Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ẩn sĩ lừa dối

03 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 18658)
Ẩn sĩ lừa dối

blank

Trong khi trú tại tinh xá Kỳ Viên, đức Thế Tôn kể câu chuyện này về một kẻ lừa đảo.

* * *

Thuở xưa, khi vua Phạm Dự (Brahmadatta) trị vì Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh làm một con Tắc kè. Bấy giờ, có một ẩn sĩ khổ hạnh sống trong một thảo am gần một ngôi làng ở vùng biên địa. Vị này đã chứng được năm Thắng trí và rất được dân làng kính trọng. Trong khi đó, Tắc kè sống tại một gò mối nằm ở cuối con đường mà vị ẩn sĩ đi kinh hành, và mỗi ngày hai hoặc ba lần Tắc kè đi đến chỗ ẩn sĩ để nghe giảng pháp. Và vì kính trọng bậc giới đức này nên Tắc kè đã rời bỏ trú xứ của mình để đến đấy sống. Sau một thời gian, vị ẩn sĩ tạm biệt dân làng và ra đi. Khi vị này đi rồi, có một ẩn sĩ giả dối đến thảo am ấy sống. Nghĩ rằng người mới đến này cũng đầy đủ giới đức, Tắc kè đã đối xử với ông ta như đối với vị ẩn sĩ trước đây.

Một hôm, vào mùa khô hạn, một cơn mưa dông bất chợt đổ xuống và trận mưa đã làm cho những con kiến bò ra khỏi tổ. Rồi khi những con tắc kè bò ra ngoài để ăn kiến, chúng đã bị dân làng bắt đi rất nhiều. Chúng được xào trộn với dấm và đường để đem cúng cho vị ẩn sĩ. Khoái khẩu với món ăn này, vị ẩn sĩ bèn hỏi đó là món thịt gì và được trả lời cho biết đó là món thịt tắc kè.

Nghe thế, vị ẩn sĩ nghĩ ngay đến con Tắc kè xinh đẹp sống gần thảo am của mình và quyết định giết chết nó để ăn thịt. Thế là ông ta chuẩn bị sẵn xoong chảo cùng với gia vị để xào nấu thịt tắc kè. Rồi dấu một cái vồ bên dưới chiếc y, ông ta ngồi nơi cửa thảo am chờ Tắc kè đến với một thái độ hết sức bình thản. Vào buổi chiều, Tắc kè đi đến. Và khi đi đến gần, Tắc kè nhìn thấy vị ẩn sĩ ấy hoàn toàn không giống với thường ngày: ông ta ngồi chờ mình với một thái độ báo hiệu điều gì đó không tốt sắp xảy ra. Đứng phía dưới ngọn gió từ hướng thảo am của vị ẩn sĩ, Tắc kè ngửi thấy mùi thịt tắc kè, và ngay lập tức nhận ra rằng chính mùi vị thịt tắc kè đã khiến cho ẩn sĩ kia muốn dùng vồ giết mình ăn thịt. Vì thế, Tắc kè bèn quay lại hang của mình mà không viếng thăm vị ẩn sĩ nữa. Nhìn thấy Tắc kè không đến, vị ẩn sĩ nghĩ rằng Tắc kè chắc đã đoán biết mưu đồ của mình, và ông ta phân vân không biết vì sao Tắc kè lại biết được điều đó. Quyết không để Tắc kè trốn thoát, vị ẩn sĩ liền rút cái vồ ra và ném vào Tắc kè, nhưng cái vồ chỉ trúng vào mút đuôi. Nhanh như cắt, Tắc kè chạy vội vào hang, rồi sau đó thò đầu ra một cái lỗ khác và nói:

- Này kẻ lừa dối bất lương kia, y áo của người đã khiến cho ta tin ngươi, nhưng bây giờ ta biết được bản chất thấp hèn độc ác của ngươi. Một kẻ ăn cướp như ngươi thì có xứng đáng khi khoác y áo ẩn sĩ không?

Quở trách vị ẩn sĩ lừa dối như vậy xong, Tắc kè đọc lên bài kệ này:

Tóc bện cùng với y vỏ cây
Phải chăng bắt chước vị trước đây?
Ngươi thật không phải người giới hạnh
Dơ bẩn xấu xa ngươi chứa đầy.

Bằng bài kệ này, Tắc kè đã vạch trần tâm địa độc ác xấu xa của vị ẩn sĩ, rồi sau đó rút vào trong gò mối. Còn vị ẩn sĩ khổ hạnh độc ác kia sau đó đã bỏ đi nơi khác.

* * *

Kết thúc pháp thoại, đức Thế Tôn nhận diện Tiền thân:

- Thuở đó, kẻ lừa dối này là ẩn sĩ độc ác, Xá-lợi-phất là vị ẩn sĩgiới hạnh mà trước đó đã sống ở thảo am, còn ta chính là con Tắc kè.
(Tiền thân Godha, số 138, dịch từ bản tiếng Anh)

Lời bàn:

Khoác lên mình chiếc áo của một người tu, bề ngoài tỏ ra có đầy đủ đức hạnh, nhưng bên trong lại đầy tham dụcdối trá thì đây là một kẻ nguy hiểm và đáng sợ nhất. Bởi vì với một hình thức bề ngoài như vậy, kẻ này rất dễ dàng đánh lừa người khác, vì thói thường người ta vẫn hay nhìn nhận người khác qua hình tướng bên ngoài. Câu chuyện Tiền thân trên đây là một minh chứng cho điều đó:

Vị ẩn sĩ kia là một kẻ đầy tham dục, lòng còn chứa đầy dối trá, nhưng với y áo và cái lốt của một ẩn sĩ, ông ta đã dễ dàng đánh lừa được tắc kè trong một thời gian dài. Và tắc kè, vì tin tưởngtôn kính, chút nữa đã bị mất mạngcon người này. Nhưng may cho tắc kè là cuối cùng nó đã kịp phát hiện ra được bản chất của con người này. Và lời mà tắc kè nói với vị ẩn sĩ được trích dẫn lại sau đây là điều khiến chúng ta cần phải suy ngẫm, và cũng là bài học được rút ra từ câu chuyện này: “Này kẻ lừa dối bất lương kia, y áo của người đã khiến cho ta tin ngươi, nhưng bây giờ ta biết được bản chất thấp hèn độc ác của ngươi. Một kẻ ăn cướp như ngươi thì có xứng đáng khi khoác y áo ẩn sĩ không?”

Nguồn: Tập San Pháp Luân 16

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2770)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2543)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2238)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2669)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2542)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2375)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2679)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2453)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3270)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2333)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2424)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2557)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2477)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2557)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2225)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2591)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3062)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2658)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2727)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3015)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2576)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2619)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4120)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2784)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3084)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3325)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2295)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2529)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2813)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3015)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2882)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2629)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2641)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3196)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2600)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2281)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2397)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2492)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2609)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2701)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2765)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3281)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2569)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2137)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2609)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2061)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2834)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2931)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2961)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2731)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant