Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một Bài Học Lịch Sử Còn Để Lại Dấu Tích Văn Chương

09 Tháng Năm 201407:23(Xem: 17747)
Một Bài Học Lịch Sử Còn Để Lại Dấu Tích Văn Chương


1.
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta. Một giai đoạn đen tối của lịch sử dân tộc bắt đầu từ đây và đã được danh nhân văn hóa thế giới là Nguyễn Trãi ghi tả bằng ngôn ngữ văn chương :”Quân cường Minh đã thừa cơ tứ ngược, bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ“.(1)

Thấy rõ bộ mặt giả dối, gian ác của kẻ thù và bè lũ Việt gian, con cháu nhà Trần khởi binh đánh giặc cứu dân, cứu nước. Không còn tin tưởngnăng lực lãnh đạo của Giản Định Đế Trần Quỹ, vị tướng văn võ toàn tài Đặng Dung phò Trần Quý Khoách lập căn cứ ở Nghệ An, lấy niên hiệu là Trần Trùng Quang. Năm 1413, bị tướng nhà Minh là Trương Phụ đuổi đánh, Quý Khoách phải chạy vào Hóa Châu, rồi cử mưu sĩ là Nguyễn Biểu đến trại tướng Tàu ở Nghệ An để xin hòa và cầu phong.

Trước thái độ ngoan cố, thoái thác quanh co của Trương Phụ, Nguyễn Biểu tức giận mắng chửi : “Chúng bay trong bụng thì chỉ lo đường chiếm giữ, ngoài mặt lại giương tiếng đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp; trước thì nói sang lập họ Trần, sau lại đặt quận huyện để cai trị, rồi tìm kế để vơ vét của cải, ức hiếp sinh dân; chúng bay thật là đồ ăn cướp hung ngược!”(2)

Thử thách gan dạ của sứ giả Việt Nam, Trương Phụ sai nấu một cái đầu người rồi dọn cỗ mời ăn ! Không sợ hãi, Nguyễn Biểu dùng đũa gắp hai tròng mắt bỏ vào miệng nuốt ngon lành ! Ban đầu, vì cảm phục khí tiết của sứ thần nhà hậu Trần, Trương Phụ tha cho về, nhưng về sau, nghe lời xúi giục của tả hữu, y thay đổi ý kiến, sai quân đuổi theo bắt lại, rồi trói vào chân cột cầu sông Lam cạnh chùa Yên Quốc. Vào ban đêm, thủy triều dâng cao, vị sứ giả anh hùng của nước Việt chết ngộp dưới chân cầu…

2.
Lần đi sứ bi hùng và sự hi sinh anh dũng của sứ giả Nguyễn Biểu đã để lại dấu tích trong lịch sử văn học nước nhà. Ngoài ba bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú (3) còn có bài tụng của Sư chùa Yên Quốc cầu cho Nguyễn Biểu và bài văn tế của Trần Trùng Quang tế Nguyễn Biểu. Nếu cả năm tác phẩm này cung cấp cho hậu thế những tài liệu xác thực về văn học chữ Nôm đời Trần thì bài tụng và bài văn tế là hai bằng chứng sinh động để chúng ta khẳng định Phật giáo đã đồng hành với dân tộc qua lịch sử ngàn năm.

Phật tử chúng ta đều biết đời Lý và đời Trần là thời cực thịnh của Phật giáo Việt Nam. Cho nên, không còn nghi ngờ gì nữa, đối với một tu sĩ Phật giáo của thời đại hoàng kim ấy, vào chùa là bước vào cửa Không để tu, để sống thanh cao với “mùi thiền” là “muối dưa” và “màu thiền” là “nâu sồng“, vì “Sự đời đã tắt lửa lòng/ Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi !“(4) Thế nhưng, cũng giống như các bậc chân tu của hai triều đại Lý Trần, ngọn lửa của tình yêu nước thương dân không bao giờ “tắt” trong trái tim của vị tu sĩ chùa Yên Quốc. Bằng cảm xúc của một người Việt yêu giống nòi, nhà Sư chùa Yên Quốc đã viết bài kệ ca tụng đức tính trung kiêntinh thần bất khuất của sứ thần Nguyễn Biểu :

“Trần quốc xẩy vừa mạt tạo , sứ hoa bỗng có trung thần.
Vàng đúc lòng son một tấm , sắt rèn tiết cứng mười phân.“(5)

Lịch sử ngàn năm bị ngoại xâm và chống ngoại xâm của nước nhà đã rèn đúc cho người Việt một tình tự dân tộc độc đáo. Đó là lòng oán hận, khinh ghét vô cùng những tội đồ của lịch sử là bọn mãi quốc cầu vinh. Đó là lòng tôn kính, biết ơn vô hạn những anh hùng dân tộc đã có công đánh giặc, cứu nước. Một biểu hiện sinh động của tình cảm cao đẹp này là mỹ tục lập đền thờ tưởng niệm để đời đời nhớ ơn và ngưỡng mộ như thần thánh những bậc minh quândanh tướng đã vì nước quên thân. Không đi ra ngoài truyền thống đó, Sư Ông chùa Yên Quốc đã kết thúc bài kệ bằng lời cảm thán cái chết bi ai mà hùng tráng của Nguyễn Biểu và đồng thời hộ niệm, suy tôn vị sứ thần quả cảm thành “phúc thần” bảo hộ đất nước và nhân dân :

Trần kiếp vì đâu oan khổ , phương hồn đến nỗi trầm luân.
Tế độ dặn nhờ từ phiệt , chân linh ngỏ được phúc thần.“(6)

Nếu bài kệ của Sư chùa Yên Quốc thể hiện lòng thương dân, yêu nước thiết tha thì bài văn tế của vua Trần Trùng Quang bày tỏ lòng căm thù giặc sâu sắc :

Sinh sinh hóa hóa, cơ huyền tạo mờ mờ ; sắc sắc không không, bụi hồng trần phơi phới.
Bất cộng thù, thiên địa chứng cho ; vô cùng hận, quỷ thần thề với.” (7)

Qua hai câu văn có đối có vần, chúng ta gặp lại ở đây sự song hành của Phật giáo và dân tộc.

Câu thứ nhất là tuyên ngôn của nhà Phật học Trần Quý Khoách. Với đa số chúng ta, “sinh” thường đi đôi với “tử” để mở đầu và kết thúc một quá trình đi từ sống đến chết của đời người. Nhưng với Trần Quý Khoách, người đã am hiểunhân quảluân hồi, “tử” được thay bằng “hóa” để xác định rằng chết không có nghĩa là hết mà chết chỉ là một lần thay đổi hình thức của sự sống để bắt đầu một cuộc đời mới. Có cái này vì có cái kia, có cái này thì có cái kia. Cho nên sinh ra không có nghĩa là bắt đầu từ số không và chết đi cũng không có nghĩa là chấm dứt để trở về với số không ấy. “Sinh sinh hóa hóatiếp nối không ngừng. “Sắc sắc không khôngtái diễn chẳng bao giờ dứt. Có hiểu biết sâu sắc và lạc quan như vậy về lẽ sinh tử, người Phật tử chân chính quan niệm cái chết chẳng khác gì một lần thay áo mới để “phơi phới” phủi sạch “bụi hồng trần” …

Câu thứ hai là tiếng nói của vị lãnh đạo kháng chiến Trần Trùng Quang. Không thể giữ tâm thanh tịnh trước thái độ cực kỳ gian ác, vô cùng tàn bạo và hoàn toàn không có văn hóa mà tướng giặc đã đem ra đối xử với toàn dân Việt Nam trước đó và với sứ giả Việt Nam bây giờ, trước trời đất thiêng liêngquỷ thần siêu nhiên, vị vua cuối cùng của nhà hậu Trần đã thề không đội trời chung với kẻ thù. Đọc đến đây, có thể một người bàng quan sẽ nêu thắc mắc: Đã liễu tri lẽ sinh hóa, sắc không để rũ sạch bụi trần với tấm lòng phơi phới, tại sao Phật tử Trần Quý Khoách còn sinh tâm thù hận “ác liệt” như vậy ? Phải chăng đã có sự đối lập giữa đạo và đời, giữa xuất thếnhập thế trong hai phát ngôn của một tác giả ?

Sống trong một quốc gia có đất rộng, người đông, một thiểu số tu sĩ hay đạo sĩ có thể gác bỏ ngoài tai mọi chuyện đời để toàn tâm toàn ý sống với lẽ đạo thanh cao và mầu nhiệm. Nhưng nước Việt đất không rộng, người không đông, lại thường xuyên đối đầu với tham vọng chiếm cứ và đồng hóa của những kẻ thù lớn mạnh hơn mình nhiều lần. Cho nên, khi đất nước bị ngoại xâm, để có đủ tay súng mà chiến đấu và chiến thắng , tất cả công dân Việt Nam – không phân biệt tuổi tác, giới tính, chính kiến, lòng tin tôn giáotrình độ học vấn – đều ra trận. Dã sử nước Việt ca ngợi Thánh Gióng là cậu bé mới lên ba của làng Phù Đổng mà đã biết xin nhà vua cho ngựa sắt, roi sắt để đánh đuổi giặc Ân. Chính sử nước nhà cho biết lịch sử đấu tranh bảo vệ đất nước của dân tộc được bắt đầu bằng cuộc khởi nghĩa vào giữa thế kỷ thứ nhất của hai bậc nữ nhi là Trưng Trắc và Trưng Nhị. Ý chíquyết tâm của những cụ già tham dự Hội nghị Diên Hồng đã tiếp sức cho vua quan nhà Trần làm nên chiến thắng giặc Nguyên Mông vô cùng oanh liệt vào thế kỷ XIII. Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách. Khi Tổ quốc lâm nguy, những tu sĩ Phật giáo như Sư chùa Yên Quốc, những tín đồ Phật giáo như vua Trần Trùng Quang làm sao có thể an tâm tụng đọc câu kinh Bát Nhãsắc tức thị không, không tức thị sắc” để xóa nhòa ranh giới giữa bạn và thù ?

3.
Vào chiều chủ nhật ngày 3 tháng 2 năm Đinh Hợi (23.2.1947), ở ngọai ô thành phố Huế, không biết hưởng ứng cuộc kháng chiến chống Pháp của Việt Minh tích cực đến mức nào mà vị tu sĩ trẻ ưu tú của Phật giáo Việt Nam thời phục hưngPháp sư Trí Thuyên đã bị thực dân Pháp thi hành án tử ngay tại chùa Kim Sơn!? Bằng tiếng Pháp, Thầy yêu cầu viên sĩ quan chỉ huy lính viễn chinh dành ít phút để đắp y và tụng đọc một thời kinh trước mũi súng của giặc ngoại xâm.(8) Chúng tôi nghĩ rằng, trong khung cảnh thiêng liêng mà hùng tráng này, thời kinh siêu độ không thể thiếu bài kinh Bát Nhã: “Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc,…

Cùng với sự tích bi tráng của nghĩa sĩ Nguyễn Biểu năm xưa, sự hoá thân uy linh của Tỳ kheo Thích Trí Thuyên vào giữa thế kỷ XX vừa qua chứng tỏ Phật giáo Việt luôn đồng hành với dân tộc Việt để cùng chia sẻ những mất mát và đau thương do những thế lực ngoại lai phi dân tộc và phản dân tộc đã và đang liên tục gây ra. Phật tử chúng ta tin tưởng rằng, dù phải chịu đựng vô vàn thử thách và gian nguy, dân tộc và đạo pháp vẫn tồn tại , như ngọc cháy trên núi mà sắc vẫn sáng đẹp, như sen đốt trong lò mà màu vẫn tốt tươi :

Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận,
Liên phát lô trung thấp vị can.” (9)

Hà Thúc Hoan
TP. HCM 1.6.11

Chú thích

(1) Nguyễn Trãi, Bình Ngô đại cáo ( bản dịch của Trần Trọng Kim)
(2) Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, quyển 1, Trung tâm học liệu xuất bản, Sài Gòn, 1971, tr.204.
(3) – Bài thơ vua Trần Trùng Quang tiễn tặng Nguyễn Biểu lúc đi sứ ;
- Bài thơ Nguyễn Biểu họa lại;
- Bài thơ Nguyễn Biểu làm lúc ăn cỗ đầu người.
(4) Nguyễn Du, Truyện Kiều
(5) (6) (7) Dẫn theo Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, quyển 2, Quốc học tùng thư, Sài Gòn, 1968, tr.63,64.
(8) Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm, Lịch sử Phật giáo xứ Huế, Nxb TP.Hồ Chí Minh, TP.HCM,2001, tr.507,508.
(9) Ngộ Ấn Thiền Sư, Thị tịch

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1747)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1608)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1485)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1262)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
(Xem: 1396)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
(Xem: 1347)
Nhiều Thiền sư tiếp cận với cộng đồng Hoa Kỳ và Tây phương, trong những thời gian đầu dạy Thiền, thường tránh nói về giới,
(Xem: 1392)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
(Xem: 1354)
Ăn chay là một thói quen ăn uống phổ biến gần gũi với tinh thần từ bi của Phật giáo.
(Xem: 1311)
“Xứng tánh làm Phật sự” là một câu trong bài nguyện hương mở đầu cho bất kỳ thời tụng kinh nào.
(Xem: 1521)
Sinh tử phiền não của mỗi người, đều phải dựa vào công năng tu hành của chính bản thân để đạt được giải thoát;
(Xem: 1601)
Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh.
(Xem: 1654)
Trong cuộc sống, dù khôn khéo hay thánh thiện đến mấy thì không một ai có thể tránh khỏi bị miệng lưỡi người đời chê trách,
(Xem: 1533)
Rất khó tìm hạnh phúcthế gian này. Thật vậy, khi nhìn quanh, ta không thấy gì ngoài đau khổ, phiền muộnhỗn loạn.
(Xem: 1501)
An cưcấm túc ở một chỗ, hạn chế tuyệt đối sự đi lại và nỗ lực tu học trong ba tháng mùa mưa, gọi là kiết hạ.
(Xem: 1275)
Trung Luận của Bồ tát Long Thọ phá trừ mọi bám chấp thuộc về kiến (cái thấy, quan niệm) của con người để hiển bày tánh Không.
(Xem: 1433)
Giáo pháp của Đức Phật nhằm hướng dẫn, giúp chúng sinh đối trị, vượt qua phiền não của chính mình để chuyển hóa thân tâm
(Xem: 1397)
Giới lớn nhất là giới bình đẳng. Phải thấy tâm bình đẳng. Phải giữ tâm bình đẳng.
(Xem: 1471)
Trong tâm lý học, cảm tính là một nội hàm bao gồm những cảm xúc bên trong con người, là một quá trình
(Xem: 1508)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 1584)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn và quan trọng hơn nữa là ...
(Xem: 1432)
Thân thể đau nhức mỏi nhừ, từng đốt xương rã rời như rụng rơi, những sợi cơ dường đã xơ cứng vô dụng,
(Xem: 1559)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau.
(Xem: 1456)
Khi tâm thanh tịnh, người ta sẽ thấy thế giới thanh tịnh. Kinh Duy Ma Cật, phẩm Phật quốc thứ nhất, Đức Phật nói với trưởng giả Bảo Tích:
(Xem: 1410)
Cái ta trong đạo Phật gọi là ngã, trong triết học gọi là bản ngã, còn cái của ta gọi là ngã sở, tức là những sở hữu của cái ta.
(Xem: 1494)
rong hệ thống triết học và lề lối suy nghĩ của Tây Phương thì thế giới này có thật, sơn hà đại địa, con người và cái Tôi hay cái Ngã
(Xem: 1405)
Lần giở từng trang kinh Trung bộ - một trong 5 bộ kinh thuộc Kinh tạng Pāli, người đọc có thể dõi theo những bước chân của Đức Phật
(Xem: 1583)
Trong kiếp sống nhân sinh đầy gió bụi này, ai cũng mang trên người một chữ NGHIỆP.
(Xem: 1852)
Thế gian này đang quá nhiều bi thương, bởi con người còn đầy dẫy tham sân si, sống ích kỷ, đố kỵ, chỉ biết lo thâu tóm cho riêng mình,
(Xem: 1539)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1836)
“Phật Pháp cao siêu rất nhiệm mầu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Nay con nghe thấy chuyên trì tụng Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu”
(Xem: 1419)
Đôi khi những điều hữu ích nhất mà chúng ta học được không đến từ những người thầy mà từ những người như chúng ta, chỉ đang cố gắng để làm tốt nhất có thể với cuộc sống này.
(Xem: 1357)
Việt Nam cũng như cộng đồng Phật giáo Việt Nam hải ngoại, Phật giáo bắc truyền chiếm đa số, phần lớn tu sĩcư sĩ đều tu học theo truyền thống bắc tông.
(Xem: 1568)
Phật pháp lớn như biển, tin là con người có khả năng, nghi là khả năng chướng ngại.
(Xem: 1425)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1507)
Trong câu chuyện hằng ngày, thỉnh thoảng chúng tôi có nghe một vài thiền sinh nhắc đến cụm từ “Vạn pháp tùy duyên”,
(Xem: 1658)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là ...
(Xem: 1859)
Nhiều người hôm nay đang mạnh khỏe, rồi bỗng dưng ngã bệnh và chết ngay hôm sau.
(Xem: 1887)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất.
(Xem: 1708)
Vô sanh là một từ được nói trong kinh điển cả hệ Pali và hệ Sanskrit, và trong mọi tông phái, để chỉ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 1902)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình.
(Xem: 1580)
Trong cuộc sống thì sự vật hiện tượng luôn thay đổi không ngừng, trong sự biến chuyển vô thường không cố định thì bất cứ hiện tượng sự vật...
(Xem: 1531)
Đức Phật dạy chúng ta phát triển giá trị nội tại bằng cách thiền quán về thiện ý, nhưng bạn phải có ý định thực hiện điều đó thì mới thực sự có kết quả
(Xem: 2068)
Mục tiêu của Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka, Gandavyuha) là giúp ta có được cuộc sống an nhiên, tự tại, hạnh phúc ngay ở đây và bây giờ…
(Xem: 1664)
Có hai loại Bồ Đề Tâm: Bồ Đề Tâm Nguyện và Bồ Đề Tâm Hạnh.
(Xem: 1591)
Một thời đức Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikaṁba. Lúc ấy, thôn trưởng Asibandhakaputta đến gặp Đức Thế Tôn;
(Xem: 1528)
Quá nửa đời người rong ruổi giữa dòng đời, một ngày kia y soi kiếng chợt nhận thấy...
(Xem: 1515)
Khi giác hạnh đã viên mãn thì thọ mệnh Đức Phật tuổi đã bát tuần (80).
(Xem: 1592)
Giới luật là nền tảng căn bản của đạo giải thoát. Người tu nếu không tuân giữ đúng theo giới luật mà Phật đã răn cấm, thì ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant