Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mạn đàm về chuông- một loại pháp khí của Phật giáo

10 Tháng Mười 201000:00(Xem: 14384)
Mạn đàm về chuông- một loại pháp khí của Phật giáo

Chuông, tiếng Phạn gọi là ghanta, ở Trung Quốc dịch là chung, khánh, là pháp khí dùng để gõ thông báo giờ giấc làm Phật sự và để tập hợp mọi người trong chùa.

Chuông chùa khởi nguồn từ ấn Độ, gọi là ghanta, khi truyền vào Trung Quốc mới gọi là chung. ở Trung Quốc thời Hoàng đế đã có thợ đúc chuông, vốn là nhạc khí để tế tự, yến hưởng, như ở thời Tây Chu có loại “biên chung”(1). Sau khi Phật giáo truyền nhập vào Trung Quốc thì chuông mới trở thành pháp khí hành lễ trong chùa. Khi triệu tập mọi người, ở ấn Độ thường gõ chuông làm bằng gỗ. Còn Trung Quốc thì thay bằng chuông đồng. Trong Tăng Nhất A Hàm Kinh, quyển 24 nói rằng: A Nan đi lên giảng đường, tay cầm ghanta và nói: Ta nay gõ trống của Như Lai, từ nay về sau các đệ tử của Như Lai nên tập trung đầy đủ. Bấy giờ, ông lại đọc kệ rằng:

Hàng phục ma lựcblank

Trừ kết vô hữu dư.

Lộ địa kích ghanta

Tỳ khưu văn đương tập.

Chư dục văn pháp nhân,

Độ lưu sinh tử hải,

Văn thử diệu hưởng âm,

Tận đương văn tập thử.

(Có nghĩa là:

Hàng phục bọn ma quái

Trừ sạch không còn gì.

Mặt đất gõ ghanta

Tỳ khiêu nghe nên đến.

Những người muốn nghe pháp,

Để qua biển sinh tử,

Nghe thấy âm diệu kì,

Tất cả nên tập hợp).

Về nguồn gốc ghanta, sách Ngũ Phần Luật, quyển 18 ghi: “Thời Phật Đà, có một lần tăng đoàn làm lễ bố tát(2) chưa thể kịp thời tập hợp, bèn tới một nơi hoang vắng toạ thiền hành đạo. Khi đó Đức Phật bèn bảo rằng phải gõ ghanta, hoặc gõ trống, thổi ốc để tập hợp. Cũng sách đó lại viết: “Các vị tỳ khiêu không biết làm thế nào để dùng gỗ làm ghanta, vì thế bạch với Đức Phật. Đức Phật nói: trừ cây sơn và các loài cây độc ra, còn các loại cây gõ phát ra tiếng, đều có thể làm được”.

Đại Trí Độ Luận quyển 2 nói: “Đại Ca Diếp đến đỉnh núi Tu Di gõ chuông đồng”. Qua đó có thể thấy đời sau cũng dùng đồng tạo chuông. Theo Đại Tỳ Khiêu Tam Thiên Uy Nghi, quyển hạ thì có 5 việc cần gõ ghanta, đó là:

1. Khi hội họp thường kì.

2. Khi ăn sáng.

3. Lúc ăn tối.

4. Khi trở về cõi Niết Bàn.

5. Mọi chuyện vô thường.

Về chủng loại nhìn chung chuông gồm hai loại: phạn chunghoán chung.

1. Phạn chung còn gọi là đại chung, điếu chung, chàng chung, hồng chung, kình chung bồ lao, hoa kình, hoa chung, cự chung, v.v… Phần lớn làm bằng đồng xanh, rất ít làm bằng sắt. Thông thường chuông cao khoảng 150cm, đường kính 60cm. Phía trên có quai chuông khắc hình đầu rồng. Phần dưới là hình hai toà sen đối nhau, gọi là bát diệp. Từ toà liên hoa trở xuống gọi là thảo gian. Mép viền dưới gọi là câu trảo. ở trên có hai phần là ao chứa và núm vú. Núm vú có hình nhỏ nhô lên, bọc vòng quanh, lại liên kết với chàng toà (toà hoa sen) tạo ra góc giao thoa, gọi là cà sa, lại gọi là lục đạo. Ngoài ra, bên cạnh núm tay quai có một lỗ hình tròn, thông với bên trong. Loại chuông này treo ở lầu chuông. Vì nó báo thời gian toạ thiền sớm tối nên được gọi là định chung. Nó còn báo cho mọi người đến tăng đường nên gọi là nhập đường chung dùng để tập hợp đại chúng hay báo thời gian sớm tối. Nếu căn cứ vào âm thanh của nó còn được gọi là kình âmĐời sau hay khắc chữ trên mặt trơn nhẵn của chuông.

2. Hoán chung còn gọi là bán chung, tiểu chung, phần lớn đúc bằng đồng thau, cao khoảng từ 60-80cm, được treo trong góc của Phật đường. Vì nó được dùng để thông báo sự bắt đầu của công việc hội họp trong chùa nên cũng được gọi là Hành sự chung.

Về cách gõ chuông, sách Hành Sự sao chép: “Khi Phật còn tại thế, chỉ có cách gõ ba tiếng”. Sách Ngũ Phần Luật chép: “Gõ ba hồi”. Về cách gõ ba hồi, sách Tứ Phần Luật Sớ Sức Tông Kí viết: “Mới gõ thì thừa mà nhẹ, dần dần tăng lên dồn dập mà mạnh, đến khi sắp dừng thì gõ nhẹ rồi thôi, gõ đủ thế gọi là một hồi. Cứ gõ thế cho đủ ba lần gọi là ba hồi. Sau khi gõ xong ba hồi, lại gõ mạnh 3 tiếng hoặc gõ mạnh 2 tiếng hoặc gõ mạnh 1 tiếng để biểu thị tiếng chuông chấm dứt”.

Trung Quốc, cách gõ chuông tuỳ theo tông thái, tuỳ từng khu vực mà có sự khác nhau, nhưng thông thường lấy 3 tiếng để bắt đầu, rồi 2 tiếng liền nhau để kết thúc. Số lượng tiếng chuông cần gõ trong thông lệ là 18 tiếng, cũng có thể gõ 36 tiếng hoặc 108 tiếng. Trong đó có lí do của việc gõ 108 tiếng có thể là ứng với các con số 12 tháng, 24 tiết khí và 72 thời hậu. Cũng có sách giải thích là để trừ bỏ 108 loại phiền não, vậy nên chuông thờ Phật còn có tên gọi là bách bát chung. Trong các ngôi chùa của Thiền tông, chuông được treo ở thiền đường, tăng đường, trai đường nên có tên gọi là tăng đường chung, đường chung, trai chung; chuông được treo ở điện thờ Phật thì được gọi là điện chung. Sư tăngchức phận gõ chuông được gọi là chung đầu. Thế nhưng khi gõ chuông, cần giải thích trong kinh luận mà nghiệm chứng. Sau khi gõ chuông lễ Tam bảo rồi thì có nghi thức đứng nghiêm chỉnh khấn rằng: Con gõ tiếng chuông này, xin mời tăng chúng mười phương, hễ ai nghe thấy, xin đến hội họp, cùng hưởng lợi lạc. Lại xin rằng các chúng sinh chịu khổ sở, đều được yên lành.

Về cách tạo chuông: chuông có thể được làm bằng gỗ, đá hoặc đồng, nét khắc rất tinh xảo, và thường có minh văn. Ngay ở thời Lục Triều đã có gác chuông. Trên chuông cũng có khắc minh văn. Chẳng hạn như năm Thiên Hoà thứ 5 (566) đời Bắc Chu, vua Chu Vũ Đế soạn bài Đại Chu hị giáo chung minh; năm Lân Đức thứ 2(665) đời Đường, vua Đường Cao Tông soạn bài Đại Đường Hưng Thiện tự minh chung, Kinh đô Tây Minh tự minh chung.

Từ đời Bắc Chu trở về sau, việc chế tạo chuông chùa cũng còn rất nhiều phiền phức. Ngoài ra, ở quả chuông chùa Hàn San ở Tô Châu có khắc bài thơ Phong Kiều dạ bạc của nhà thơ Trương Kế đời Đường, cũng hết sức nổi tiếng. Lại nữa, theo sách Nhập Đường Cầu Pháp Tuần Lễ Hành Kí quyển 3 của sư tăng người Nhật tên là Viên Nhân cũng thấy viết: “ở núi Ngũ Đài có hang Gác Chuông, đó chính là nơi Văn Thù Bồ Tát thị hiệngác chuông vàng”.

Hàn Quốc xưa nay đều rất chú trọng nghệ thuật đúc chuông, như ở Tân La vào niên hiệu Huệ Cung Vương thứ 7 (tức năm 771) đúc chuông chùa Thái Đức, gần đây, chuông được treo ở lầu chuông bên ngoài Nam môn Khánh Châu. ở Nhật Bản, bao nhiêu chuông đưa từ Trung Quốc sang đều được xem nhưquốc bảo. Chẳng hạn như chuông ở Thần cung Phong Tiền Vũ Tá, thần Cung Lưu Cầu, chùa Phi Tiền Huệ Nhật, chùa Viên Thành gần bờ sông, v.v…

Nhìn chung, đối với việc tu đạo, chuông có ích lợi rất lớn. Tăng Nhất A Hàm Kinh nói nếu khi gõ chuông thì hết thảy một điều xấu xa, mọi nỗi phiền khổ đều bị ngăn chặn. Sách Sắc tu Bách Trượng Thanh Quy quyển 8, chương Pháp khí nói: “Đại chung là hiệu lệnh chốn tùng lâm. Buổi sớm gõ chuông giúp phá tan đêm dài; buổi chiều chuông ngân làm giác ngộ ngõ tối”. Truyền thuyết kể rằng nước Cổ Nguyệt Chi có chiến tranh với nước An Tức, người bị giết hại có đến 90 vạn. Vì lí do ác báo, những người này sau khi chết hoá thành con cá lớn nghìn đầu, kiếm đeo quanh thân. Hễ cứ chém, đầu lại mọc ra, vô cùng ghê sợ. Để chấm dứt nỗi khổ sở này, người ta phải thỉnh cầu các vị la hán thường xuyên gõ chuông để xua đuổi tà ác.

Chính vì chuông có nhiều công đức, lợi ích như vậy nên khi thỉnh chuông người ta thường tụng chung thanh kệ để cầu quốc thái dân an, mọi phiền não tiêu tan để được viên thành Phật đạo./.

---------------------------------

 

Khoan Xương(*) Người dịch: Ánh Hồng Viện Nghiên cứu Hán Nôm

*. Bài đăng trong Thế giới văn hoá tôn giáo, Số 1-2002 (Tiếng Trung). 1. Biên chung: tên một loại nhạc khí, gồm nhiều chuông đồng treo trên một thanh gỗ để ngang. (Theo Từ nguyên-Thương vụ ấn thư quán, xuất bản 1995). 2. Bố tát:một nghi thức của Phật giáo. Tăng ni xuất gia cứ nửa tháng một lần họp lại chuyên tụng giới, gọi là “thuyết giới”, cho là có thể tăng trưởng được thiện pháp (Theo Từ điển Nho Phật Đạo, Nxb. Văn học).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1186)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 747)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 853)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 803)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 767)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 774)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 778)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 682)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 942)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1254)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1417)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1163)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1482)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 949)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 852)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 958)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 980)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 946)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 971)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 1098)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 926)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 1066)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1057)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 977)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 1019)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 939)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1094)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 1040)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 960)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 1062)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 987)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 927)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 1027)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 964)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1211)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 993)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1086)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1238)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1680)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1243)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1318)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1187)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 1047)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 1009)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 1036)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 885)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1563)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1436)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1410)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1347)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant