Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hình Bóng Quê Hương

03 Tháng Tư 201300:00(Xem: 11657)
Hình Bóng Quê Hương


hinhbongquehuong-macgiangViệt Nam thuở khai nguyên chỉ có các tỉnh miền thượng du đổ xuống đồng bằng sông Hồng, sông Thái Bình chạy dài ra biển, xuôi về hướng Nam, dọc theo dãy Trường Sơn tới Thanh Nghệ Tĩnh, vươn lên phía Bắc là Quảng Đông, Quảng Tây, nhưng Trung Hoa đã chiếm ngay từ đầu Bắc thuộc cho tới ngày nay. Các triều đại vua chúa suốt hơn 4500 năm trước đều đóng đô ở Phong Châu, có khi đổi tên Cổ Loa, Đại La, Thăng Long mà nay là Thủ đô Hà Nội. Do đó mới nói miền Bắc là cái nôi dân tộc và Hà Nội là cái nôi văn vật một thời. Vì phía Bắc là sức nặng Trung Hoa khổng lồ, cha ông mình mới rút dần về tới Ải Nam Quan để trấn thủ. Rồi tiến vào phía Nam mở mang bờ cõi, tới đầu thế kỷ 17, đến tận Hà Tiên, Cà Mau là điểm cuối cùng nằm sát biển. Sài Gòn nằm ngay trung tâm chạy về các tỉnh Miền Nam, xuyên ra Miền Trung, dẫn lên Cao Nguyên, tựa cửa Bạch Đằng ra biển Thái Bình, cho nên Sài Gòn trở thành Thủ Đô của nước Việt Nam Cộng Hòa một thời, và những câu thơ : “Đây Sài Gòn đây Thủ Đô nước Việt. Trái tim chung của dân tộc anh hùng. Đời đang lên bao hứa hẹn trẻ trung. Ba trăm tuổi mới đi vào lịch sử”, phản ảnh cụ thể vai trò, vị thế và lịch sử của Sài Gòn, tên gọi thân yêu.

 

Bản đồ chữ S, theo vòng cung gồm các tỉnh phía Bắc mà Ải Nam Quan là đỉnh đầu giáp với Trung Hoa. Phía Tây là dãy Trường Sơn, từ thượng du Miền Bắc, đi vào cao nguyên Miền Trung lên Đà Lạt, lệch về Nam là núi Bà Đen Tây Ninh, nối theo là dãy Thất Sơn Châu Đốc, Ba Thê tại Hà Tiên. Bên kia Trường Sơn là Lào, Kampuchia. Phía đông từ Bắc vào Nam chạy cặp theo bờ biển tới vịnh Thái Lan, được uốn tròn thành mũi Cà Mau, điểm cuối chữ S là Rạch Giá, Hà Tiên. Việt Nam có bốn sông lớn: Hồng Hà, Thái Bình, Cửu Long, Đồng Nai. Chiều dài từ Nam Quan tới Cà Mau 1500km, bờ biển Hải Phòng - Hà Tiên 2200km, biên giới đất liền với Trung Hoa, Lào, Cam Bốt dài 2500km. Vị trí ngắn nhất là cái eo chữ S các tỉnh miền Trung: Bình-Trị-Thiên, Thanh-Nghệ-Tĩnh mà ngang Đồng Hới chỉ độ 37km.

 

Việt Nam có nhiều bờ biển rất đẹp như Đồ Sơn, Sầm Sơn, Nha Trang, Vũng Tàu. Nhiều thạch động nổi tiếng Hòn Chồng, Hòn Gai, Phong Nha, Thiên Thai, Hà Tiên. Nhiều hồ rất nên thơ như Hồ Gươm, Hồ Tây, hồ Than Thở. Còn nữa, nào Thác Cam Ly, Thác Prenn, suối Vàng, suối Bạc, nào Chùa Trấn Quốc, Chùa Hương, Chùa Một Cột… Các cảng Hải Phòng, Đà Nẵng, Cam Ranh. Nhiều nơi nghỉ mát lý tưởng như Đà Lạt, Chapa, Việt Bắc. Cái đẹp sông Hương, Cần Thơ, Gò Công. Rồi Hà Nội 36 phố phường, Sài Gòn hòn ngọc viễn đông. “Từ Nam Quan Cà Mau, từ non cao rừng sâu…, Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình…, Từ Bắc vô Nam tay liền nắm tay…”, “Mắt Mẹ Già biển Đông ngóng đợi, Mắt Cha Già núi Thái chờ trông” là vóc dáng hình hài, giang sơn gấm vóc, sông núi mỹ miều, đất Mẹ Việt Nam ơi, quê Cha Việt Nam ơi, quê hương ta đó !

 

Người Cha đầu tiên của Việt Nam là vua Lạc Long Quân, thuộc giống Rồng mang họ Hồng Bàng, sắc dân Lạc Việt, gặp Mẹ Việt Nam là bà Âu Cơ, thuộc giống Tiên. Ông Bà là Rồng Tiên nên không sinh nở con một, con hai, hay năm, bảy là nhiều của thường tình nhân loại xưa nay, mà cùng một lúc, một trăm cái trứng nằm chung trong một bọc, tựu thành một trăm hài nhi, được sinh ra một lần, đều khỏe mạnh, tuấn tú, thông minh, thương yêu nhau lắm, “anh em như thể tay chân”, nên chỉ có dân tộc Việt Nam mới gọi là đồng bào (cùng bọc), và không nên lẫn lộn hoặc có khi nói hai chữ đồng bào với các sắc tộc khác. Trăm anh em, nửa cùng Mẹ lên núi, trung du, thượng du, kiếm cây trái, mật ong và mọi lâm sản tự nhiên của núi rừng để sống, nửa theo Cha xuống trung châu, đồng bằng, vùng thấp khai khẩn, gieo trồng, rau húng, tía tô và tìm các loài thủy sản để sống. Có được gì, họ đều mang về chia cho nhau, bảo vệ lẫn nhau, và nuôi đàn con nhỏ dại.

 

Một ngày kia, đàn con khôn lớn trưởng thành, vì là Rồng Tiên nên trước khi qui ẩn, truyền ngôi lại cho người con lớn lên làm vua là Hùng Vương thứ nhất, đặt tên nước Văn Lang. Họ Hồng Bàng thay nhau làm vua trải qua 18 đời, đều mang hiệu là Hùng Vương, kéo dài từ năm 2809 đến năm 258 trước tây lịch. Một gia đình có 100 anh em, dựng vợ gả chồng, con cháu đầy đàn, chia ra nhiều nhánh, với nhiều sắc dân khác, tương ái tương thân sống trên nước Văn Lang suốt 2551 năm ấy, lúc nào cũng bảo vệ gìn giữ cho nhau, nên chữ tình ruột thịt, nghĩa đồng bào “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”, keo sơn gắn bó, trở thành nếp sống truyền thống gia đình, làng xã, bà con dòng họ của người Việt Nam.

 

Hiện nay dân số Việt Nam lên tới gần 90 triệu người trong nước, khoảng 5 triệu người ở nước ngoài, và mãi mãi mai sau đều cùng da vàng máu đỏ trong tim, mang tên dân tộc VN, là con Lạc cháu Hồng của nòi giống Rồng Tiên, đều nhớ, đều thờ và Giỗ Tổ Hùng Vương, là do người anh cả đầu tiên tức Vua Hùng Vương mở nước, giữ nước và đến hôm nay là năm 2012 sau dương lịch, nên gọi VN có lịch sử gần 5000 năm văn hiến.

 

Vua Hùng Vương thứ 18 có cô công chúa Mỵ Nương đẹp lắm, Vua Thục muốn cưới mà Hùng Vương không chịu, lại gả cho Sơn Tinh. Do mang mối hận này và muốn trả thù, đến đời cháu có tên Thục Phán, mới chiếm được nước Văn Lang năm 258, đổi thành Âu Lạc, xưng An Dương Vương, xây thành Cổ Loa làm kinh đô. Đến năm 207 trước dương lịch, chuyện ly kỳ về mỹ nhân lại tái diễn, Văn Lang mất do Mỵ Nương, thì Âu Lạc của An Dương Vương lại mất về tay Triệu Đà cũng vì công chúa Mỵ Châu, đổi thành nước Nam Việt.

 

Chuyện Sơn Tinh - Thủy Tinh, chuyện Trọng Thủy - Mỵ Châu để lại bao niềm thương cảm sau này. Nhà Triệu truyền đến đời thứ 5 là Dương Vương, thì năm 111 trước dương lịch bị Trung Hoa xâm chiếm, kết thúc quyền tự chủ, tự trị, độc lập đất nước Việt Nam của người Việt Nam. Việt Nam bị trị đến năm 40 sau dương lịch thì giành độc lập nhưng rất tiếc chỉ có 3 năm, lại bị Tàu tiếp tục xâm lăng. Đến năm 248, mới có một cuộc khởi nghĩa nữa nhưng thất bại. Điều muốn nói ở đây là, khoảng thời gian 359 năm bị xâm lăng đằng đẵng đó, rất nhiều cuộc chống ngoại xâm diễn ra nhưng chỉ có hai lần khởi nghĩa đi đến thành công đều do bậc nữ lưu đề xướng. Năm 40 hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị xuất thân đất Mê Linh, tôn hiệu Trưng Vương nhưng vì mình thoa sức nữ, không chống nổi sự trả thù của 50 vạn hùng binh, phải trầm mình tuẫn tiết tại sông Hát Giang. Nối tiếp nữ kiệt Trắc Nhị là cô gái mang tên Triệu Thị Trinh mới 19 tuổi, chiêu mộ nghĩa sĩ, huấn luyện quân binh 4 năm trường, đánh thắng trên nhiều mặt trận làm cho quân giặc thất điên bát đảo, nhưng vì bị nội thù phản bội, nên đã hy sinh tại núi Tùng, Thanh Hóa mới vừa tròn 23 tuổi.

 

Thời gian 359 năm đó: nhà Hán Lưu Bang, tam quốc Ngụy-Thục-Ngô bên Tàu. Nữ giới xuất thân cứu nước và chết vì nước trong tuổi còn xuân. Trưng Trắc mới vừa lấy chồng, Cô Trinh mới vừa 23 năm lẻ. Nơi đây, xin nhỏ giọt nước mắt cho ba cô gái VN Trắc, Nhị, Trinh, mà các đời vua sau tôn nhiều thánh hiệu, lập đền thờ, xưng tụng Bà Trưng, Bà Triệu, dù trong lứa tuổi mới đôi mươi. Tên tuổi ba người được khắc ghi trên nhiều đường phố, khắp mọi thị thành ba miền nước Việt dấu yêu, và ngời trang sử sách để thương để nhớ.

 

Sau thời kỳ này, có vài giai đoạn khởi chống ngoại xâm giành độc lập như : Lý Nam Đế lập nước Vạn Xuân 544-602 (nhà Lương bên Tàu) ; Mai Hắc Đế - vua mặt đen, xây thành Vạn An năm 722 (nhà Đường bên Tàu, họ đổi tên nước mình thành An Nam) ; Bố Cái Đại Vương dấy nghiệp chống Tàu 41 năm 761-802 (cũng thuộc nhà Đường); Khúc Thừa Dụ lập khu kháng chiến suốt từ năm 906 đến năm 923. Bấy giờ nhà Đường mất ngôi bá chủ, nước Tàu suy vi thành năm nước nhỏ tranh nhau, cơ hội tốt nhất để Tướng tài ba Dương Đình Nghệ khởi binh từ Thanh Hóa, chiếm thành Đại La, đuổi Tàu về nước năm 931, giành độc lập, nhưng bị Kiều Công Tiễn hãm hại nắm quyền (931-938). Bình minh Việt Nam mới vừa ló dạng bị đe dọa.

 

Ngô Quyền người Ba Vì, Hà Nội, đánh dẹp Công Tiễn, chiến thắng quân Nam Hán tại Bạch Đằng, và năm 939, lên ngôi, lập triều đại Nhà Ngô 939-965, đóng đô tại Cổ Loa, bổ nhậm triều ca, kiến thiết sơn hà, chấm dứt 1000 năm nô lệ Trung Hoa. Cuối đời Ngô, anh hùng tý hon cờ lau tập trận Đinh Bộ Lĩnh, người đất Hoa Lư, Ninh Bình dẹp yên loạn 12 sứ quân, lập Nhà Đinh 968-980, tức Vua Đinh Tiên Hoàng, đổi tên nước là Đại Cồ Việt. Nhờ Thái hậu Dương Vân Nga, Vua Lê Đại Hành người Thanh Hóa kế nghiệp, lập nên nhà Tiền Lê 980-1009. Thiền sư Vạn Hạnh giúp Lý Công Uẩn người Hà Bắc dựng nên Nhà Lý 1010-1225, đổi Đại La thành Thăng Long, tên nước là Đại Việt. Công chúa làm vua Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng người Thái Bình, nhờ bàn tay của Trần Thủ Độ, lên ngôi tức Trần Thái Tôn, lập Nhà Trần 1225-1400. Từ nhà Ngô đến nhà Trần 461 năm này vàng son nhất, kiêu hùng nhất, oanh liệt nhất, viết lên trang sử phi thường nhất, giữ yên bờ cõi, đánh đuổi ngoại xâm, bình Nam dẹp Bắc của gần 5 thế kỷ dân tộc VN, nhất là 2 triều đại Lý - Trần. Phía Nam, mở mang đất nước. Phía Bắc, quân Tàu kinh hồn, gót giày xâm lược Nguyên Mông tung hoành các nước tới Âu Châu, Trung Đông nhưng phải ngã gục và 3 lần tan nát trước khí thế đường đường của quân dân Việt Nam

 

Hồ Quý Ly người Nghệ An đổi ngôi, lập Nhà Hồ 1400-1407, thành nước Đại Ngu. Hai cha con bị quân Minh bắt, và nhà Minh chiếm nước ta. Lê Lợi anh hùng áo vải Lam Sơn người Thanh Hóa, với sự giúp sức lỗi lạc của Nguyễn Trãi, đánh đuổi quân Minh lập Nhà Lê 100 năm (1428-1527). Mạc Đăng Dung người Hải Dương cướp ngôi Lê lập Nhà Mạc. Trịnh Kiểm, Nguyễn Kim giúp Vua Lê chống lại hơn 50 năm, lấy Nghệ An làm ranh giới, trở thành Nam - Bắc Triều 1527-1592. Nhà Mạc tàn, thì Trịnh- Nguyễn (anh rể em vợ, người Thanh Hóa) phân tranh 178 năm, lấy Sông Gianh làm ranh giới. Miền Bắc có cảnh Vua Lê Chúa Trịnh. Miền Nam, Chúa Nguyễn mở mang bờ cõi tới tận Cà Mau. Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ ba anh em áo vải Tây Sơn, Bình Định xuất hiện, dẹp Bắc chinh Nam, thắng cả Nhà Thanh tại Đống Đa, lập nên Nhà Nguyễn Tây Sơn 1778-1802. Vua Quang Trung băng hà sớm, Chúa Nguyễn Ánh từ Thái Lan kéo quân về lập Triều Nguyễn Gia Long 1802-1945, đổi thành nước Việt Nam, đặt kinh đô tại Huế, và Bảo Đại là vị vua cuối cùng, kết thúc mọi triều đại vua chúa Việt Nam. Thời kỳ này dùng tiếng la tinh làm chữ quốc ngữ tức chữ Việt bây giờ, 24 chữ cái rất đơn giản nhưng vô cùng phong phú, chỉ cần học vài tuần, tối đa vài tháng, là biết đọc, biết viết bất cứ chữ nào, vấn đề chỉ còn là lỗi chính tả, hiểu sâu hay cạn mà thôi.

 

Đời Vua Tự Đức năm thứ 9, tức năm 1856, chiến thuyền Pháp bắn vào Đà Nẵng, mở đầu xâm lăng và VN rơi vào thời Pháp thuộc 100 năm, bị chia làm ba nước nhỏ : Bắc Kỳ bảo hộ, Trung Kỳ tự trị, Nam Kỳ thuộc địa, và cái chữ “KỲ” khó nghe này, đúng ra bị đã cuốn phăng theo giặc Pháp vào 1954, không dùng nữa nhưng vẫn tồn tại đến ngày hôm nay!

 

Đệ Nhị Thế Chiến 1939-1945, vào năm 1940 Nhật Bản có qua chiếm nước ta. Năm 1945 Thế Chiến kết thúc, Nhật đầu hàngđiều kiện, Pháp bị giải giới cuốn rút, nước ta tranh thủ giành độc lập, Bảo Đại tuyên bố thoái vị và là vị vua cuối cùng của nước Việt Nam.

 

Thế độc lập đất nước Việt Nam của dân tộc Việt Nam quá non trẻ sau thời gian dài đô hộ chưa kịp hồi lực hồi sức hồi sinh, chưa đủ vươn tầm vươn thế, trong khi các thế lực liệt quốc liệt cường tranh hùng tranh bá phân chia, và Thực dân Pháp quay lại tiếp tục xâu xé Việt Nam. Dân tộc mình lại tiếp tục giai đoạn 9 năm chống Pháp.

 

Năm 1954, sau trận chiến Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève ra đời, Việt Nam bị chia cắt làm đôi tại Giới tuyến 17 – Sông Bến Hải làm cột mốc, Miền Bắc được gọi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa với Thủ đô Hà Nội, Miền Nam được xưng Việt Nam Cộng Hòa với Thủ đô Sài Gòn.

 

Hai Miền Nam Bắc tiếp tục lâm vào cuộc chiến kéo dài 21 năm gọi là Cuộc chiến Quốc - Cộng, và kết thúc vào ngày 30-4-1975. Tên nước đổi thành Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, chọn Hà Nội làm Thủ đô, Sài Gòn đổi tên Thành phố.

 

Thời Pháp thuộc, có một số ít người Việt Nam phải sống xa quê hương với tên gọi lưu vong hay lưu đày. Sau 1975, làn sóng người Việt tha phương ồ ạt hơn, đông hơn gấp bội, hàng vài triệu người với tên gọi tỵ nạn.

 

Nhớ người VN lưu đày bên Tân Đảo hay các nước Phi Châu thời trước. Nhớ người Việt lưu vong ở Thái Lan của những năm nào. Khóc thương cho gần một triệu người đã nằm yên dưới đáy biển hay giữa rừng sâu, da thịt có lẽ cũng không còn. Phi Luật Tân tiêu điềuvẫn có làng tỵ nạn. Trên khắp năm châu đâu đâu cũng có người tỵ nạn, hai chữ tỵ nạn thương đau được mang và có lẽ mang đến cuối đời.

 

Có tật dậy sớm, mùa đông, ly cà phê lạnh rất nhanh. Nơi đây, tôi vẫn nghe tiếng dế đêm trường, vẫn nghe tiếng quốc kêu sương. Trong tâm thức sâu xa và đáy vực của tâm hồn, lại vang lên tiếng em bé nghèo “bánh mì nóng giòn đây” để kiếm chút tiền sách vở đến trường, tiếng bà Mẹ già nặng gánh trĩu vai “cháo đây, xôi đây” để kiếm áo kiếm cơm. Trong mắt tôi lại thấy nhiều bà Mẹ già VN mua bán ve chai, nhiều em bé sống lây lất qua các bãi rác, cả Nam Trung Bắc từ thị thành cho đến miền quê nơi đâu cũng có. Lại thấy nhiều em bé gái Việt Nam bị đi ra nước ngoài, có em thì “làm dâu” ngoại quốc, có em thì lạc cõi phiêu bồng.

 

Bỗng dưng giọt lệ làm ấm bờ mi: “Gia tài của Mẹ để lại cho con, Mẹ khuyên con tiếng nói thật thà, Mẹ khuyên con chớ quên màu da”. Dù ở đâu, ra sao, và làm gì, hãy nhớ nghe, văn hóa còn, đạo đức còn thì Dân tộc còn, nước Việt còn. Là con Rồng, là cháu Tiên, chúng ta dễ nhận ra nhau dòng giống Lạc Hồng, và một ngày kia cùng nhau bồi đắp Văn Lang.

 

Trọng đông 2012

TNT Mặc Giang
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11180)
Trong đạo Phật, cái thương đích thực nó được làm bằng cái hiểu, không hiểu thì không có thương. Cha mà nếu không hiểu con thì càng thương con, con càng khổ.
(Xem: 13247)
Tự lựcyếu chỉ để mình vượt thoát mọi khổ đau, nó có được khi mình hiểu đến nơi đến chốn, khi mình biết thương mình thật sự.
(Xem: 13410)
Khi trong ta đã có tâm tuệ, mọi hành xử của ta đều có mặt của tuệ, nên chúng không bị đối ngại bởi những nhận thức hữu ngã...
(Xem: 14007)
Mỗi tuần lễ đều có hai ngày mà chúng ta không cần phải bận tâm lo âu đến và suy nghĩ đến. Ngày thứ nhứt là Hôm Qua...
(Xem: 13254)
Ngài có công lớn đem Phật giáo vào thế giới phương Tây, mang lại hòa hợp giữa các tôn giáo, trồng cây Bồ Đềvị trí tương xứng với nhân loại ngày nay.
(Xem: 13653)
Cuộc sống là phụ thuộc lẫn nhau. Để có được hạnh phúc, một người cần phải cống hiến nuôi dưỡng hết mình cho xã hội và cho tất cả chúng sinh.
(Xem: 13302)
Ờ, thì nôn nao, thì nhớ, thì… nôn nao. Nhớ hình bóng quê nhà, là nhớ mẹ. Nhớ lúc mẹ lật đật chạy từ trong nhà ra ngõ đón mình về.
(Xem: 13225)
Một vị Bồ tát đạt được giải thoát như một vị a la hán bồ tát trên con đường trở thành một vị Phật. Nhưng ngài không dừng ở đấy; ngài sẽ hoạt động xa hơn để đạt đến giác ngộ.
(Xem: 13025)
Nói đến Tết, chúng ta thường nghĩ tới một dịp vui đầu năm mới - Tết Nguyên đán (còn gọi là Tết cả)...
(Xem: 12529)
Kính đa tạ quý Ôn giảng sư, quý thầy, quý ni sư, quý sư cô luôn hiện diện đầy đủ trong lớp học để thời gian an cư ngắn ngủi tại PHVQT năm 2011
(Xem: 14150)
Đời sống của ngài hàng ngày theo một thời khóa giản dị. Ngài dậy trước khi hừng đông, một thời gian hoàn toàn êm ả và tĩnh lặng thật tuyệt hảo để thiền quán.
(Xem: 12425)
Mỗi ngày được lên trang nhà và đọc một câu chuyện đêm khuya cũng giúp mình tịnh tâm học hỏi được chút ít gì làm hành trang cho chính mình trên con đường tu tập nên mình vui lắm.
(Xem: 13017)
Với dân số khoảng hơn 6 triệu người và có tới 1.400 ngôi chùa lớn nhỏ, Lào là nước có tỉ lệ chùa cao nhất thế giới so với số dân.
(Xem: 13359)
Phật giáo vượt qua giới hạn của cá nhân-nhận ra sự thật của sự liên kết lẫn nhau có nghĩa là cùng tham gia với mọi người trong một thế giới rộng lớn hơn.
(Xem: 11729)
Giới trí thức Phật giáo luôn quan tâm đến nghiệp vận tôn giáo mình trên quê hương cũng như nơi đất khách. Họ vẫn ngồi lại mỗi khi có dịp, nỗi ưu tư được nêu ra...
(Xem: 12590)
Về phương diện tinh thần, hơi thở còn có khả năng làm lắng dịu và chữa trị những cảm xúc tuyệt vọng, lo âu, sợ hãi, bất an v.v... trong ta được bình phục.
(Xem: 13281)
Con người ta nếu sống chân thành, thật thà với chính mình, với người thì cái tâm ấy như vàng, như kim cương nên không sợ chi lửa.
(Xem: 13133)
Văn học Phật giáo có kể về những kỹ nữ là những Phật tử thuần thành. Trưởng lão ni kệ có kể về hai kỹ nữ, cũng là hai chị em Vimala và Sarama.
(Xem: 19483)
Thủ Dầu Một đầu tiên là địa danh vùng, rồi địa danh các đơn vị hành chính các cấp: hạt TDM (1869), tỉnh TDM (1899), thị xã TDM (1975).
(Xem: 13365)
Dù lý giải như thế nào đi nữa thì cũng dễ dàng nhận thấy là mối quan hệ tình cảm của con người là cái quan trọng nhất vượt lên trên cả tiền bạc, vật chất...
(Xem: 13544)
Ta phải thực tập chính niệm để duy trì cái thấy vô thường; cái thấy các pháp tương tác duyên khởi ở trong thế gian, đang bị vô thường bức hại...
(Xem: 17697)
Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ...
(Xem: 14110)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời.
(Xem: 12981)
Một vị thiền sư nọ cất túp lều tranh trong rừng sâu sống ẩn dật tu luyện không tranh đua với đời. Thiền sư tiếp xúc với cỏ cây nhiều hơn con người cho nên tâm hồn ông rất thanh thản vô vi.
(Xem: 14062)
Thanh lọc tâm mình bằng cách thiền tập hoặc niệm Phật để tiếp xúc với năng lượng tĩnh lặng từ bên ngoài lẫn bên trong là cách làm của người tin Phật, có trí.
(Xem: 12165)
Có một thứ mà khi càng cho đi thì càng có thêm nhiều, đó là lòng tốt. Có một loại năng lượng nào càng sử dụng, thậm chí càng xài phí thì càng có nhiều thêm, đó là lòng tốt.
(Xem: 11896)
Thời giansự thật, nơi bôi xóa, giấu che và hiển lộ tất cả. Trong nghĩa ấy, thời gianlịch sử. Lịch sử được làm nên từ những ánh rực rỡ và những lặng thầm, trên đường đi của nhân loại.
(Xem: 13097)
Một ngày nọ, chàng trai muốn đi xuất gia. Chàng nói ý định này với người bạn thanh mai trúc mã của mình. Nàng thiếu nữ nghe xong thoáng buồn và hỏi lại...
(Xem: 13383)
Sơ suất có thể làm hại mình, hại người, nhất là trong những quyết định quan trọng. Đó là bài học tôi nghe được từ một người thầy.
(Xem: 11944)
Dầu cuộc đời có bận rộn và nhiêu khê đến đâu, hãy nhớ dừng lại để thở, để nhìn nụ cười trong những đóa hoa, mây bay trong tách cà phê thơm...
(Xem: 17076)
Công việc sẽ chiếm phần lớn cuộc đời bạn và cách duy nhất để thành công một cách thực sự là hãy làm những việc mà bạn tin rằng đó là những việc tuyệt vời.
(Xem: 12428)
Đức Phật đã khẳng định rằng nữ giới và nam giới đều bình đẳng trong khả năng chứng ngộ, và vì lý do đó Ngài đã cho phép họ được xuất gia...
(Xem: 12743)
Hè đến, những cánh phượng nhuộm đỏ một góc đường. Ta lại bồi hồi nhớ lại ký ức xưa cũ. Con đường đất, mái nhà xiu vẹo...
(Xem: 12327)
Hành trang đi vào trong vô thường để tìm chân thường, biết huyễn mộng vẫn đi vào huyễn mộng, để tìm lại con người chân thật, con người của thảnh thơi, thanh tịnh, hạnh phúc...
(Xem: 14009)
Mỗi bước chân và mỗi cái nhìn của mình có thể chế tác được năng lượng an lạc. Mình bước tới và mình biết là mình đang chạm vào tịnh độ.
(Xem: 12395)
Hạnh phúc luôn có mặt trên những chặng đường ta đi qua chứ không phải ở cuối con đường. Hạnh phúc có thể được tìm thấy trong từng phút giây ta sống...
(Xem: 11750)
Nếu mọi người, mọi nhà đều thực hành Luật Nhân Quả họăc biết sợ Nhân Quả thì thế giới này biến thành một Cung Trời mà chẳng cần phải bôn ba tìm kiếm Thiên Đường ở đâu khác.
(Xem: 12488)
Chư Phật Bồ tát xuất hiện ở đời vì chúng sinh mà khởi đại bi tâm, khải mê khai ngộ. Các Ngài đã phát đại nguyện ban vui cứu khổ, phụng sự cho chúng sinh mà không quản nại mọi khó khăn...
(Xem: 12981)
Khi bạn đau khổ, có những vấn đề, mắc bệnh ung thư, bệnh aids, rắc rối trong mối quan hệ, bất kỳ điều gì, hãy nghĩ: “Nguyện đại dương khổ đau sinh tử của tất cả chúng sinh khô cạn.”
(Xem: 13069)
Ở đây, mình đi tìm mùa xuân của lòng người, lòng mình, nên chỉ cần ngồi thật im, thật vững chãi và chế tác năng lượng mùa xuân...
(Xem: 12340)
Để có được sự trưởng dưỡng nội tâm, chúng ta cần phải sống chậm lại, chú ý lắng nghe nhiều hơn, nói ít đi, quan tâm nhiều hơn tới tiếng nói của nội tâm mình...
(Xem: 12414)
Trong cuộc sống cần rất nhiều thiện hạnh để nâng đỡ cho tinh thầnđời sống của chúng ta. Nếu không có những thiện hạnh, chúng ta sẽ dễ sao nhãng tinh thần...
(Xem: 11801)
Một phê bình luôn phải đặt vững trên nền tảng thực tại riêng của nó – thực tại mà nhãn quan của nó làm phát lộ, cái thực tại đặc thù bởi trong cách thức đặc thù mà liên hệ đến cái thực tại...
(Xem: 11848)
VNPG không phải là một phong trào hay một giai đoạn làm ăn phát đạt nhờ mua bán giỏi, mà là một nền tảng đạo đức chuyên biệt, dung chứa những tâm nguyện cao cả...
(Xem: 12132)
Chúng ta may mắn có một đạo Phật, dưới ánh sáng của Đấng Giác ngộ với tấm lòng Từ bi và Trí tuệ, xuất hiện trên cuộc đời uế trược nầy vì lợi ích cho trời người.
(Xem: 13203)
Lắng nghe mọi người, để hiểu và thương. Đó cũng là một cách nói rằng: tôi luôn có mặt cho mọi người, nhất là những người đang khổ đau.
(Xem: 12735)
Khi mình niệm hơi thở, nụ cười, là khi mình làm cho tâm mình lắng dịu, như hồ nước không gợn sóng, có nghĩa là mình có định.
(Xem: 13157)
Giác ngộ mới là cái cần làm, trong đó trước tiên là hiểu mình, đến hiểu bản chất của cuộc sống vạn vật, rồi quay lại với cuộc sống sôi động.
(Xem: 11765)
Thịt bò nói riêng và súc vật nuôi để làm thức ăn cho con người nói chung đã và đang tổn hại môi trường sinh thái.
(Xem: 14939)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã làm rõ ràng việc chúng ta có thể tha thứ ra sao nhưng vẫn tin rằng trong ý chí tự do chọn lựa, tất cả chúng tathể không phải hành động tổn hạithực hiện những điều tốt đẹp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant