Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hoa Sen trước gió

07 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 14964)
Hoa Sen trước gió


Có thể nói vạn vật hữu hình khó đứng vững và tồn tại trước những cơn thịnh nộ của bão tố. Thế nhưng, đôi khi đâu đó cũng có những cành hoa bé nhỏ yếu ớt đã sẵn sàng trụ lại sau những cơn cuồng nộ của tự nhiên. Nó vươn dậy trổ hoa, tỏa hương và làm thành “giới hương bất tử” lan tỏa vào không gian, đi vào trong sử sách. Đó là hoa sen, tên hiệu của một vị thiền sư nổi tiếng thời nhà Nguyễn, thiền sư Liên Hoa.

Thiền sư Liễu Đạt – Thiệt Thành, hiệu Liên Hoa (?- 1823), (hiệu này do vua Minh Mạng phong cho) tên họ là gì? Sinh năm nào và quê quán ở đâu thì không thấy sử sách ghi chép. Chỉ biết thiền sư “viên tịch” trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt, “tự thiêu” để bảo toàn phẩm hạnh của người xuất gia?

Thiền sư Liễu Đạt – Thiệt Thành thuộc phái thiền Lâm Tế, đời thứ 35, là đệ tử của thiền sư Minh Vật - Nhất Tri (?- 1786), có lẽ thiền sư xuất gia tu học với thiền sư Minh Vật - Nhất Tri ở chùa Kim Cang (Bình Thảo, Đồng Nai)? Do tư chất thông minh và phẩm hạnh nghiêm mật nên được vua xuống sắc, triệu ra kinh đô Huế để giữ chức Tăng cang chùa Thiên Mụ (1813-1823) và được cử làm pháp sư giảng thuyết Phật pháp trong nội cung của vua Gia Long. Và cũng chính từ đó nghiệp duyên cứ đeo đuổi và gây khá nhiều sự phiền toái cho thiền sư về sau này.

Sử truyện kể lại rằng, thiền sư là người rất hảo tướng, oai nghiêm, đỉnh đạc, thông minh, có tài hùng biện và thuyết giảng Phật pháp rất hay nên được đông đảo quần chúngPhật tử mến mộ tài năng và phẩm hạnh của Người. Tiếng lành của thiền sư đã chinh phục khá đông đảo Phật tử trong nội cung và các quần thần của triều Nguyễn lúc bấy giờ. Thiền sư có rất nhiều đệ tử trong hoàng cung, trong số đệ tử đó có một vị Hoàng cô (cô của vua Minh Mạng) cũng quy y và thọ Bồ-tát giới, pháp danh Tế Minh, tự Thiên Nhựt. Do cảm mến và quá hâm mộ tài năng cũng như đức độ của Thiền sư nên đã có ý định ràng buộc duyên trần cùng với người. Do thiền sư luôn tỉnh giác và là người có trí tuệ nên đã chọn phương pháp “tránh duyên” bằng cách xin về trụ trì chùa Từ Ân ở Gia Định. Lúc này thiền sư Phật Ý Linh Nhạc (1725- 1821), trụ trì Sắc Tứ Từ Ân tự đã viên tịch

Thế rồi vào một buổi sáng đẹp trời tháng mười, năm Quý Mùi (1823), thiền sư đang uống trà và đàm đạo cùng với đồ chúng chùa Sắc Tứ Từ Ân, bỗng có tin từ quan trấn thủ Gia Định vào cho hay là Hoàng cô vâng lệnh vua (Minh Mạng) vào Gia Định để cúng dường chùa Sắc Tứ Từ Ân và chùa Quốc Ân Khải Tường . (Trước đây chùa có tên Khải Tường, trong thời gian (1789- 1802) Nguyễn Phước Ánh trung hưng ở Gia Định, Nguyễn Vương và triều thần ngụ tại chùa Từ Ân; các vương phi, công chúa… ngụ tại chùa Khải Tường. Năm 1791, hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm - sau này là vua Minh Mạng- đã chào đời tại ngôi chùa này. Sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã sắc phong là Quốc Ân Khải Tường tự). Nhận được tin này, thiền sư phần nào cũng lo âu, bởi lẽ “chúng sanh” bản tánh cang cường khó thay đổi (Hoàng cô) không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Mặc dù, thiền sư đã biết mình uyên thâm Phật pháp. Nhưng đang sống trong một xã hội quân chủ, quyền sinh sát nằm trong tay một người, đó là thiên tử, cháu của “chúng sanh” cang cường này.

Thiền sư đích thân cầu thỉnh, vấn kế thiền sư Tổ Tông Viên Quang (1758-1827), trụ trì chùa Giác Lâm, Phú Thọ. Thiền sư Tổ Tông Viên Quang khuyên can và bảo rằng: nếu Hòa thượng lánh mặt bất ngờ thì sẽ mang tội với triều đình, làm cho chư Tăng cùng Phật tử xôn xao, nghi ngờ thắc mắc… sẽ gây nhiều dư luận không tốt và có thể gây nhiều biến động rắc rối hơn. Thiền sư Tổ Tông Viên Quang khuyên Hòa thượng hãy định tâm, cố gắng giữ cho tâm được bình thản và sinh hoạt tự nhiên như mọi ngày, cầu nguyện chư Phật hộ trì, giúp cho sáng suốt để giải quyết công việc hợp tình và hợp lý.

Thiền sư Liên hoa về chùa chuẩn bị đón tiếp Hoàng cô. Lễ tiếp đóncúng dường diễn ra tốt đẹpviên mãn. Hoàng cô ở lại chùa Sắc Tứ Từ Ân, mỗi sáng thiền sư Liên Hoa phải tiếp kiến và hầu chuyện bình thường. Nhưng đến sáng thứ ba không biết có sự việc đặc biệt khác thường gì không, mà đến sáng sớm ngày ấy Hoàng cô ở chùa, mà không thấy thiền sư đến tiếp kiến như mọi hôm. Hỏi Tăng chúng thì không ai hay biết, chỉ có Sa di Mật Dĩnh là thị giả của thiền sư biết nhưng không dám hé môi.

Do tâm bịnh nên sức khỏe Hoàng cô ngày một sa sút trầm trọng. Sợ nguy hại cho bổn tự nên Sa di Mật Dĩnh đành phải nói sự thật. Thiền sư đã lên chùa Đại GiácCù lao Phố, tỉnh Biên Hòa để nhập thất hai năm. Được tin này, Hoàng cô thông báo với quan trấn Gia Định là mình lên chùa Đại Giác để cúng dường. Quan tổng trấn cử phái đoàn hộ tống Hoàng cô lên chùa Đại Giác. Sau khi đến chùa dâng lễ cúng dường và nhờ thị giả Mật Dĩnh đưa đến tịnh thất của thiền sư Liên Hoa. Hoàng cô với tâm thành kính đảnh lễ trước tịnh thất và xin gặp mặt thiền sư lần cuối trước khi hồi kinh. Thiền sư không trả lời. Hoàng cô suy nghĩ kế khác, sau đó quỳ trước cửa thất thưa rằng: “ nếu Hoà thượng không tiện ra tiếp, xin Hoà thuợng cho con nhìn thấy bàn tay của Hòa thượng, đệ tử cũng hân hoan mà ra về”. Im lặng vài phút thiền sư đưa bàn tay ra cửa nhỏ nơi đưa thức ăn vào thất, Hoàng cô vội ôm bàn tay hôn một cách trìu mến, rồi sụp lạy xuống và khóc sướt mướt. Nhưng sau đó bà cho biết là ở lại chùa Đại Giác nghỉ ngơi vài ngày trước khi hồi kinh.

Đêm hôm ấy, vào khoảng canh ba, trong khi mọi người đang yên giấc, bỗng thấy tịnh thất của thiền sư phát hỏa, mọi người chạy ra dập lửa thì tịnh thất đã cháy rụi. Nhục thân của thiền sư cũng cháy đen. Mọi người đang bàn tán, xôn xao, có người phát hiện bài kệ của thiền sư viết bằng mực đen trên vách chánh điện:

THIỆT đức rèn kinh vẹn kiếp trần
THÀNH không vẩn đục vẫn trong ngần
LIỄU tri mộng huyễn chơn như huyễn
ĐẠT đạo mình vui đạo mấy lần.

Qua bài kệ trên chúng ta thấy rằng, thiền sư Liên Hoa là người rất uyên thâm Phật pháp, biết cuộc đời này là mộng huyễn ảo ảnh. Người đã dùng ngọn lửa để thức tỉnhgiáo hóa Hoàng cô. Nhưng có lẽ do duyên nghiệp nhiều đời nhiều kiếp giữa hai người, nên ngọn lửa ấy đã không đạt được kết quả như mong muốn. Tuy nhiên qua câu chuyện này, hàng hậu côn chúng ta cũng rút ra được bài học vô cùng quý báu. Một người vừa hảo tướng vừa tài năng đôi khi cũng dễ gặp những chướng duyên trên bước đường tu học. Điều này đã được báo trước và người nhận ra mối nguy hại ban đầu cũng như tiên đoán chính xác sự việc đó là thiền sư Phật Ý - Linh Nhạc. Ngài tiên đoán “ sư Liễu Đạt (Thiệt Thành, hiệu Liên Hoa) không tránh khỏi mối dây ràng buộc của nghiệp trần duyên vì thiền sư Liễu Đạttướng hảo, có tài thuyết giảng và khoa ăn nói, lại giảng giải trong nội cung, gần nhiều giới nữ sắc quyền quý”. Và điều đó đã ứng nghiệm như thật qua câu chuyện. Các vị thiền sư xưa kia, bằng công phu tu tập, năng lực thiền định đã nhận ra tương lai của một người nào đó đối diện với mình, phần còn lại chỉ do họ có nỗ lực để chuyển hóagiải quyết sự việc đó đúng theo tinh thần nhân quả của nhiều đời, nhiều kiếp hay không?

Cuộc đờisự nghiệp của một vị thiền sư tài năng, đạo hạnh nổi danh một thời như thế, nhưng phải nhờ ngọn lửa để giữ gìn giới thân huệ mạng là điều chúng ta ngày nay phải cần suy ngẫm. Có một vài người cho rằng cách giải quyết vấn đề như thế là tiêu cực, không lối thoát, chưa trọn vẹn với tinh thần chánh pháp… Phải chăng những nhận xét như vậy là quá gay gắt với tiền nhân?! Người viết cho rằng, khi mình đã là “thần tượng” của quần chúng Phật tử, nhất là thần tượng của giới trí thức quan lại triều đình thì việc “tự thiêu” không chỉ bảo tồn giới thân huệ mạng cho riêng mình mà còn là việc bảo vệ danh dự cho hàng vạn Tăng lữ và hàng triệu tín đồ đã một thời kính trọng và ngưỡng mộ tài đức của mình. Việc làm ấy cũng đủ để hậu thế đảnh lễ tán thán và noi gương theo công hạnh của Người.

Thời đức Phật còn tại thế, Ngài đã thuyết tam bất năng (bất năng miễn định nghiệp, bất năng độ vô duyên, bất năng tận sanh giới). Chính vì tam bất năng này mà hàng hậu học hôm nay hiểu được vì sao thiền sư Liên Hoa đã dùng ngọn lủa “thiêu thân” để bảo toàn phẩm hạnh của mình. 

Trước phong ba bão táp mọi vật có thể bị hủy diệt và cuốn trôi theo chiều gió, chỉ hương người đức hạnh mới trụ lại được và bay ngược lại chiều gió mà thôi. Hương của hoa sen thoang thoảng đâu đây, hình ảnh thiền sư Liên Hoa lại hiện về trong tâm trí của những người đang đi trên lộ trình giải thoát. Chấp tay búp sen con nhớ lại hình ảnh Ngài, cúi đầu đảnh lễ cành hoa sen trước gió.☸

Nguồn: Tập San Pháp Luân 18


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1352)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
(Xem: 1319)
Ăn chay là một thói quen ăn uống phổ biến gần gũi với tinh thần từ bi của Phật giáo.
(Xem: 1273)
“Xứng tánh làm Phật sự” là một câu trong bài nguyện hương mở đầu cho bất kỳ thời tụng kinh nào.
(Xem: 1470)
Sinh tử phiền não của mỗi người, đều phải dựa vào công năng tu hành của chính bản thân để đạt được giải thoát;
(Xem: 1550)
Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh.
(Xem: 1594)
Trong cuộc sống, dù khôn khéo hay thánh thiện đến mấy thì không một ai có thể tránh khỏi bị miệng lưỡi người đời chê trách,
(Xem: 1481)
Rất khó tìm hạnh phúcthế gian này. Thật vậy, khi nhìn quanh, ta không thấy gì ngoài đau khổ, phiền muộnhỗn loạn.
(Xem: 1430)
An cưcấm túc ở một chỗ, hạn chế tuyệt đối sự đi lại và nỗ lực tu học trong ba tháng mùa mưa, gọi là kiết hạ.
(Xem: 1232)
Trung Luận của Bồ tát Long Thọ phá trừ mọi bám chấp thuộc về kiến (cái thấy, quan niệm) của con người để hiển bày tánh Không.
(Xem: 1366)
Giáo pháp của Đức Phật nhằm hướng dẫn, giúp chúng sinh đối trị, vượt qua phiền não của chính mình để chuyển hóa thân tâm
(Xem: 1340)
Giới lớn nhất là giới bình đẳng. Phải thấy tâm bình đẳng. Phải giữ tâm bình đẳng.
(Xem: 1425)
Trong tâm lý học, cảm tính là một nội hàm bao gồm những cảm xúc bên trong con người, là một quá trình
(Xem: 1443)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 1521)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn và quan trọng hơn nữa là ...
(Xem: 1380)
Thân thể đau nhức mỏi nhừ, từng đốt xương rã rời như rụng rơi, những sợi cơ dường đã xơ cứng vô dụng,
(Xem: 1480)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau.
(Xem: 1386)
Khi tâm thanh tịnh, người ta sẽ thấy thế giới thanh tịnh. Kinh Duy Ma Cật, phẩm Phật quốc thứ nhất, Đức Phật nói với trưởng giả Bảo Tích:
(Xem: 1348)
Cái ta trong đạo Phật gọi là ngã, trong triết học gọi là bản ngã, còn cái của ta gọi là ngã sở, tức là những sở hữu của cái ta.
(Xem: 1410)
rong hệ thống triết học và lề lối suy nghĩ của Tây Phương thì thế giới này có thật, sơn hà đại địa, con người và cái Tôi hay cái Ngã
(Xem: 1362)
Lần giở từng trang kinh Trung bộ - một trong 5 bộ kinh thuộc Kinh tạng Pāli, người đọc có thể dõi theo những bước chân của Đức Phật
(Xem: 1540)
Trong kiếp sống nhân sinh đầy gió bụi này, ai cũng mang trên người một chữ NGHIỆP.
(Xem: 1783)
Thế gian này đang quá nhiều bi thương, bởi con người còn đầy dẫy tham sân si, sống ích kỷ, đố kỵ, chỉ biết lo thâu tóm cho riêng mình,
(Xem: 1476)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1783)
“Phật Pháp cao siêu rất nhiệm mầu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Nay con nghe thấy chuyên trì tụng Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu”
(Xem: 1377)
Đôi khi những điều hữu ích nhất mà chúng ta học được không đến từ những người thầy mà từ những người như chúng ta, chỉ đang cố gắng để làm tốt nhất có thể với cuộc sống này.
(Xem: 1293)
Việt Nam cũng như cộng đồng Phật giáo Việt Nam hải ngoại, Phật giáo bắc truyền chiếm đa số, phần lớn tu sĩcư sĩ đều tu học theo truyền thống bắc tông.
(Xem: 1509)
Phật pháp lớn như biển, tin là con người có khả năng, nghi là khả năng chướng ngại.
(Xem: 1367)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1437)
Trong câu chuyện hằng ngày, thỉnh thoảng chúng tôi có nghe một vài thiền sinh nhắc đến cụm từ “Vạn pháp tùy duyên”,
(Xem: 1587)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là ...
(Xem: 1807)
Nhiều người hôm nay đang mạnh khỏe, rồi bỗng dưng ngã bệnh và chết ngay hôm sau.
(Xem: 1828)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất.
(Xem: 1637)
Vô sanh là một từ được nói trong kinh điển cả hệ Pali và hệ Sanskrit, và trong mọi tông phái, để chỉ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 1826)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình.
(Xem: 1526)
Trong cuộc sống thì sự vật hiện tượng luôn thay đổi không ngừng, trong sự biến chuyển vô thường không cố định thì bất cứ hiện tượng sự vật...
(Xem: 1489)
Đức Phật dạy chúng ta phát triển giá trị nội tại bằng cách thiền quán về thiện ý, nhưng bạn phải có ý định thực hiện điều đó thì mới thực sự có kết quả
(Xem: 2011)
Mục tiêu của Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka, Gandavyuha) là giúp ta có được cuộc sống an nhiên, tự tại, hạnh phúc ngay ở đây và bây giờ…
(Xem: 1587)
Có hai loại Bồ Đề Tâm: Bồ Đề Tâm Nguyện và Bồ Đề Tâm Hạnh.
(Xem: 1535)
Một thời đức Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikaṁba. Lúc ấy, thôn trưởng Asibandhakaputta đến gặp Đức Thế Tôn;
(Xem: 1484)
Quá nửa đời người rong ruổi giữa dòng đời, một ngày kia y soi kiếng chợt nhận thấy...
(Xem: 1459)
Khi giác hạnh đã viên mãn thì thọ mệnh Đức Phật tuổi đã bát tuần (80).
(Xem: 1536)
Giới luật là nền tảng căn bản của đạo giải thoát. Người tu nếu không tuân giữ đúng theo giới luật mà Phật đã răn cấm, thì ...
(Xem: 1402)
Thông thường, người thực hành đạo Phật tìm cách tránh thoát cái vô thường, cái sanh diệt để chứng nhập cái không vô thường, cái không sanh không diệt.
(Xem: 1683)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(Xem: 1661)
Con người thường có quan điểm: “mạng sống, sự sống của con ngườivô giá, là giá trị nhất so với sự sống của muôn ngàn loài khác”
(Xem: 1512)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
(Xem: 1528)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
(Xem: 1396)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant