Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đào giếng giữa sa mạc

14 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 15173)
Đào giếng giữa sa mạc


Trong khi trú tại thành Xá-vệ (Sāvatthi), đức Thế Tôn đã kể câu chuyện về một thầy Tỳ-kheo thối chí.

Chuyện kể rằng, trong khi đức Thế Tôn đang trú tại thành Xá-vệ, có một thiện nam thuộc gia đình quý tộc sống ở thành Xá-vệ đã đến tinh xá Kỳ Viên để nghe đức Thế Tôn thuyết giảng. Sau khi nhận thấy rằng chính các dục là nguyên nhân của khổ đau, vị này đã phát tâm xuất gia. Sau năm năm sống đời xuất gia, khi đã học xong hai điển mục thiết yếu và tu tập những pháp môn thiền quán, thầy nhận lấy nơi đức Thế Tôn một đề tại Thiền quán thích hợp với bản thân mình rồi đi vào một khu rừng và trải qua kỳ an cư mùa mưa ở đó.

Mặc dù nỗ lực hết mình trong suốt ba tháng, thầy cũng không thể hiển bày được một chút Tuệ quán nào. Vì thế thầy nghĩ, “đức Thế Tôn nói có bốn hạng người, ta chắc chắn thuộc hạng người thấp kém nhất. Ta nghĩ rằng, trong kiếp này không có Đạo hay Quả nào dành cho ta. Vậy ta sống ở rừng làm gì nữa? Ta sẽ trở lại sống với đức Thế Tôn, chiêm ngưỡng vẻ đẹp sáng ngời của thân Phật và lắng nghe pháp ngữ cam lồ của Ngài.”

 

Nghĩ thế, thầy đã quay trở lại tinh xá Kỳ Viên. Thấy vậy, các pháp hữu của thầy nói:

- Pháp hữu, chính thầy đã nhận được đề tài Thiền quán từ nơi đức Thế Tôn và đã ra đi sống đời độc cư của một Sa-môn. Vậy sao thầy lại có mặt nơi đây, vui thích sống với hội chúng? Có thể nào thầy đã đạt được sở nguyện tối hậu của một Tỳ-kheo, và rằng thầy sẽ không bao giờ biết đến tái sinh nữa?

- Thưa các pháp hữu, tôi không đạt được Đạo cũng không đạt được Quả, cảm thấy mình không có khả năng nên thối thất và quay trở lại đây.

- Pháp hữu, thầy đã hành động sai trái, đã thể hiện một tâm tính bạc nhược khi đã phát nguyện đi theo giáo pháp của bậc Đạo sư hùng lực. Hãy đi với chúng tôi, chúng tôi sẽ đưa thầy đến bạch với đức Thế Tôn.

Và rồi họ đưa thầy cùng đi đến gặp đức Thế Tôn.

Khi đức Thế Tôn biết họ đến, Ngài nói:

- Này các Tỳ-kheo, các thầy đã đưa thầy Tỳ-kheo này đến đây trái với ý muốn của thầy này. Thầy này đã làm gì?

- Bạch đức Thế Tôn, sau khi đã phát nguyện đi theo giáo pháp chân thật tuyệt đối, thầy Tỳ-kheo này đã thối thất, từ bỏ đời sống độc cư của một Sa-môn và đã quay trở lại đây.

Nghe thế, đức Thế Tôn nói với thầy:

- Này Tỳ-kheo, như họ nói đấy, có thực là thầy đã thối thất tinh tấn không?

- Bạch đức Thế Tôn, thực đúng như vậy.

- Này Tỳ-kheo, tại sao như vậy khi chính thầy đã phát nguyện đi theo giáo pháp này? Tại sao thầy không thể hiện được một người ít muốn, biết đủ, độc cưkiên định, mà tự biểu hiện một người thiếu hẳn chí nguyện như vậy? Không phải vào đời quá khứ chính thầy là người đã từng tinh tấn, kiên định sao? Không phải chỉ một mình thầy, nhờ kiên gan bền chí mà khi ở trong sa mạc đã giúp cho người và bò của một đoàn lữ hành năm trăm cỗ xe kiếm được nước và được vui sướng sao? Bây giờ tại sao thầy lại thối thất?

Nghe những lời như vậy, thầy Tỳ-kheo này cảm thấy được khích lệ sách tấn. Còn các Tỳ-kheo, khi nghe nói vậy, đã thỉnh cầu đức Thế Tôn:

- Bạch Thế Tôn, hiện giờ thầy Tỳ-kheo này từ bỏ tinh tấn thì chúng con biết rõ. Nhưng chúng con không biết được tại sao, chỉ bằng sự kiên gan bền chí của một người này mà người và bò kiếm được nước uống trong sa mạc và có được an lạc. Chỉ Thế Tôn là bậc Toàn trí biết được việc này. Xin kể cho chúng con việc đó.

- Này các Tỳ-kheo, hãy lắng nghe. Đức Thế Tôn nói.

Sau khi gợi sự chú tâm của các Tỳ-kheo, đức Thế Tôn trình bày rõ ràng câu chuyện quá khứ mà do vì tái sanh họ không thể nhận biết được.

* * *

Thuở xưa, khi Phạm Dự (Brahmadatta) là vua của kinh thành Ba-la-nại (Benares), thuộc vương quốc Ca-thi (Kāsi), Bồ-tát thọ sanh vào một gia đình thương nhân. Khi đến tuổi trưởng thành, cùng với năm trăm cỗ xe, Ngài thường đi buôn bán khắp nơi. Một lần nọ, Ngài băng qua một sa mạc rộng sáu mươi dặm. Cát của sa mạc rất mịn, nắm vào là tuột khỏi tay. Khi mặt trời mọc, cát trở nên nóng như một cái giường than hồng và không một ai có thể đi được trên đó. Do đó, những người vượt qua sa mạc thường mang củi, nước, dầu, gạo… theo trên xe và chỉ đi vào ban đêm. Vào lúc bình minh, họ thường sắp những cỗ xe lại thành một vòng tròn để tạo thành một trại phòng ngự, với một tấm vải bạt căng rộng phía trên. Rồi sau bữa ăn sớm, họ thường ngồi suốt ngày trong bóng râm. Đến khi mặt trời lặn, họ dùng buổi tối. Rồi đến lúc cát đã nguội, họ thắng ách xe và lại tiếp tục hành trình. Đi trên sa mạc này thì giống như đi trên biển cả vậy. Người được gọi là “Người dẫn đường sa mạc” phải dẫn dắt đoàn người đi qua sa mạc bằng việc chiêm tinh của mình. Và đây là phương cách mà bấy giờ Bồ-tát đang sử dụng để đi qua sa mạc đó.

Khi đoạn đường phía trước chỉ còn khoảng bảy dặm nữa, Bồ-tát nghĩ: “Tối hôm nay chúng ta sẽ ra khỏi sa mạc này.” Vì thế, sau khi cho đoàn người ăn buổi tối xong, Bồ-tát bảo vứt bỏ hết củi, nước, rồi thắng xe và lên đường. Người dẫn đường ngồi trên một chiếc ghế ở cỗ xe đi đầu để chiêm tinh và bằng cách đó định hướng đi. Nhưng do quá lâu không ngủ nên Ngài bị kiệt sức và ngủ thiếp đi, với hậu quả mà Ngài không để ý đến là đàn bò đã quay đầu và đang đi trở lại con đường cũ. Đàn bò cứ đi suốt cả đêm như vậy. Cho đến khi rạng đông, người dẫn đường thức dậy, chiêm tinh và hét lớn:

- Hãy quay các cỗ xe trở lại gấp! Hãy quay các cỗ xe trở lại gấp!

Nhưng khi đoàn xe đã quay trở lại và xếp thành hàng thì trời bắt đầu hé sáng. Đoàn người kêu lên:

- Đây chính là nơi chúng ta đã cắm trại ngày hôm qua. Chúng ta đã bỏ hết củi và nước. Chúng ta nguy khốn đến nơi rồi.

Nói vậy rồi, họ tháo ách xe, xếp thành một vòng tròn và căng một tấm bạt ở phía trên, sau đó mỗi người tự nằm xuống dưới xe của mình trong nỗi tuyệt vọng. Bồ-tát nghĩ, “Nếu ta thoái chí chịu thua, mọi người sẽ chết.” Vì thế khi trời còn sớm và mát, Bồ-tát đi lui đi tới tìm cách, mãi cho đến khi nhìn thấy một lùm cỏ kusa. Ngài nghĩ, “Chắc ở dưới này có nước nên loại cỏ này mới mọc được”. Vì thế, Ngài bảo đem đến một cái thuổng và cho đào một cái hố ngay tại chỗ đó. Những thương nhân đào sâu xuống sáu mươi khuỷu tay, cho đến khi thuổng đụng phải một tảng đá. Khi ấy mọi người trở nên thối chí và không đào nữa. Nhưng Bồ-tát nghĩ rằng dưới tảng đá đó chắc chắn có nước, nên Ngài nhảy vào trong hố và đứng trên tảng đá. Cúi người xuống, áp tai vào tảng đá, Bồ-tát nghe thấy tiếng nước đang chảy bên dưới. Ngài leo lên và nói với một người hầu việc:

- Này bạn, nếu bạn thoái chí, tất cả chúng ta sẽ bị nguy hại. Bạn hãy cố gắngcan đảm lên. Hãy cầm lấy cái búa tạ bằng sắt này, nhảy vào hố và đập vỡ tảng đá đó ra.

Vâng theo lời chủ, người này leo xuống hố và đập vỡ tảng đá, trong khi tất cả những người khác đều chán nản thối thất. Tảng đá chặn dòng nước vỡ nát ra và rơi sụp xuống. Dòng nước phun thẳng lên cao bằng cây cọ dừa. Mọi người uống nước và tắm. Sau đó họ chẻ những trục xe, ách xe và những thiết bị dư thừa khác để nấu cơm. Rồi sau khi ăn xong, họ cho đàn bò ăn. Đến lúc mặt trời lặn, họ cắm một cây cờ bên bờ giếng và đi đến nơi đã định. Ở đấy, họ đổi hàng hóa của mình để lấy những mặt hàng có giá trị gấp hai, gấp bốn lần, và sau đó quay trở lại nhà. Ở đấy, họ sống trọn đời, và đến khi mạng chung đã tái sanh theo hành nghiệp của mình. Còn Bồ-tát, sau khi trải qua một đời làm việc bố thíthực hành các thiện nghiệp, đến khi mạng chung cũng đã thọ sanh theo hành nghiệp của mình.

* * *

Khi thuyết xong pháp ngữ này, đức Phật Chánh Đẳng Giác, bậc Toàn Trí đã đọc lên bài kệ này:

Không thoái chí, đào sâu con đường cát
Cho đến khi tìm thấy nước trên đường.
Cũng như thế Tỳ-kheo nên tinh tấn
Tìm tịnh tâm, không thoái chí chán chường.

Kết thúc pháp ngữ này, đức Thế Tôn tuyên thuyết Tứ thánh đế. Vào lúc kết thúc các Thánh đế, thầy Tỳ-kheo thối thất tinh tấn này đắc được Thánh quả A-la-hán.

Sau khi kể xong hai câu chuyện và nối kết cả hai lại với nhau, đức Thế Tôn nhận diện Tiền thân:

– Vào thuở đó, Tỳ-kheo thối thất tinh tấn này là chàng trai giúp việc, kiên nhẫn đập vỡ tảng đá và lấy nước cho tất cả mọi người; đệ tử của Phật là đoàn người lái buôn còn lại, còn ta chính là người trưởng đoàn.

Lời bàn:

Siêng năng, bền chí, kiên định là những điều kiện không thể thiếu đối với những người mong muốn đạt đến thành công. Trong học tập cũng như trong công việc, lười biếng, thiếu ý chí, thiếu kiên định là những nguyên nhân đưa đến sự thất bại. Khó tìm đâu trên cõi đời này một người có được thành công mà người đó là một kẻ lười biếng, thiếu ý chí.

Trong đường đạo cũng thế, sẽ không có giác ngộ giải thoát dành cho những người giải đãi, thiếu tinh tấn dù người đó là một người có đủ tài trí. Tinh tấnyếu tố quan trọng như vậy nên nó được coi là một Đại thiện địa pháp trong số 75 pháp của Nam truyền, là một Thiện tâm sở trong số một trăm pháp của Đại thừa.

Trong cuộc sống, người ta thường thối chí vì do thiếu tự tin vào bản thân mình, hoặc do gặp phải những chướng ngại, hoặc do không có niềm tin vào công việc mà mình đang làm. Mỗi khi ta thấy mình không đủ khả năng để thực hiện một công việc nào đó, và nghĩ rằng công việc mà ta đang làm không mang lại một kết quả tốt đẹp, ta sẽ dễ dàng sinh tâm thối thất.

câu chuyện này, phần duyên khởi, thầy Tỳ-kheo kia đã thối chí, không tinh tấn tu tập nữa vì nhận thấy mình không đủ khả năng đạt đến Đạo và Quả, là những mục đích mà người xuất gia hướng đến. Bởi vì tự ti, không tin vào năng lực bản thân nên thầy đã chán nản và quay trở lại với đức Thế Tôn, từ bỏ chí nguyện ban đầu là vào rừng sống đời độc cư, tìm cầu giải thoát.

Ở phần chuyện quá khứ, nguyên nhân của sự thối chí lại do những chướng ngại ở bên ngoài gây ra, và cũng do thiếu niềm tin vào công việc mà mình đang làm. Những thương nhân này đã chán nản, mất hết nghị lực trong việc đào giếng tìm nước khi gặp phải một tảng đá lớn. Họ không đủ sức để vượt qua chướng ngại đó một phần do thiếu kiên định, một phần vì không thấy được công việc mà họ đang làm sẽ đưa đến đâu. Người thương nhân trưởng đoàn không nản chí bởi vì Ngài thấy được công việc mình đang làm, bởi vì Ngài nhận thức được rằng sự nản chí của mình sẽ đưa đến sự diệt vong của đoàn người, và bởi vì Ngài cũng nhận biết rằng dưới tảng đá kia chắc chắn sẽ có nước. Bởi vậy, biết rõ công việc, có niềm tin vào công việc là yếu tố giúp cho người ta có được sự tinh tấn trong khi thực hiện công việc của mình. Và sự tinh tấnyếu tố giúp người ta thành công trong cuộc sống. ☸

Dịch và lời bàn: Quang Sơn

* Tiền thân Vaṇṇpatha, số 2, bản Anh ngữ.

Nguồn: Tập san Pháp luân số 07


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 593)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 778)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1100)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1338)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 787)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 761)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 807)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 801)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 945)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 833)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1005)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 929)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 931)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 857)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1014)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 954)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 908)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 850)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 884)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1143)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 913)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1015)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1153)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1615)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1163)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1259)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 976)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 918)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 803)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1485)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1365)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1379)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1333)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1354)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1207)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1266)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant