Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một Bài Học Lịch Sử Còn Để Lại Dấu Tích Văn Chương

09 Tháng Năm 201407:23(Xem: 17689)
Một Bài Học Lịch Sử Còn Để Lại Dấu Tích Văn Chương


1.
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta. Một giai đoạn đen tối của lịch sử dân tộc bắt đầu từ đây và đã được danh nhân văn hóa thế giới là Nguyễn Trãi ghi tả bằng ngôn ngữ văn chương :”Quân cường Minh đã thừa cơ tứ ngược, bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ“.(1)

Thấy rõ bộ mặt giả dối, gian ác của kẻ thù và bè lũ Việt gian, con cháu nhà Trần khởi binh đánh giặc cứu dân, cứu nước. Không còn tin tưởngnăng lực lãnh đạo của Giản Định Đế Trần Quỹ, vị tướng văn võ toàn tài Đặng Dung phò Trần Quý Khoách lập căn cứ ở Nghệ An, lấy niên hiệu là Trần Trùng Quang. Năm 1413, bị tướng nhà Minh là Trương Phụ đuổi đánh, Quý Khoách phải chạy vào Hóa Châu, rồi cử mưu sĩ là Nguyễn Biểu đến trại tướng Tàu ở Nghệ An để xin hòa và cầu phong.

Trước thái độ ngoan cố, thoái thác quanh co của Trương Phụ, Nguyễn Biểu tức giận mắng chửi : “Chúng bay trong bụng thì chỉ lo đường chiếm giữ, ngoài mặt lại giương tiếng đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp; trước thì nói sang lập họ Trần, sau lại đặt quận huyện để cai trị, rồi tìm kế để vơ vét của cải, ức hiếp sinh dân; chúng bay thật là đồ ăn cướp hung ngược!”(2)

Thử thách gan dạ của sứ giả Việt Nam, Trương Phụ sai nấu một cái đầu người rồi dọn cỗ mời ăn ! Không sợ hãi, Nguyễn Biểu dùng đũa gắp hai tròng mắt bỏ vào miệng nuốt ngon lành ! Ban đầu, vì cảm phục khí tiết của sứ thần nhà hậu Trần, Trương Phụ tha cho về, nhưng về sau, nghe lời xúi giục của tả hữu, y thay đổi ý kiến, sai quân đuổi theo bắt lại, rồi trói vào chân cột cầu sông Lam cạnh chùa Yên Quốc. Vào ban đêm, thủy triều dâng cao, vị sứ giả anh hùng của nước Việt chết ngộp dưới chân cầu…

2.
Lần đi sứ bi hùng và sự hi sinh anh dũng của sứ giả Nguyễn Biểu đã để lại dấu tích trong lịch sử văn học nước nhà. Ngoài ba bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú (3) còn có bài tụng của Sư chùa Yên Quốc cầu cho Nguyễn Biểu và bài văn tế của Trần Trùng Quang tế Nguyễn Biểu. Nếu cả năm tác phẩm này cung cấp cho hậu thế những tài liệu xác thực về văn học chữ Nôm đời Trần thì bài tụng và bài văn tế là hai bằng chứng sinh động để chúng ta khẳng định Phật giáo đã đồng hành với dân tộc qua lịch sử ngàn năm.

Phật tử chúng ta đều biết đời Lý và đời Trần là thời cực thịnh của Phật giáo Việt Nam. Cho nên, không còn nghi ngờ gì nữa, đối với một tu sĩ Phật giáo của thời đại hoàng kim ấy, vào chùa là bước vào cửa Không để tu, để sống thanh cao với “mùi thiền” là “muối dưa” và “màu thiền” là “nâu sồng“, vì “Sự đời đã tắt lửa lòng/ Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi !“(4) Thế nhưng, cũng giống như các bậc chân tu của hai triều đại Lý Trần, ngọn lửa của tình yêu nước thương dân không bao giờ “tắt” trong trái tim của vị tu sĩ chùa Yên Quốc. Bằng cảm xúc của một người Việt yêu giống nòi, nhà Sư chùa Yên Quốc đã viết bài kệ ca tụng đức tính trung kiêntinh thần bất khuất của sứ thần Nguyễn Biểu :

“Trần quốc xẩy vừa mạt tạo , sứ hoa bỗng có trung thần.
Vàng đúc lòng son một tấm , sắt rèn tiết cứng mười phân.“(5)

Lịch sử ngàn năm bị ngoại xâm và chống ngoại xâm của nước nhà đã rèn đúc cho người Việt một tình tự dân tộc độc đáo. Đó là lòng oán hận, khinh ghét vô cùng những tội đồ của lịch sử là bọn mãi quốc cầu vinh. Đó là lòng tôn kính, biết ơn vô hạn những anh hùng dân tộc đã có công đánh giặc, cứu nước. Một biểu hiện sinh động của tình cảm cao đẹp này là mỹ tục lập đền thờ tưởng niệm để đời đời nhớ ơn và ngưỡng mộ như thần thánh những bậc minh quândanh tướng đã vì nước quên thân. Không đi ra ngoài truyền thống đó, Sư Ông chùa Yên Quốc đã kết thúc bài kệ bằng lời cảm thán cái chết bi ai mà hùng tráng của Nguyễn Biểu và đồng thời hộ niệm, suy tôn vị sứ thần quả cảm thành “phúc thần” bảo hộ đất nước và nhân dân :

Trần kiếp vì đâu oan khổ , phương hồn đến nỗi trầm luân.
Tế độ dặn nhờ từ phiệt , chân linh ngỏ được phúc thần.“(6)

Nếu bài kệ của Sư chùa Yên Quốc thể hiện lòng thương dân, yêu nước thiết tha thì bài văn tế của vua Trần Trùng Quang bày tỏ lòng căm thù giặc sâu sắc :

Sinh sinh hóa hóa, cơ huyền tạo mờ mờ ; sắc sắc không không, bụi hồng trần phơi phới.
Bất cộng thù, thiên địa chứng cho ; vô cùng hận, quỷ thần thề với.” (7)

Qua hai câu văn có đối có vần, chúng ta gặp lại ở đây sự song hành của Phật giáo và dân tộc.

Câu thứ nhất là tuyên ngôn của nhà Phật học Trần Quý Khoách. Với đa số chúng ta, “sinh” thường đi đôi với “tử” để mở đầu và kết thúc một quá trình đi từ sống đến chết của đời người. Nhưng với Trần Quý Khoách, người đã am hiểunhân quảluân hồi, “tử” được thay bằng “hóa” để xác định rằng chết không có nghĩa là hết mà chết chỉ là một lần thay đổi hình thức của sự sống để bắt đầu một cuộc đời mới. Có cái này vì có cái kia, có cái này thì có cái kia. Cho nên sinh ra không có nghĩa là bắt đầu từ số không và chết đi cũng không có nghĩa là chấm dứt để trở về với số không ấy. “Sinh sinh hóa hóatiếp nối không ngừng. “Sắc sắc không khôngtái diễn chẳng bao giờ dứt. Có hiểu biết sâu sắc và lạc quan như vậy về lẽ sinh tử, người Phật tử chân chính quan niệm cái chết chẳng khác gì một lần thay áo mới để “phơi phới” phủi sạch “bụi hồng trần” …

Câu thứ hai là tiếng nói của vị lãnh đạo kháng chiến Trần Trùng Quang. Không thể giữ tâm thanh tịnh trước thái độ cực kỳ gian ác, vô cùng tàn bạo và hoàn toàn không có văn hóa mà tướng giặc đã đem ra đối xử với toàn dân Việt Nam trước đó và với sứ giả Việt Nam bây giờ, trước trời đất thiêng liêngquỷ thần siêu nhiên, vị vua cuối cùng của nhà hậu Trần đã thề không đội trời chung với kẻ thù. Đọc đến đây, có thể một người bàng quan sẽ nêu thắc mắc: Đã liễu tri lẽ sinh hóa, sắc không để rũ sạch bụi trần với tấm lòng phơi phới, tại sao Phật tử Trần Quý Khoách còn sinh tâm thù hận “ác liệt” như vậy ? Phải chăng đã có sự đối lập giữa đạo và đời, giữa xuất thếnhập thế trong hai phát ngôn của một tác giả ?

Sống trong một quốc gia có đất rộng, người đông, một thiểu số tu sĩ hay đạo sĩ có thể gác bỏ ngoài tai mọi chuyện đời để toàn tâm toàn ý sống với lẽ đạo thanh cao và mầu nhiệm. Nhưng nước Việt đất không rộng, người không đông, lại thường xuyên đối đầu với tham vọng chiếm cứ và đồng hóa của những kẻ thù lớn mạnh hơn mình nhiều lần. Cho nên, khi đất nước bị ngoại xâm, để có đủ tay súng mà chiến đấu và chiến thắng , tất cả công dân Việt Nam – không phân biệt tuổi tác, giới tính, chính kiến, lòng tin tôn giáotrình độ học vấn – đều ra trận. Dã sử nước Việt ca ngợi Thánh Gióng là cậu bé mới lên ba của làng Phù Đổng mà đã biết xin nhà vua cho ngựa sắt, roi sắt để đánh đuổi giặc Ân. Chính sử nước nhà cho biết lịch sử đấu tranh bảo vệ đất nước của dân tộc được bắt đầu bằng cuộc khởi nghĩa vào giữa thế kỷ thứ nhất của hai bậc nữ nhi là Trưng Trắc và Trưng Nhị. Ý chíquyết tâm của những cụ già tham dự Hội nghị Diên Hồng đã tiếp sức cho vua quan nhà Trần làm nên chiến thắng giặc Nguyên Mông vô cùng oanh liệt vào thế kỷ XIII. Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Khi Tổ quốc lâm nguy, những tu sĩ Phật giáo như Sư chùa Yên Quốc, những tín đồ Phật giáo như vua Trần Trùng Quang làm sao có thể an tâm tụng đọc câu kinh Bát Nhãsắc tức thị không, không tức thị sắc” để xóa nhòa ranh giới giữa bạn và thù ?

3.
Vào chiều chủ nhật ngày 3 tháng 2 năm Đinh Hợi (23.2.1947), ở ngọai ô thành phố Huế, không biết hưởng ứng cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Minh tích cực đến mức nào mà vị tu sĩ trẻ ưu tú của Phật giáo Việt Nam thời phục hưngPháp sư Trí Thuyên đã bị thực dân Pháp thi hành án tử ngay tại chùa Kim Sơn!? Bằng tiếng Pháp, Thầy yêu cầu viên sĩ quan chỉ huy lính viễn chinh dành ít phút để đắp y và tụng đọc một thời kinh trước mũi súng của giặc ngoại xâm.(8) Chúng tôi nghĩ rằng, trong khung cảnh thiêng liêng mà hùng tráng này, thời kinh siêu độ không thể thiếu bài kinh Bát Nhã: “Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc,…

Cùng với sự tích bi tráng của nghĩa sĩ Nguyễn Biểu năm xưa, sự hoá thân uy linh của Tỳ kheo Thích Trí Thuyên vào giữa thế kỷ XX vừa qua chứng tỏ Phật giáo Việt luôn đồng hành với dân tộc Việt để cùng chia sẻ những mất mát và đau thương do những thế lực ngoại lai phi dân tộc và phản dân tộc đã và đang liên tục gây ra. Phật tử chúng ta tin tưởng rằng, dù phải chịu đựng vô vàn thử thách và gian nguy, dân tộc và đạo pháp vẫn tồn tại , như ngọc cháy trên núi mà sắc vẫn sáng đẹp, như sen đốt trong lò mà màu vẫn tốt tươi :

Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận,
Liên phát lô trung thấp vị can.” (9)

Hà Thúc Hoan
TP. HCM 1.6.11

Chú thích

(1) Nguyễn Trãi, Bình Ngô đại cáo ( bản dịch của Trần Trọng Kim)
(2) Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, quyển 1, Trung tâm học liệu xuất bản, Sài Gòn, 1971, tr.204.
(3) – Bài thơ vua Trần Trùng Quang tiễn tặng Nguyễn Biểu lúc đi sứ ;
- Bài thơ Nguyễn Biểu họa lại;
- Bài thơ Nguyễn Biểu làm lúc ăn cỗ đầu người.
(4) Nguyễn Du, Truyện Kiều
(5) (6) (7) Dẫn theo Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, quyển 2, Quốc học tùng thư, Sài Gòn, 1968, tr.63,64.
(8) Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm, Lịch sử Phật giáo xứ Huế, Nxb TP.Hồ Chí Minh, TP.HCM,2001, tr.507,508.
(9) Ngộ Ấn Thiền Sư, Thị tịch

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1233)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1297)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1359)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1339)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1459)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1358)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1429)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1421)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1305)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1370)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1392)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 2085)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1412)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1442)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1305)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1569)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1423)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1269)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1249)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1305)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1286)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1432)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1155)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1146)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1192)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1332)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1354)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1118)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1240)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1168)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1322)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1312)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1452)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1557)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1292)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1267)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1411)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1453)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1364)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1713)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1348)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1335)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1372)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1214)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1238)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1377)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1491)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1566)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1738)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant