Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sư Phụ Tôi

09 Tháng Năm 201200:00(Xem: 16823)
Sư Phụ Tôi

Sư Phụ Tôi

 

(Kính dâng Sư Phụ, nhân Lễ Đại Tường)

 

ht_thich_quang_tam
HT Thích Quảng Tâm (1947 - 2010)

Tôi nhớ như in, như mới hôm qua đây thôi, Thầy nói: “Đem chiếc xe Honda đi cầm để lấy tiền đóng học cho mấy chú.” Chiếc xe máy mới do gia đình của một người Phật tử thân tín của chùa cúng dường để Thầy đi làm việc. Vậy mà, Thầy nỡ nào đem đi cầm chứ. Rồi gia đình của phật tử sẽ giận Thầy cho coi, trong tâm trí tuổi thơ tôi nghĩ vậy.

Rồi cũng có nhiều lần, Tôi đánh máy cho Thầy những lá đơn mượn nợ, những lá thư gởi cho các phật tử ở nước ngoài để kêu gọi giúp đỡ về mặt đời sống của quí thầy, quí chú. Rồi cũng nhiều lần làm hồ sơ xin học bổng, xin bảo trợ cho các thầy vào đại học, rồi cũng nhiều lần Thầy viết thư xin ban giám hiệu nhà trường đừng đuổi học các chú và xin sẽ đóng học phí trễ vài tuần; cứ thế, ngày lại ngày, tháng lại tháng, năm lại năm… Thầy chạy đôn, chạy đáo để vay, để mượn, để duy trì, để nuôi dưỡng những mầm non của Phật pháp cần được nuôi dưỡng, cần được tô bồi. Thầy là người rất thoáng và cập nhật. Thầy không hoài cổ. Có lần, Thầy mượn lời của Ôn Đỗng Minh để dạy đại chúng trong một bữa cơm sáng rằng: "còn nhỏ học chết bỏ, lớn lên làm việc chết bỏ, về già tu chết bỏ." Có lẽ, Thầy tâm đắc câu này nên suốt cả cuộc đời, Thầy đã dấn thân phụng sự. Chính vì phụng sự quên mình, Thầy đã làm việc quá sức, thức khuya, dạy sớm, tính toán trăm bề nên cơ thể suy nhược, còm cỏi. Có hai điều mà ai cũng thấy rõ nhất trong đời Thầy đó là: giáo dục - tiếp tăng độ chúng và từ thiện xã hội.

Bằng nhiều phương tiện khác nhau, Thầy đã dìu dắt không biết bao nhiêu lớp Tăng Ni sinh đã xuất thân từ Trường CBPH cơ sở 2 Chùa Thiên Minh, Lớp SCPH Quận 9 và Tu Viện Vĩnh Đức. Riêng tại Tu Viện Vĩnh Đức, Thầy đã tạo một môi trường thuận lợi cho Tăng chúng khắp nơi tụ về tu học, đó cũng là tất cả ưu tư, tâm huyết của Thầy. Với những thủ tục rề rà như xin tạm trú, xin nhập học, xin nhập hộ khẩu, xin xuất gia..., là cả một bầu trời cực khổ, gian nan vì phải đi xin chữ ký từ cấp thấp đến cấp cao, chỉ với những người có đức tính hi sinh, kham nhẫn mới có thể gánh gồng nỗi mà thôi. Hễ ai phát tâm tu học, Thầy đều mở rộng vòng tay để tiếp nhận. Ai Thầy cũng lo cho đi học, học còn được đến cở nào thì Thầy sẽ lo cho đến cở đó. Thầy từng dạy rằng, cứ học đi, nếu sau này không còn duyên với con đường tu hành thì cũng có kiến thức ấy mà dùng để phụng sự xã hội, Đạo Pháp. Với tầm nhìn đó, không phải ai cũng có, nhất là vào những giai đoạn cực khổ những năm đầu của thập niên 90, củi quế gạo châu.

Trong bài viết mới đây của thầy Hạnh Chơn với nhan đề "Dấu Ấn Của Thầy", đăng trên web site phattuvietnam.net, đã nhắc đến ba điều khó phai nhòa nhất đó là: Thầy đã mở trường lớp Phật học, tổ chức hội thi diễn giảng - báo tường và cho Tăng Ni sinh giao lưu với các trường bạn. Đó chính là những phương thức, Thầy đã dùng trong việc giáo dục, đào tạo Tăng Ni sinh trẻ, thế hệ rường cột kết thừa của Phật giáo Việt Nam.

Có một buổi khuya nọ, Thầy không ngủ được. Thầy bấm chuông kêu tôi lên phòng. Thầy tâm sự về những nỗi khó khăn mà Tu Viên đang gặp phải. Khó khăn trong việc tài chánh đã đành, mà còn khăn trong việc ổn định tâmđại chúng. Thầy nói, "làm việc đừng để tâm phân biệt đệ tử ruột hay không là đệ tử ruột. Các con phải hiểu và thông cảm. Người ta có thầy tổ thì có được 2 nguồn cung cấp..." Nghe Thầy nói sao mà thương quá, Thầy hiểu tâm tánh của từng người đệ tử. Rồi, có những đệ tử ngỗ nghịch, ban quản chúng không giáo dục nổi nên bạch với Thầy để gởi trả về lại gia đình, nhưng Thầy đã từ bi cho thêm nhiều cơ hội để phục thiện, mở bày những phương tiện chế tài, cách ly khỏi đại chúng... tất cả chỉ là kéo dài thời gian cho tâm tánh kia qua thời vụng dại, cho đủ lớn để suy tư mà hồi đầu...

Thầy dạy chúng Tăng cả về thân giáo. Hai buổi chấp tác sớm - chiều, Thầy cầm chổi quét sân, nhổ từng cọng cỏ, moi móc từng chút rác mà chú tiểu nào đó làm biếng đã quét tấp vào góc hàng rào. Thầy kéo dây nước tưới kiễng: "Thầy nói, mình cần nước uống thì cây cối cũng cần nước để uống như mình." Ngay cả nhà vệ sinh của chúng, Thầy cũng lau chùi và đổ rác.

Ngày tháng đó, Tu Viện nghèo túng, chúng đông, cần sự giúp đỡ của Phật tử thập phương nên Thầy rất khắc khe trong việc giáo dục. Có lần Thầy nói, "nuôi chúng đông thì không có Phật tử." Có nghĩa là, với một số lượng học Tăng đông đảo, thì kỷ luật của Thiền môn phải nghiêm khắc. Chính kỷ luật nghiêm khắc đó, Thầy sẽ sẵn sàng đuổi Phật tử ra khỏi chùa nếu người Phật tử đó lảng vảng trong khuôn viên chùa ngoài giờ qui định, hay ngồi nói chuyện ngoài ghế đá với các thầy, các chú không phải trong phòng khách và không đúng giờ. Những qui định như, không mang áo thun ra khỏi phòng, ra khỏi cổng Tu Viện phải mang áo dài, không ghé các hàng quán uống nước..., đã tạo nên một bản sắc rất riêng của Tu Viện một thời.

Về phần từ thiện xã hội, Thầy luôn quan tâm đến những nơi đồng bào nghèo khổ. Đặc biệt là chưa có năm nào ở miền Trung và niềm Tây có bão lụt mà Thầy không kêu gọi Phật tử cứu trợ. Nếu không trực tiếp tổ chức đoàn đi cứu trợ, Thầy sẽ quyên góp phẩm vật, tịnh tài để gởi các chùa đi thay cho. Tuy chia sẻ chén cơm, manh áo là ban vui, cứu khổ tạm thời trong hiện tại lúc ấy, nhưng nếu không giải thoát được nỗi khổ tạm thời thì tìm đâu ra niềm hạnh phúc miên viễn. Và cứ mỗi năm, dịp Lễ Phật Đản và Vu Lan về, Tu Viện tổ chức phát quà cho đồng bào nghèo, neo đơn, cô quạnh địa phương. Tuy không bao nhiêu: 10 ký gạo, một thùng mì gói, vài chai nước tương, vài ký đường, muối và một phong bì 50 ngàn, Thầy đã thiết lập một phong tục đẹp cho Tu Viện đến bây giờ.

Bụi thời gian cứ âm thầm phủ mờ đi tất cả. Chưa từng có gì tồn tại mãi hoài trong thế giới diệt sinh này, con người cũng như vạn vật. Chỉ có một điều, sinh ra rồi lớn lên trong đời và chết đi trong dòng đời ấy, con người kia đã làm gì cho ai không? Giá trị của cuộc sống không phải sống lâu hàng trăm tuổi, càng không phải khi mình chèn ép người khác để vun vén cho cá nhân mình, mà giá trị cuộc sống là anh đã làm gì cho ai. Có một con người luôn nghĩ về thế hệ tương lai, vận mệnh, kế thừa của Phật giáo. Có một con người kham nhẫn, len lỏi vào những ngỏ ngách nhỏ nhất của cuộc đời để vun bồi cho đàn hậu học Tăng Ni. Có một con người quên ăn, quên mình đang có bệnh... để dấn thân chu toàn mọi mặt cho một giới đàn lần đầu tiên tổ chức tại Quảng Ngãi kể từ sau năm 1975, để gầy dựng lại những gì mà xứ sở kia khó bề làm nổi, rồi ra đi; đi về với Phật. Người đó là sư phụ tôi, HT Thích Quảng Tâm.

Kính lạy Giác Linh Thầy,

Bên kia địa cầu xa xôi, vọng về quê hương Tu Viện, con đê đầu đảnh lễ Giác Linh Thầy. Có lẽ ở một nơi nào đó cao xa, hay đã ở một nơi nào đó thật gần, Thầy cũng đã hóa thân để bước tiếp con đường cao rộng là thượng cầu Phật đạo hạ hóa chúng sanh rồi. Lễ Đại tường của Thầy năm nay, con không về được vì con đang thi final. Một chiều mùa thu năm 2006, lúc tiễn Thầy ra sân bay Los Angeles để về Việt Nam, con có hỏi là, "khi nào Thầy qua Mỹ lại?" Thầy nói: "Khi nào con tốt nghiệp?" "Bây giờ, con sắp tốt nghiệp rồi đó Thầy...!"

 

Thích Hạnh Tuệ

Xem thêm Tang Lễ của Hòa Thượng


Ý kiến bạn đọc
17 Tháng Năm 201207:00
Khách
A di da phat, cam on Thay. 2 nam roi, hinh anh Hoa Thuong van hien hien . Doc bai cua Thay, lai cang nho Ngai . Cong hanh mot doi luu danh muon thuo
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 782)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1104)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1342)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 792)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 765)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 808)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 803)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 791)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 948)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 835)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 932)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 932)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1015)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 960)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 851)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 959)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 885)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1146)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 917)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1018)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1158)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1618)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1166)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 978)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 921)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 806)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1487)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1275)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1381)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant