Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Không Sầu Không Vui

31 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 17244)
Không Sầu Không Vui


Không Sầu Không Vui

 

Nguyên Siêu

 

khongsaukhongvuiTrong cuộc sống hằng ngày, bình thường con người chúng ta ai cũng bị vướng vào một trong hai trạng thái buồn vui. Khi được việc, có nghĩa là thành công trên mọi bình diện - có thể là công ăn việc làm; có thể là học vấn đổ đạt; có thể là may mắn nhiều vận tốt... thì con người vô cùng hoan hỷ, tự thỏa mãn với điều mình đã thành tựu. Tự mình khoe khoan, và dường như niềm vui bất tận. Trong những giờ phút này thấy lòng nhẹ nhàng, nhìn đâu cũng thấy cảnh đời tươi đẹp. Sức sống tràng đầy từ nội tâm đến ngoại cảnh. Từ khung cảnh gia đình đến môi trường xã hội, đâu đâu cũng đáng thương đáng mến. Thật là một hương vị thơm tho của đời đã ưu ái, dành riêng cho mình, và do vậy, lòng người mở rộng, tận hưởng hương vị thanh tao của đời. Từ giá trị này, con người có thể có cái nhìn lạc quan, dễ dãi và nhiều kỳ vọng trong ý nghĩa sống. Một niềm vui hiện hữu.

Trạng thái thứ hai đó là nỗi buồn. Sự u sầu có thể đến từ mọi phía. Sự thất bại trên trường đời; kém phần may mắn trong công việc. Thiếu tiền bạc tiêu dùng. Tự thân gặp nhiều khốn đốn, và cuối cùng một nỗi đau thương đầy ấp tâm tư. Từ những sự kiện này, con người không tìm đâu ra sự bình an, hạnh phúc của lòng, mà lúc nào cũng có mặc cảm đau thương, nhìn đời bằng cặp mắt áo não, thiếu tự tin và bất mãn. Niềm đau hay nỗi sầu đã làm con người thối chí mà vây quanh cuộc sống như những bóng đen đã đánh mất tất cả những gì tốt đẹp và đáng quí.

Hai tâm trạng trên đã làm suy sụp thực sự một đời sống khách quan, tự nhiên của con người. Nếu là một tâm trạng mừng vui trong sự thành công thái quá sẽ làm cho con người phát sinh tâm tự mãn mà khinh đời. Và từ tâm lý đó khiến chúng ta dễ dàng chuốt lấy đau thương nhiều hơn là sự vui đã có. Và cũng vậy, nỗi u sầu là sự trầm nịch của tâm lý sa đọa mà chẳng thể tự tin để vươn lên. Như vậy, một tâm lý hoan lạc, vui tươi, tự thỏa mãn với những gì mình đã được và một tâm lý chán chường, đổ vỡ với cái mà mình đã bị mất. Qua hai tâm trạng này, Kinh Kakudha, Đức Phật đã dạy:

"Rồi Thiên tử Kakudha, sau khi đêm đã gần mãn, với nhan sắc thù thắng chiếu sáng toàn khu rừng Anjana, rồi đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đãnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên, Thiên tử Kakudha bạch:

- Thưa Đức Thế Tôn, Ngài có hoan hỷ không?

- Như Lai có được cái gì, này Hiền giả, mà Như Lai hoan hỷ?

- Nếu vậy, thưa Thế Tôn, có phải Thế Tôn sầu muộn?

- Cái gì bị già yếu, Như Lai đâu mất cái gì, này Hiền giả, mà Như Lai sầu muộn?

- Vậy thì, thưa Thế Tôn, Ngài không hoan hỷ và không sầu muộn?

- Thật vậy, này Hiền giả, Như Lai không hoan hỷ cũng không sầu muộn. Như Lai giữ tâm định tĩnh.

... Hoan hỷ chỉ có đến

Với người tâm sầu muộn

Sầu muộn chỉ có đến

Với người tâm hoan hỷ

Do vậy người tu tập

Không hoan hỷ sầu muộn

Vậy nên, này hiền giả

Người phải biết như vậy."

Trên bước đường tu tập, người thực hành giáo pháp lấy đó làm kim chỉ nam cho chính mình, ly khai hai phạm trù tâm thức quá sầu muộn và nhiều hoan lạc. Vì sự biến chuyển của tâm; vô thường trong từng sát na, tâm của người nhiều niềm vui, nhưng không có nghĩa là miên viễn. Từng chập tâm nối lại, khi buồn lúc vui, cho ta thấy hành tướng của tâm có lúc sanh lúc diệt. Vậy, khi niềm vui được sanh khởi, thì ta thấy đời dễ thương, nhưng khi sự sầu muộn hiện hữu thì ta lại bi quan muốn xa lánh. Cho nên sự vui mừng chỉ có với người tâm phiền muộn và ngược lại. Con người mà tâm được định tĩnh, an nhiên, bất động, thì niềm vui và nỗi buồn bình thường không thể chi phối. Như Đức Thế Tôn, tâm Người Giác Ngộ đã có lời giáo huấn.

Phương pháp giữ tâm cho cân bằng, thanh thản, không lắm sầu muộn, cũng chẳng nhiều lý thú, vui sống là phút giây hiện tại, mà một thời: " Đức Thế Tôn trú giữa chư Thiên Tam Thập Tam Thiên, dưới cây Paricchattaka (Trú độ thọ) trên tảng đá pandukambala (Vô cấu bạch thạch). Tại đây, Thế Tôn nói lên Tổng thuyết và Biệt thuyết về Nhứt Dạ Hiền Giả cho chư ThiênTam Thập Tam Thiên:

"Quá khứ không truy tìm

Tương lai không ước vọng

Quá khứ đã đoạn tận

Tương lai lại chưa đến,

Chỉ có pháp hiện tại

Tuệ quán chính ở đây.

Không động không rung chuyển,

Biết vậy nên tu tập

Hôm nay nhiệt tâm làm

Ai biết chết ngày mai?

Không ai điều đình được

Với đại quân thần chết

Trú như vậy nhiệt tâm

Đêm ngày không mệt mỏi

Xứng gọi Nhứt Dạ Hiền

Bậc an tịnh, trầm lặng".[1]

Giữ tâm được bình an là điều rất cần thiết, dù chúng tathực hành lời Phật dạy, để cầu mong được thăng tiến trên con đường giác ngộ giải thoát, hay không thì tâm của một con người tịnh lạc, tươi mát, ít phiền não vẫn là điều tốt đẹp. Tâm hồn thanh thản, tĩnh lặng giúp cho ta sáng suốt trong mọi công việc. Có thể làm việc chín chắn, suy tư được rõ ràng và thấy vấn đề đúng. Nhờ thấy đúng mà có hành xử đúng. Như vậy, kết quả của một tâm hồn trong sáng là nhân tố tiên quyết để có thể thâu đạt được kết quả tốt hay đó chính là giá trị đích thực của lẽ sống nhiều ý nghĩa. Bằng ngược lại, khi mà tâm hồn u tối vì quá đau thương, thì lý trí không còn sáng suốt nữa, có thể đưa đến một kết quả khó lường khi lòng quá sầu muộn. Đây là điều kiện xấu, gây ảnh hưởng trầm trọng từ tinh thần đến thân xác. Như câu chuyện thương tâm của một người mẹ chỉ có một đứa con độc nhất. Vì chỉ có một đứa con độc nhất, nên sự sống của con có thể nói là sự sống của mẹ, cái cười của con, tiếng nói, cái nhìn tất cả đều là niềm vui, là hạnh phúc của mẹ. Đó là tình thương yêu được gầy dựng, bồi đắp một tương lai huy hoàng cho con. Là ý niệm sống để bảo tồn một hy vọng. Nhưng kém phần may mắn, đứa con độc nhất của mẹ vội lìa đời. Hình ảnh đứa con chết, như bóp nát trái tim của mẹ, như cướp đi sự sống của mẹ và có thể nói trên đời này không còn điều gì có giá trị đối với mẹ nữa.

Vì quá thương con, người mẹ đó đã ôm chặt xác đứa con vào lòng, tất tả đi tận đầu làng trên đến cuối xóm dưới, cầu xin tất cả mọi người hãy ra tay cứu đứa con của mẹ. Đầu bù tóc rối, áo quần lấm luốt, mẹ chẳng hề để ý, chỉ một lòng sầu muộn và những mong con mình được sống lại. Nhưng mọi người đều bất lực trước cái chết. Có người thấy vậy liền giới thiệu đến Đức Thế Tôn, Ngài có thể cứu sống được. Chỉ thoáng nghe qua con mình có người cứu sống lại, là như một mãnh lực vô hình, một sức mạnh xốc dậy, làm tươi tĩnh tâm tư và hi vọng sống tràn đầy như núi xanh, biển biếc. Người mẹ ôm chặt con vào lòng chạy thẳng đến tinh xá Kỳ Viên, nơi Đức Phật trú ngụ.

- Bạch Đức Thế Tôn, bậc giác ngộ, hãy dũ lòng từ bi, ra tay cứu sống đứa con độc nhất của con.

- Này nữ cư sỹ, đứa con của người vì sao chết.

- Bạch Đức Thế Tôn, qua một đêm mưa gió, và chính ngay trong đêm đó, thần chết đã cướp đứa con yêu quí nhất đời con. Con chẳng thể sống được nữa nếu thiếu đứa con yêu quí này.

- Này nữ cư sỹ, người có thể đi đến bất cứ nhà nào xin cho Như Lai một nắm tro hương của nhà chưa có người chết, Như Lai có thể cứu sống con nàng.

Không phân vân, chẳng suy nghĩ, người mẹ liền đặt đứa con tại chỗ, rồi vội vàng chạy đến từng nhà một, hết con đường này, sang qua đường khác hầu như nhà nào cũng trả lời, khi được hỏi xin một nắm tro hương trên bàn thờ mà chưa có một người trong gia đình đó đã qua đời.

- Thưa chị, nhà tôi đã có người chết và lư hương trên bàn thờ là ông bà tổ tiên của tôi là cha mẹ tôi, là con cháu tôi.

Dường như vô vọng và quá mỏi mệt, người mẹ quay về với xác đứa con, đang im lìm, bất động trước mặt Đức Thế Tôn.

- Bạch Đức Thế Tôn, con đã tìm và hỏi xin tất cả xóm làng nơi đây, chẳng có một nhà nào mà không có người chết. Hoặc là ông bà nội ngoại, cha mẹ bằng hữu... Tất cả đều có người đã chết.

- Này nữ cư sỹ, sự chết là giai đoạn cuối cùng của bốn tướng: Sanh, lão, bịnh, tử. Vậy người có sanh ta thì tất có chết đi, bất luận già trẻ lớn bé. Đó là định luật vô thường của kiếp người từ quá khứ đến hiện tại cũng như mãi trong tương lai, chẳng một ai tránh khỏi...

Qua bài thuyết pháp của Đức Thế Tôn, người mẹ, tâm sầu muộn được vơi đi, và thấu hiểu được lẽ huyễn hóa của kiếp người như sương mai, như điện chớp, như gió thổi mây tan, tâm tỉnh ngộ, bừng sáng mà thấy đời như huyễn, như mộng, chóng tan, nhiều đổ vỡ, dù cái đó mình muốn bảo tồn, duy trì cũng không được. Đó là thực chất của sự vật, mà con người cũng không ngoài luật tắc đó.

Tâm người mẹ được tĩnh lặng, bình an và hiến dâng đời mình cho sự nghiệp giác ngộ, giải thoát.

Trong đời sống này, nếu không có lời Người Giác Ngộ, Người không còn ở trong vòng sanh tử luân hồi, để thấy thật tướng của luân hồi sanh tử mà giảng dạy, hướng dẫn cho bao nhiêu tâm hồn quá vui và nhiều sầu muộn, thì ai biết đâu là bến bờ tử sinh và đâu là thuyền từ bến giác, để được trú tâm tịnh lự, là nỗi bình an của hương giáo pháp.



[1] Kinh Trung Bộ. Kinh Lomasakangiya Nhứt Da Hiền Giả. Trang 469, 1992.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 779)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1100)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1339)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 789)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 763)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 807)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 802)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 947)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 834)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 929)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 931)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1014)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 954)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 850)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 884)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1143)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 914)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1016)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1155)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1616)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1164)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 977)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 919)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 804)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1379)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant