Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vướng lụy hình hài

19 Tháng Chín 201100:00(Xem: 10147)
Vướng lụy hình hài

blank
"Tiếc thương vướng lụy hình hài/Ưu bi sợ hãi nối dài khổ đau".

Chuyện kể rằng có một cư sĩ, một người cha hằng ngày đến gò thiêu khóc than thương tiếc cho vận mạng ngắn ngủi của cậu con trai đã mất và thiêu xác tại gò này. Một hôm, vào lúc sáng sớm như thường lệ, Thế Tôn quán sát thế gian và thấy vị cư sĩ có túc duyên tu tập và khả năng thành tựu thánh quả. Do đó, khi trở về tu viện sau một vòng thiền hành khất thực, Thế Tôn đi với một Sa-môn thị giả đến trước cửa nhà của vị cưđau khổ

Được tin Thế Tôn quang lâm, ông thầm nghĩ: “Chắc là Ngài đến thăm chơi và có đôi lời chúc lành lịch sự”. Ông cung kính thỉnh Thế Tôn vào nhà và mời Ngài ngồi trên một chiếc ghế rộng lớn đặt giữa phòng khách. Sau khi Thế Tôn an tọa, ông đảnh lễ Ngài và trịnh trọng ngồi sang một bên.

Thế Tôn nhìn ông, khẽ hỏi:

- Này đạo hữu có duyên với Phật pháp, vì sao trông đạo hữu buồn rầu khổ sở như thế?

- Bạch Thế Tôn, buồn lắm, đau đớn lắm! Con có một cháu trai duy nhất, tưởng đâu trời cho để nối tiếp dòng tộc, không ngờ cháu bị bệnh trái rạ mấy hôm rồi đi luôn. Gia đình con coi như tuyệt diệt từ đây! Ông nói với giọng nghẹn ngào rồi bưng mặt khóc hu hu…

- Đạo hữu, không nên tự mình làm khổ lấy mình nữa. Trên cõi đời này, cái chết không giới hạn cho riêng ai hay một khu vực nào, mà nó diễn ra bình đẳng, dứt khoát dưới mọi hình thức. Những gì có hình tướng đều bị chi phối và hủy hoại bởi sự tác động của thời gian vô cùngkhông gian vô tận. Tất cả mọi thứ đều phải trải qua bốn giai đoạn tất yếu: với chúng sinh thì sanh lão bệnh tử; với thực vật thì sanh trụ dị diệt; với khoáng vật thì thành trụ hoại không. Thấy chưa?... 

Có cái gì vĩnh cửu đâu! Vậy mà đạo hữu ngày nào cũng ra gò thiêu khóc than ai oán, kêu gào tên con. Thật là tiêu hao sức lựcphí phạm thời gian! Đạo hữu chắc cũng đã từng nghe các thầy tụng kinh cầu siêu khi thiêu thi thể:

Hữu sanh hữu tử hữu luân hồi,

Vô sanh vô tử vô khứ lai,

Sanh tử khứ lai đô thị mộng,

Tốc phao trần thế thượng liên đài.

Thấy chưa?... Sanh tử khứ lai chỉ là mộng huyễn. Làm thế nào khi rời trần thế mà lên được đài sen mới là thượng sách, mới là Phật tử chân chính, mới là dày công tu tập, thành tựu công phu. Đã mang thân tứ đại thì phải bị tác hại bởi lẽ vô thường. Do đó, đạo hữu nên có cái nhìn thông đạt về cái chết để hết khổ, hết thương, hết vương, hết lụy. Nói tóm lại, cái gì mang tính hủy hoại thì phải hoại vong, cái gì mang tính tiêu tan thì phải tan rã!

- Các bậc hiền trí ngày xưa, Thế Tôn tiếp lời, không bao giờ thở than bi lụy về cái chết của một quý tử đến nỗi phải vất hết công việc, chẳng thiết uống ăn, suốt ngày xót thương thổn thức như đạo hữu ngày nay. Họ có thừa nghị lực tự chế và trí tuệ quán chiếu về hai mặt sống chết của vạn loại hữu tình. Họ tỉnh táo trong mọi tình huống nên nghịch duyên thế sự khó có thể lôi kéo họ từ thái cực này đến thái cực khác, từ thanh bình hạnh phúc đến rối loạn đau thương chẳng hạn. Tóm lại, nhờ tu tập thiền định và quán niệm vô thường mà họ luôn có cái nhìn biện chứng:

Hủy hoại vốn mang mầm hủy hoại

Tiêu tan hẳn bắt rễ tiêu tan

Nhân gian sống chết hai đàng

Như mây bạt gió trên ngàn xưa nay.

- Bạch Thế Tôn, họ là ai mà có cái nhìn nhẹ nhàng thanh thoát như vậy? Công phu tu dưỡng thế nào mới được thần lực thâm hậu như thế? Con muốn lắng nghe, bạch Thế Tôn.

- Vậy thì hãy lắng nghe, này đạo hữu.

Thế Tôn kể lại câu chuyện tiền thân U-ra-ga (Uraga) với đầy đủ chi tiếttóm tắt nội dung theo thể loại niêm vận như sau:

Rắn thường lột xác già nua

Cho cơ thể được bốn mùa thanh tân

Một khi thoát kiếp hồng trần

Ấy là nhẹ gót phong vân thanh nhàn

Giã từ dòng tộc thênh thang

Xả ly quyến thuộc thôn làng ung dung

Khi thi thể cháy phừng phừng

Mắt nào thấy giọt rưng rưng lệ buồn

Tử sinh sinh tử vô thường

Còn chăng nghiệp lực vấn vương hình hài.

Thế đấy, các bậc hiền trí xưa nay đều xem sanh tử như vậy cả.

Dừng lại trong giây lát, không thấy đạo hữu hỏi tiếp, Thế Tôn đọc kệ:

Thân ái sinh ưu sầu,

Thân ái sinh sợ hãi,

Ai thoát khỏi thân ái,

Ắt hết mọi âu lo.

(PC. 212)

Góp chút lý tình:

Trên thế gian này, không có một thứ tình cảm nào sâu đậm, thiêng liêng và vô điều kiện bằng tình yêu thương của cha mẹ đối với con cái. Vì sao? Vì con cái là hình hài cốt nhục của cha mẹ lưu truyền. Khi còn nằm trong bào thai hay tử cung, cung điện của em bé, thì mẹ conmột thể thống nhất, tuy hai mà một, tuy một mà hai. 

Mẹ con nối kết nhau bằng một đường dây huyết mạch, đó là sợi dây rốn. Đến khi hài nhi ra đời, sợi dây ấy phải cắt đi, mẹ con bấy giờ là hai thực thể, hai sinh mệnh biệt lập theo cái nhìn ngoại trương của khoa học thực dụng, nhưng với nội hàm, hai thực thể ấy lại càng quan hệ mật thiếtvô ngã hơn. 

Lý do dễ hiểu: “Ba thương con vì con giống mẹ, mẹ thương con vì con giống ba”. Hình hài của con đích thị là sự tổng hợp và nối tiếp sinh mệnh của cha mẹ. Do đó, cho dù cha mẹ đã qua đời nhưng bóng dáng người con vẫn là hình ảnh của cha mẹ, và ngược lên nữa là hình ảnh của ông bà tổ tiên, cửu huyền thất tổ

Chính vì thế mà dân gian có câu: “Con cháu ở đâu, ông bà cha mẹ theo đó”. Kinh văn Phật giáo gọi mối quan hệ hữu cơ đó là “phi nhất, phi dị”, tức là không phải một, không phải khác. Và cũng chính vì mối quan hệ “phi nhất, phi dị” này mà Phật giáolễ hội Vu lan, lễ hội truyền thống nhằm thể hiện lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, ông bà và tổ tiên nhiều đời nhiếu kiếp, một lễ hội độc nhất vô nhị trên trái đất này.

Tịnh Minh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 929)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1248)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 713)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 685)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 757)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 769)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 751)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 743)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 893)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 779)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 939)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 939)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 867)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 874)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 812)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 957)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 891)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 834)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 921)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 843)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 804)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 898)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 832)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1091)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 863)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 949)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1094)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1567)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1107)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1179)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1051)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 918)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 863)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 905)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 754)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1433)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1308)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1270)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1213)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1328)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1276)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1414)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1292)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1160)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1205)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1261)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1246)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1360)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1254)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant