ta phải hành trì nhiều hơn nữa, nhằm làm sáng tỏ trí giác ngộ ấy vốn sẵn có nơi tự tâm của mỗi người.

Mỗi một sát na đều luôn luôn biến diệt, đổi thay, không có gì đứng yên một chỗ. Cho nên Ngài Long Thọ đã nói trong Nhân Minh Luận rằng: "Quá khứ là những gì đã qua, vị lai là những gì chưa đến. Còn hiện tại đang biến đổi sinh diệt trong từng sát na". Cho nên chúng ta phải ý niệm vấn đề nầy để phải tôi luyện cái tâm của mình nhiều hơn nữa. Kẻo bị vô thường sanh diệt chi phối thì chúng ta khó có cơ hội để biết mình là ai.

Cầu Phật gia hộ cho tất cả chúng ta.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1599)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1480)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1259)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
(Xem: 1387)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
(Xem: 1342)
Nhiều Thiền sư tiếp cận với cộng đồng Hoa Kỳ và Tây phương, trong những thời gian đầu dạy Thiền, thường tránh nói về giới,
(Xem: 1384)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
(Xem: 1345)
Ăn chay là một thói quen ăn uống phổ biến gần gũi với tinh thần từ bi của Phật giáo.
(Xem: 1308)
“Xứng tánh làm Phật sự” là một câu trong bài nguyện hương mở đầu cho bất kỳ thời tụng kinh nào.
(Xem: 1515)
Sinh tử phiền não của mỗi người, đều phải dựa vào công năng tu hành của chính bản thân để đạt được giải thoát;
(Xem: 1596)
Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh.
(Xem: 1642)
Trong cuộc sống, dù khôn khéo hay thánh thiện đến mấy thì không một ai có thể tránh khỏi bị miệng lưỡi người đời chê trách,
(Xem: 1526)
Rất khó tìm hạnh phúcthế gian này. Thật vậy, khi nhìn quanh, ta không thấy gì ngoài đau khổ, phiền muộnhỗn loạn.
(Xem: 1494)
An cưcấm túc ở một chỗ, hạn chế tuyệt đối sự đi lại và nỗ lực tu học trong ba tháng mùa mưa, gọi là kiết hạ.
(Xem: 1261)
Trung Luận của Bồ tát Long Thọ phá trừ mọi bám chấp thuộc về kiến (cái thấy, quan niệm) của con người để hiển bày tánh Không.
(Xem: 1415)
Giáo pháp của Đức Phật nhằm hướng dẫn, giúp chúng sinh đối trị, vượt qua phiền não của chính mình để chuyển hóa thân tâm
(Xem: 1383)
Giới lớn nhất là giới bình đẳng. Phải thấy tâm bình đẳng. Phải giữ tâm bình đẳng.
(Xem: 1463)
Trong tâm lý học, cảm tính là một nội hàm bao gồm những cảm xúc bên trong con người, là một quá trình
(Xem: 1497)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 1580)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn và quan trọng hơn nữa là ...
(Xem: 1425)
Thân thể đau nhức mỏi nhừ, từng đốt xương rã rời như rụng rơi, những sợi cơ dường đã xơ cứng vô dụng,
(Xem: 1547)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau.
(Xem: 1444)
Khi tâm thanh tịnh, người ta sẽ thấy thế giới thanh tịnh. Kinh Duy Ma Cật, phẩm Phật quốc thứ nhất, Đức Phật nói với trưởng giả Bảo Tích:
(Xem: 1394)
Cái ta trong đạo Phật gọi là ngã, trong triết học gọi là bản ngã, còn cái của ta gọi là ngã sở, tức là những sở hữu của cái ta.
(Xem: 1471)
rong hệ thống triết học và lề lối suy nghĩ của Tây Phương thì thế giới này có thật, sơn hà đại địa, con người và cái Tôi hay cái Ngã
(Xem: 1400)
Lần giở từng trang kinh Trung bộ - một trong 5 bộ kinh thuộc Kinh tạng Pāli, người đọc có thể dõi theo những bước chân của Đức Phật
(Xem: 1574)
Trong kiếp sống nhân sinh đầy gió bụi này, ai cũng mang trên người một chữ NGHIỆP.
(Xem: 1842)
Thế gian này đang quá nhiều bi thương, bởi con người còn đầy dẫy tham sân si, sống ích kỷ, đố kỵ, chỉ biết lo thâu tóm cho riêng mình,
(Xem: 1525)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1827)
“Phật Pháp cao siêu rất nhiệm mầu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Nay con nghe thấy chuyên trì tụng Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu”
(Xem: 1414)
Đôi khi những điều hữu ích nhất mà chúng ta học được không đến từ những người thầy mà từ những người như chúng ta, chỉ đang cố gắng để làm tốt nhất có thể với cuộc sống này.
(Xem: 1346)
Việt Nam cũng như cộng đồng Phật giáo Việt Nam hải ngoại, Phật giáo bắc truyền chiếm đa số, phần lớn tu sĩcư sĩ đều tu học theo truyền thống bắc tông.
(Xem: 1557)
Phật pháp lớn như biển, tin là con người có khả năng, nghi là khả năng chướng ngại.
(Xem: 1410)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1492)
Trong câu chuyện hằng ngày, thỉnh thoảng chúng tôi có nghe một vài thiền sinh nhắc đến cụm từ “Vạn pháp tùy duyên”,
(Xem: 1643)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là ...
(Xem: 1842)
Nhiều người hôm nay đang mạnh khỏe, rồi bỗng dưng ngã bệnh và chết ngay hôm sau.
(Xem: 1876)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất.
(Xem: 1688)
Vô sanh là một từ được nói trong kinh điển cả hệ Pali và hệ Sanskrit, và trong mọi tông phái, để chỉ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 1886)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình.
(Xem: 1572)
Trong cuộc sống thì sự vật hiện tượng luôn thay đổi không ngừng, trong sự biến chuyển vô thường không cố định thì bất cứ hiện tượng sự vật...
(Xem: 1522)
Đức Phật dạy chúng ta phát triển giá trị nội tại bằng cách thiền quán về thiện ý, nhưng bạn phải có ý định thực hiện điều đó thì mới thực sự có kết quả
(Xem: 2058)
Mục tiêu của Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka, Gandavyuha) là giúp ta có được cuộc sống an nhiên, tự tại, hạnh phúc ngay ở đây và bây giờ…
(Xem: 1646)
Có hai loại Bồ Đề Tâm: Bồ Đề Tâm Nguyện và Bồ Đề Tâm Hạnh.
(Xem: 1576)
Một thời đức Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikaṁba. Lúc ấy, thôn trưởng Asibandhakaputta đến gặp Đức Thế Tôn;
(Xem: 1522)
Quá nửa đời người rong ruổi giữa dòng đời, một ngày kia y soi kiếng chợt nhận thấy...
(Xem: 1504)
Khi giác hạnh đã viên mãn thì thọ mệnh Đức Phật tuổi đã bát tuần (80).
(Xem: 1583)
Giới luật là nền tảng căn bản của đạo giải thoát. Người tu nếu không tuân giữ đúng theo giới luật mà Phật đã răn cấm, thì ...
(Xem: 1438)
Thông thường, người thực hành đạo Phật tìm cách tránh thoát cái vô thường, cái sanh diệt để chứng nhập cái không vô thường, cái không sanh không diệt.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant