Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Băng ngàn

19 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 13784)
Băng ngàn



Xem hình

Mùa đông năm ấy tuyết không rơi nhiều, nhưng cái lạnh vẫn theo sương khói ùa về làm xác xơ thêm cho khu rừng mới trải qua một mùa dông bão kéo dài trước đó.

Dân trong vùng cũng đang bị nạn dịch cúm. Lúc này mọi người kéo nhau vào rừng tìm hái cỏ thuốc, và những gì có thể ăn được cho qua cơn đói lạnh ngặt nghèo.

Xung quanh một hang động nhỏ, người ta phát hiện khoảng đất rộng mọc đầy các loài dược thảo, cùng mấy luống khoai bắp đậu cà trái mùa đang ra hoa kết nụ. Tất cả đều mọc thẳng tắp như có bàn tay ai đó gieo trồng vun quén. Nhiều ngày rồi, ai qua lại nơi đây đều nhìn thấy một vị đạo sĩ ngồi tịnh niệm dưới gốc cây sồi già, trời lạnh như cắt với đầy sương sớm gió chiều, nhưng thân hình người vẫn bất động, an nhiên.

Người ta nhận ra đó là vị tu sĩ lúc trước vẫn hay vào trong xóm, tay xách một giỏ đầy thuốc đến tận nhà chữa trị cho dân làng, và từ chối những thực phẩm mà bệnh nhân cúng dường tạ ơn. Ông biết mọi người đang đói. Trận bão lũ đã cuốn trôi hết hoa màu. Bệnh dịch lại lan tràn nơi vùng sơn cước hẻo lánh cách xa phố thị đến mấy ngày đường.

Không ai biết vị ẩn sĩ đang lưu trú tận nơi nẻo núi cao heo hút này. Có lẽ lâu nay ít người vào sâu trong rừng. Mà cũng bởi ông là người từ miền xuôi đến, rồi cám cảnh ở lại tịnh tu và trồng các loại hoa màu để giúp dân làng. Mà sao Người cứ ngồi yên, mắt nhắm nghiền mãi thế kia. Ai đó đọc ra tấm biển nhỏ ghi ngoài bìa rừng “Dân làng cần dùng thứ gì cứ tuỳ tiện hái mang về”. Ngưòi ta chỉ vào xin một ít lá thuốc, tuyệt không dám làm kinh động đến sự yên tịnh của Người.

Rồi một buổi sớm, ẩn sĩ cũng xả thiền. Dường như mùa xuân vừa đến. Hoa cỏ nhuộm một sắc màu yên vui đằm thắm. Cư dân đã qua trận bệnh tật, lại trở nên sung sức hơn nhờ ăn những củ nhân sâm hái từ khu vườn của vị đạo sĩ. Nhà nhà giờ đây đang tưng bừng trong lễ hội mừng xuân. Vị tu sĩ mỉm cười trong ngày đầu năm đối diện với cảnh vật hữu hình. Những tia nắng xuân ấm áp soi sáng cả một góc hang động thâm u lạnh lẽo. Bỗng Người nhìn về phía khu rừng. Thấp thoáng có một bóng người từ xa. Một cô gái trẻ mặc váy bằng vải thổ cẩm màu sặc sỡ đang rẽ vào con đường mòn. Khi đến bên vị tu sĩ cô quỳ xuống, lấy ra từ trong làn giỏ mây một ít trái cây dâng lên. Khi ngước lên, cô hơi bất ngờ vì thấy tu sĩ nhìn mình chăm chú. Vị tu sĩ quan sát cô gái nhỏ, rồi bất ngờ kêu lên: - Đông Sơn…

Cô gái ngạc nhiên, ấp úng: - Thưa…. ngài… vừa gọi tên của mẹ con. Xin hỏi vì sao ngài lại biết ?

Vị tu sĩ ngần ngừ giây lát rồi bỗng cười lớn. Nụ cười thoải mái tự tại mà dường như là để che dấu điều gì đó.

- Năm xưa ta từng đi ngao du đây đó. Và một lần ghé qua miền núi non cách trở này, ta có gặp cô gái Đông Sơn. Rất giống cô bây giờ. Thời gian thắm thoát. Đã hai mươi năm rồi còn gì. Vậy mà ta ngỡ như mới hôm nào. Không ngờ. À! Mẹ cô bây giờ… vẫn khỏe… chứ?

Gương mặt cô gái buồn buồn: - Thưa… Mẹ con mất cách đây hơn năm rồi. Mộ mẹ nằm ngoài bìa rừng. Hôm cuối năm đi tảo mộ, con mới biết có ngài ẩn tu ở đây…

***

Cô gái lớn lên nơi miền sơn cước hoang dã lại có nét đẹp diệu dàng như cánh hoa rừng khép nép mà sắc hương lan tỏa. Nhìn vóc dáng và tên gọi, không ai nghĩ cô là người dân tộc. Mà cũng thật như vậy. Cha mẹ Đông Sơn vốn là người kinh, cùng lên miền núi công tác, gặp gỡ nhau mà nên duyên cầm sắt. Sau khi đứa con gái ra đời được đặt tên là Đông Sơn, thì hai vợ chồng cùng mất trong một lần dịch bệnh. Đứa bé được dân làng nuôi nấng và rồi cũng lớn khôn theo năm tháng, trong trắng thơ ngây, rực rỡ giữa mây ngàn gió núi.

Cô thích múa, thích ca, thích hái hoa rừng về điểm trang thêm cho vẻ đẹp hoang sơđằm thắm của mình. Tiếng hát trong trẻo như chim Sơn Ca lại uỵển chuyển như mây trời lãng đãng của cô gái tuổi trăng tròn từng làm rung động bao trái tim chàng trai trẻ khắp miền Trung du một thời. Núi rừng ngàn năm ắt hẳn sẽ mãi yên bình trong tâm hồn cô gái, nếu như… Ôi! Giá như sự đời không tồn tại hai từ này, thì con người ta đâu phải thốt lên lời hối tiếc muộn màng, chứa đựng bao niềm đau, bao nỗi xót xa khoắc khoải…

Năm đó có một đoàn y sĩ từ miền xuôi đến khám bệnh cho dân làng. Một chàng trai thông minh đỉnh đạt được đề cử lưu lại thêm một thời gian khi đoàn rời đi. Chàng tên Hiền Minh, là y sĩ mới ra trường. Nhiệm vụ của chàng là huấn luyện cấp tốc một lớp y tá cho buôn làng. Đông Sơntham dự khóa học ấy. Thế là chuyện tình cảm xảy ra giữa đôi trai tài gái sắc là điều không tránh khỏi. Mãn khóa học, chàng trai trở về thành phố. Rồi cũng từ đó, Đông Sơn mất đi vẻ trinh trắng hồn nhiên của loài hoa dại chốn đại ngàn. Giọng hát của chim Sơn Ca cũng vắng tiếng mà thay vào đó là đôi mắt nâu đượm buồn của nàng sương phụ cứ dõi nhìn về phía chân trời thăm thẳm. Nhưng người ra đi đã không một lần quay trở lại.

Sau đó thì Đông Sơn hạ sanh một bé gái. Một lần nữa buôn làng sẵn lòng dang tay đùm bọc lo lắng cho hai mẹ con cô, như ngày xưa cô đã ra đời và được dưỡng nuôi nơi miềm sơn cước thấm đậm nghĩa tình này. Bao năm tháng, hoa rừng vẫn rộ nở. Ghềnh thác cheo leo và núi non hữu tình đã tạc nên một vóc dáng xinh xắn, trọn vẹn công dung ngôn hạnh cho đứa con gái có mẹ không cha. Buôn làng bây giờ đã thay đổi nhiều. Có trạm xá đầy đủ các phương tiện tối thiểu. Có trường phổ thông Trung Học nội trú ngoài thị trấn chỉ cách ven rừng hơn vài cây số. Có con đường quốc lộ chạy dài dọc miền xuôi ngược.

Nhìn con lớn khôn ngoan hiền học giỏi, Đông Sơn lấy đó làm nguồn an ủi lớn lao cho đời mình. Đứa con gái đựơc kết tinh nên từ vẻ đẹp rực rỡ hoang sơn của mẹ cùng sự mẫn cảm thông tuệ của người cha cũng sớm trở thành niềm tự hào chung cho cả buôn làng, cho cả núi rừng cây cỏ.

- Mẹ con làm y tá nơi trạm xá xã. Một lần mẹ vào tận núi sâu để cứu một sản phụ sanh khó, rồi bị tai nạn mất. - Cô gái nói tiếp sau khi kể lại câu chuyện về cuộc đời của người Mẹ -Con cũng sắp tốt nghiệp khóa đông y. Trong năm khi dân làng bị dịch bệnh, thầy đã ghé về đây cứu chữa bằng các loại thảo dược. Con rất thích theo học hỏi mà không dám…

- Được rồi. Ta sẽ truyền dạy cho con những gì mà ta biết… như ngày xưa… à này! Mẹ con ắt là oán hậnđau khổ nhiều lắm. Bởi kẻ đã quất ngựa truy phong ngày đó? - Vị tu sĩ có vẻ xúc động khẻ hỏi.

- Dạ không. Mẹ vẫn thường hay kể chuyện về ba cho con nghe. Mẹ không có chút gì oán hận ông ấy cả. Mẹ bảo: “Ông ấy chắc có nỗi khổ tâm riêng nên đã không quay trở lại. Một người thành phố có gia thế danh vọng giàu có lại là con một - theo như lời ba nói ấy mà, thì ít gia đình nào chấp nhận có một nàng dâu mồ côi lại là người dân tộc xa xôi này. Vả lại người đàn ông đó cũng không hề biết là mình để lại giọt máu rơi ở nơi này. Có một đứa con với người mình thương yêu, thế là đủ. Mẹ không còn mong muốn gì hơn.

Vị tu sĩ chìm sâu trong suy tưởng. Người đang tịnh niệm hay nghĩ ngợi về chuyện thế sự đa đoan đầy khổ lụy của kiếp nhân sinh. Không thể đoán định được qua vẻ mặt trầm tĩnh dù có thoáng lên đôi chút dao động khi lắng nghe câu chuyện. Cô gái vẫn miên man kể như một lời tâm sự chôn kín nay mới được dịp thố lộ: -Bây giờ con chỉ có một mong ước… là được gặp ba. Dù chỉ một lần duy nhất trong đời. Dù không được gọi lên tiếng ba theo lẽ thường tình…

- Con tên là gì ? – Vị tu sĩ đột ngột mở mắt ra hỏi.

- Dạ con tên Băng Ngàn. Mẹ bảo có một lần ba nói nếu có con gái sẽ đặt tên là Băng Ngàn. Ý nói ba đã băng ngàn vượt suối gặp mẹ ở đây.

Vị tu sĩ lại cười. Nụ cười hiền từẩn khuất xa xôi. Người lặng ngắm nhánh mai rừng mà ai đó đem đặt bên Thạch động chiều qua. Tu sĩ đã tận hưởng một mùa xuân yên tịnh của núi rừng muôn thuở diệu kỳ. Dòng suối bấy lâu nay khô cạn, bỗng dâng tràn như ghềng thác lũ… để rồi tuôn chảy qua bao mảnh đời thực thực hư hư.

***

Vị tu sĩ nhuốm bệnh đã mấy hôm rồi. Hằng ngày Băng Ngàn nấu cháo và sắc thuốc đem đến. Người vẫn ngồi thiền bên ngoài Thạch thất và chỉ nhấp chút cháo loãng. Đến ngày thứ ba, người mở mắt bảo với cô gái: - Ta sắp đi rồi. Chỉ tiếc là chưa truyền dạy hết ngành thuốc cho con, lại chưa kịp dạy về đạo lý tu học. Nhân duyên gặp con chỉ bấy nhiêu. Ta chỉ có ít sách thuốc để lại, con hãy đọc và thực hành theo đó để làm lợi ích cho nhân sinh. Điều tâm huyết cuối cùng của ta là… ước mong con vẫn sống tốt đẹp như núi rừng ngàn năm vang vọng, với những gì mà mẹ con đã sống, đã chắt chiu cho con cho đời, dù có ta hay không ở cõi đời này.

Thế là Người yên lặng ra đi thanh thản khi mùa xuân vừa hết. Mọi người hỏa thiêu người ngay bên Thạch thất. Băng Ngàn giữ lấy nắm tro tàn dựng lên một ngọn tháp nhỏ thờ phụng kính bái. Cô ở lại luôn nơi đó. Hằng ngày đọc kinh điển, ngồi thiềnnghiên cứu sách thuốc cùng lo trồng tỉa và chế tác các loài thảo dược đem lại trạm xá giúp dân làng có bệnh. Không ai biết tung tích của vị ẩn sĩ khi Người đến cũng như lúc ra đi, ngoại trừ Băng Ngàn. Cô gái của chốn núi rừng lại có huyết thống với vị tu sĩ vừa thị tịch.

Những cánh chim Sơn Ca lại rộn rã tưng bừng hát vang bên khu rừng dược thảo. Một am thất nhỏ. Một trạm xá cùng bóng một ni cô diệu dàng cần mẫn vào ra chăm sóc cho bệnh nhân xóm núi. Con đường phố núi vừa thông thương, lòng người thôi không còn lo cách trở vì băng đèo vượt suối. Người muôn năm trước cũng đã quay về, để chốn ngàn sâu mọi sự sống vẫn không ngừng tiếp diễn… theo dòng thời gian.



Lam Khê (Theo Hoằng Pháp)





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 593)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 778)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1099)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1337)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 787)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 761)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 806)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 822)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 794)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 781)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 937)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 824)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 980)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 997)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 923)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 849)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1004)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 985)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 900)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 842)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 950)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 903)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1006)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1144)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1607)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1155)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1251)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1104)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 968)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 951)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 795)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1477)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1356)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1266)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1370)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1324)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1469)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1346)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1198)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1257)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1316)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant